Sử dụng thuốc vận mạch như noradrenalin, hoặc adrenalin đưỡng truyền tĩnh mạch liên tục, để đảm bảo huyết áp khi đã đánh giá tụt huyết áp.
Nhận định chung
Sốc nhiễm khuẩn là giai đoạn nặng của quá trình diễn biến liên tục bắt đầu từ đáp ứng viêm hệ thống do nhiễm khuẩn, nhiễm khuẩn nặng, sốc nhiễm khuẩn và suy đa tạng. Tỷ lệ do sốc nhiễm khuẩn chiếm từ 40 đến 60%. Vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể gây ra các đáp ứng viêm hệ thống làm giải phóng các cytokin gây viêm, có sự mất cân bằng giữa yếu tố gây viêm và yếu tố kháng viêm (yếu tố kháng viêm yếu hơn yếu tố gây viêm) dẫn đến gây tổn thương cơ quan thứ phát và tạo nên vòng xoắn suy đa tạng.
Nguyên nhân do vi khuẩn hoặc nấm từ các ổ nhiễm khuẩn xâm nhập vào máu từ:
Da, mô mềm, cơ xương khớp.
Đường tiêu hóa như: viêm ruột, nhiễm khuẩn đường mật, áp xe gan.
Đường hô hấp: viêm phổi, áp xe phổi, viêm phế quản, viêm mủ màng phổi...
Hệ tiết niệu như: viêm mủ bể thận, ứ mủ bể thận...
Hệ thần kinh: viêm màng não mủ, áp xe não...
Một số nhiễm khuẩn khác: như viêm nội tâm mạc cấp và bán cấp...
Phác đồ điều trị sốc nhiễm khuẩn
Nguyên tắc xử trí
Nhanh chóng, tích cực và mục tiêu cần đạt trong vòng 6 giờ đầu:
Duy trì áp lực tĩnh mạch trung tâm: 11 - 16 cmH2O.
Duy trì huyết áp trung bình ≥ 65 mmHg. - Duy trì ScvO2 ≥ 70% hoặc SvO2 ≥ 65%.
Thế tích nước tiểu ≥ 0,5 ml/kg/giờ.
Xử trí ban đầu và vận chuyển cấp cứu
Đảm bảo hô hấp và tuần hoàn để duy trì tính mạng cho người bệnh bằng các biện pháp:
Làm nghiệm pháp truyền dịch: truyền 1000 - 2000 ml dung dịch natriclorua 0,9% hoặc ringerlactat trong vòng 1 đến 2 giờ đầu ở những người bệnh tụt huyết áp do nhiễm khuẩn đảm bảo huyết áp trung bình ≥ 65 mmHg.