Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
10/11/2012 11:11 # 1
hyebin
Cấp độ: 13 - Kỹ năng: 11

Kinh nghiệm: 105/130 (81%)
Kĩ năng: 75/110 (68%)
Ngày gia nhập: 04/09/2011
Bài gởi: 885
Được cảm ơn: 625
NGHIỆP VỤ PHỤC VỤ ĂN UỐNG


NGHIỆP VỤ PHỤC VỤ ĂN UỐNG
GIỚI THIỆU VỀ DỊCH VỤ ĂN UỐNG

Mục tiêu:
Sau khi đọc xong chương trình này bạn cần phải :
§ Hiểu rõ lịch sử các món ăn.
§ Giải thích rõ những su hướng trong phong cách ăn uống của khách hàng thuộc các quốc tịch khác nhau, kể cả khách hàng nước sở tại.
§ Hiểu rõ tầm quan trọng cuả ngành du lịch và khách sạn đối với nền kinh tế của Việt nam.
§ Nêu được những l‎‎y do tại sao sản phẩm của ngành du lịch khác với sản phẩm của ngành khác.
§ Hiểu được vai trò của tổng cục du lịch Việt Nam ( TCDLVN).
§ Phân biệt được các khu vực thuộc ngành du lịch và khách sạn ở Việt Nam kể cả các loại hạng khách sạn khác nhau.
§ Hiểu rõ những lý‎ do tại sao nghề nghiệp của bạn trong ngành du lịch lại quan trọng.


GIỚI THIỆU:

Hầu hết các món mà chúng ta ăn và đồ uống chúng ta thưởng thức trong các quán ăn, nhà hàng và khách sạn đều có nguồn gốc từ những thực phẩm do chúng ta hay các nền văn hóa khác đã thường chế biến tại các nhà hàng qua nhiều thế kỷ. Nếu nhìn vào lịch sử các món ăn, ta có thể lần theo các quá trình phát triển của chúng để đi tới lịch sử của xã hội và văn hóa của một đất nước hay một vùng nhất định. Có nhiều nguyên nhân ảnh hưởng tới cách nguời ta phát triển một món ăn. Các nguyên nhân đó bao gồm:
• Khả năng sẵn có của những nguyên liệu tươi sống gầ nơi người ta chế biến ra món ăn đó. Trước đây, người ta không thể vận chuyển thực phẩm tươi sống đi xa. Vì thế dân cư sống sâu trong lòng đất liền không bao giờ được ăn cá biển trừ khi chúng ta đã được qua bảo quản ( phơi khô,hoặc ướp muối), còn những người ở xứ lạnh không biết dến gạo, bột mỳ để làm nhiều loại bánh có xuất xứ từ Châu Âu lại phụ thuộc vào tính sẵn có của loại lúa mỳ mọc ở vùng khí hậu ôn đới chứ không phải nhiệt đới. những thảo mộc và gia vị đặc trưng cho thức ăn Việt Nam chỉ sẵn có ở đất nước này chứ không phải ở các nước có khí hậu khác biệt.
• Khả năng dự trữ và bảo quản các thực phẩm dễ hư hỏng. Ngày nay, chúng ta có thể mua nhiều loại thực phẩm đông lạnh, hoặc bảo quản chúng theo nhiều cách khác nhau. Trước kia người ta nhất thiết phải ăn những gì có sẵn có ( như rau, hoa quả ) khi mới thu hoạch chúng hoặc đem bảo quản chúng dưới bất kỳ hình thức nào có thể ( ví dụ: hoa quả khô). Kết quả là, bữa ăn của người ta phản ánh tính sẵn có theo mùa của thực phẩm trong mùa đông phương bắc là nơi hầu như không trồng trọt hay săn bắn được, do đó thực phẩm các bữa ăn rất hạn chế và đơn điệu.
• Khă năng sẵn có của công nghệ chế biến và bảo quản. Việc chúng ta nấu món ăn như thế nào chiụ ảnh hưởng lớn bởi phương tiện nấu nướng. khả năng tiếp cận với nguồn nhiệt ( củi, than, dầu, khí đốt) ảnh hưởng tới phong cách nấu nướng ở các vùng đặc biệt là lò nướng, các phương pháp nấu chậm …Cũng như vậy, việc làm lạnh và bảo quản thực phẩm ở những nơi lạnh hoặc băng giá là một việc không thể thực hiện được đối với các nước nhiệt đới cho đến khi công nghệ phát triển tới mức cho phép thực hiện được điều này. Kem có lẽ là món ăn tráng miện phổ biến nhất thế giới, đã không dược đưa vào sản xuất để tiêu thụ rộng rãi trước khi công nghệ làm lạnh phát triển.
• Các luật tôn giáo và văn hóa cũng như truyền thống quyết định việc những người khác nhau ăn uống như thế nào, ăn cái gì và ăn vào lúc nào. Trong khi ở Việt Nam có rất ít điều cấm kỵ Trong ăn uống, thì người Hồi giáo và Do thái lại không ăn thịt lợn; người Hindu không ăn thị bò và các nhóm người khác có những điều “ cấm kỵ” nhất định về những gì họ được và không được phép ăn. Đồ uống có cồn đóng vai trò khác nhau trong nền văn hóa và tôn giáo; và từ khía cạnh người phục vụ đồ uống điều quan trọng là chúng ta phải biết dược một số nền văn hóa “ cấm kỵ” với rượu, bia ( ví dụ; nhiều nước Hồi giáo), trong khi ở một số xã hội khác, việc phục vụ đồ uống có cồn cho phụ nữ và trẻ em là không thể chấp nhận được.
• Ảnh hưởng của lịch sử đến món ăn tùy theo từng địa điểm. Vì lịch sử đã từng là thuộc địa nên hiện nay vẫn có thể thấy được ảnh hưởng của Pháp tới các món ăn ở Việt Nam ví dụ: bánh mỳ được bán trên đường phố. Tương tự như vậy các món ăn ở Macao chịu ảnh hưởng sâu sắc cảu phong cách Quảng Đông và Bồ Đào Nha.
Ngày nay, món ăn ngày càng được quốc tế hóa, tuy vậy các món ăn đặc trưng vẫn thường có mặt ở các nước, các vùng và ngay cả làng quê nơi chúng xuất xứ.Các kỹ thuật bảo quản và dự trữ thực phẩm hiện đại cho phép vận chuyển hầu hết các loại thực phẩm tới bất cứ nơi nào trên thế giới và xuất nhập khẩu thực phẩm là một đặc điểm quan trọng của thương mại quốc tế. Kỹ thuật trồng trọt cũng đảm bảo việc sản xuất lương thực, xét một cách tương đối, rẻ hơn trước đây và do đó việc xuất khẩu lương thực hoàn toàn khả thi về mặt kinh tế. Do vậy, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo thứ ba trên thế giới, một loại thực phẩm chính rất phổ biến ở ngay đất nước trước đây không có truyền thống ăn gạo ( ví dụ ở Châu âu).
Việc vận chuyển thực phẩm dễ ràng giữa các nước và các thuộc địa có nghĩa là các món ăn chúng ta nấu cũng đã thay đổi. Cũng như thay đổi về giao thông, con người ngày nay có cơ hội đi lại nhiều hơn nhiều trong đất nước của họ cũng như ra nước ngoài. Kết quả là, các du khách được thưởng thức các món ăn mới lạ và đem ‎ tưởng các món ăn mà họ ưa thích trở về đất nước họ. những người đến thăm Việt Nam sẽ mang về đất nước họ các ý‎ tưởng về thực phẩm, thậm chí họ cỏ thể mua sách dạy cách chế bến các món ăn Việt Nam hoặc sản phẩm thực phẩm địa phương.Tương tự như vậy, khi du khách từ Hà Nội đến thăm vùng đồng bằng Sông cửu long, họ có thể thưởng thức các món ăn khác với những gì họ ăn ở nhà và việc này có thể ảnh hưởng tới cách họ nấu nướng khi hị trở về nhà. Hiện nay có thể kết hợp thực phẩm từ nhiều vùng khác nhau thành món ăn và thực đơn, điều mà trước đây gần như không thể xẩy ra hoặc chỉ sẩy ra đối với tiểu số người rất giàu có. Việc kết hợp thực phẩm của các nền văn hóa và đất nước khác nhau thường được gọi là sự “ hòa trộn”. Các khách sạn có thể “thiết kế” các thực đơn đặc biệt, hoặc tổ chức các bữa tiệc với tên gọi “đông –tây kết hợp” biểu thị ràng thực đơn bao gồm cả thực phẩm Á lẫn Âu.
Như đã nói ở trên, món ăn của nhà hàng có xuất xứ từ các món ăn ta vẫn dùng ở nhà. Tuy nhiên, trong nhiều nền văn hóa, đói với các nhà hàng và quán ăn dịch vụ không thể nhằm đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng. ở nhiều nước, các nhà hàng và phục vụ ăn uống có một vai trò văn hóa, xã hội quan trọng đến mức việc gặp gỡ cầu một gia đình, bạn bè hay hiệp hội kinh doanh tại nhà hàng,quán ăn còn quan trọng hơn các món ăn mà họ thưởng thức. Điều quan trọng là người nhân viên, một thành viên của bộ phận phục vụ ăn uống, phải cố gắng hiểu được khung cảnh họ đang phục vụ và đáp ứng một cách phù hợp. Chúng ta phục vụ bữa sáng cho một doanh nhân đang vội vã theo một cách khác với cách ta phục vụ một gia đình trong một bữa tiệc đặc biệt, ví dụ một bữa mùng thọ 80 tuổi.
Khoá học về thực phẩm và đồ uống cũng như giáo trình này chú trọng tới việc phục vụ bữa ăn theo kiểu Tây Âu vì một số lượng đáng kể các du khách tới Việt Nam đến từ Châu Âu, Úc hoặc Bắc Mỹ và việc chuẩn bị những món ăn mà các du khách ưa thích là rất quan trọng trong nhiều khách sạn và nhà hàng quốc tế. Cũng cần phải tiếp tục phát triển kỹ năng phục vụ ở các nhà hàng Việt Nam và các nước Châu Á khác, tuy thế nếu bạn hiểu được các kỹ năng tổng hợp đã được đúc kết trong tài liệu này, sẽ không quá khó để bắt đầu nghiên cứu và làm việc trong bất kỳ nhà hàng nào ở Châu Á.

Ngành du lịch và khách sạn ở Việt Nam.
Thực sự du lịch là một ngành chủ chốt và đang phát triển của nền kinh tế Việt Nam giống như hầu hết ở các nước Châu Á và thế giới. Kiến thức về ngành du lịch và các chủng loại khách du lịch tới Việt Nam là điều quan trọng đối với tất cả mọi người làm việc trong khách sạn ( bao gồm cả nhân viên phục vụ ăn uống).


hình 1

Du khách nước ngoài bị lôi cuốn tới Việt nam bởi nhiều nguyên nhân khác nhau- lịch sử, nền văn hoá, môi trường ( núi, sông và các bãi tắm) của việt Nam, cũng như cơ hội kinh doanh đang phát triển ớ các thành phố lớn. Đồng thời có xu hướng ngày càng nhiều du khách trong nước đi thăm các vùng miền của đất nước trong các kỳ nghỉ hay lễ hội lớn như tết.

Hình 2

du khách đi thăm các vùng miền khác nhau của đất nước vì những nguyên nhân khác nhau, và mỗi loại du khách có những nhu cầu khác nhau về ăn ở, đi lại, và các dịch vụ họ muốn sử dụng. Bạn sẽ biết rõ hơn về du lịch ở Viêt Nam trong giáo trình kỹ năng giao tiếp nhưng bạn cũng có thể tìm hiểu về du lịch Việt nam qua việc tham khảo trang web của tổng cục du lịch Việt nam (TCDLVN) theo địa chỉ http//www. viêtnamtourism.com.
Ngành du lịch bao gồm một loạt các lĩnh vực trong đó mỗi lĩnh vực có vai trò sống còn trong việc làm hài lòng du khách. Mỗi lĩnh vực là một phần của cái gọi là “ mắt xích cung ứng du lịch” và độc lập đối với các lĩnh vực khác trong việc bảo đảm du khách sẽ hài lòng trong chuyến viếng thăm của họ. Chúng bao gồm:
• Các phương tiện đi lại- các đại lý du lịch, các hãng lữ hành, các trung tâm thông tin du lịch, uỷ ban du lịch vùng và quốc gia ( chẳng hạn như tổng cụ du lịch) tất cả đều làm cho chuyến du lịch có thể thực hiện, và mọi việc sẽ trôi chảy khi khách đến.
• Giao thông - xe buýt, tàu hảo, máy bay, taxi, xe riêng và xe máy.
• Các địa điểm hấp dẫn- viện bảo tàng, các công viên gải trí ( Disneyword đang có kế hoạch xây dựng ở Hồng Kông).
• Nơi mua sắm- cửa hàng mỹ nghệ, các cửa hàng lớn, các chợ địa phương.
• Nơi ăn uống- nhà hàng, các quán ăn bên đường.
• Nơi ăn nghỉ- khách sạn, nhà hàng và các nhà cho thuê.
Việc tìm kiếm nơi ăn nghỉ là nhu cầu thiết yếu đối với mỗi người xa nhà đến Việt Nam hay bất cứ nơi nào khác, bất kể về lý do công việc hay giải trí. Vì thế các dịch vụ ăn uồng và nghỉ ngơi là trọng tâm, là nhu cầu thiết yếu so với các nhu cầu khác của khách.
Trên thế giới , 40% lượng tiền du khách chi tiêu là dành cho chỗ ở. ở Việt Nam cũng như các nơi khác, nghành khách sạn rất quan trọng vì nó chiếm một phần lớn doanh thu của ngành du lịch.
Tổng cục du lịch Việt Nam là đầu mối liên hệ giữa ngành du lịch và ngành khách sạn. TCDLVN là một cơ quan trực thuộc Chính phủ, thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong việc điều hành hoạt động du lịch trên toàn quốc.

Vai trò của tổng cục du lịch Việt Nam

Vai trò của TCDLVN là thu hút du khách đến Việt Nam thông qua chiến dịch tiếp thị mà trong giai đoạn 1999-2000, chiến dịch này có khẩu hiệu “Việt Nam điểm đén của thiên niên kỷ mới” và thông qua việc khuyến khích nâng cao các tiêu chuẩn về sản phẩm du lịch và dịch vụ trong nước. TCDLVN có vai trò chỉ đạo trong ngành du lịch Việt Nam liên quan tới việc phát triển kinh doanh, hoạch định kế hoạch, quan hệ đối ngoại, nhân sự và đào tạo, thực hiện các nghiên cứu khoa học và thanh tra việc thực hiện các chính sách , quy định liên quan đến ngành du lịch.
Ban lãnh đạo TCDLVN gồm có một tổng cục trưởng và một số phó tổng cục trưởng. lãnh đạo các vụ chức năng giúp các lãnh đạoTCDL có các nhiệm vụ sau:

1. Vụ kế hoạch và đầu tư
2. Vụ du lịch.
3. Vụ kháchh sạn.
4. Vụ hợp tác quốc tế.
5. Vụ tổ chức và đào tạo.
6. Ban thanh tra.
7. Vụ pháp chế du lịch.
8. Văn phòng tổng cục.
9. Viện nghiên cứu và phát triển du lịch.
10. Trung tâm công nghệ thông tin du lịch.
11. Tạp trí du lịch và tuần báo du lịch.

TCDLVN cũng chụi trách nhiệm quản lý bốn trường du lịch hiện đóng ở Hà Nội, Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh và Huế.
Để giúp tổng cục du lịch thực hiện vai trò của mình ở cấp tỉnh có Sở du lịch cấp tỉnh hay Sở du lịch và thương mại chẳng hạn như Sở du lịch Sài Gòn.

Các loại khách khác nhau
Các khách sạn rất đa dạng, tuỳ thuộc vào người quản lý chúng vào quy mô và thị trường chúng hướng tới nghĩa là những người được dự tính sẽ là khách của họ. Thường thì người ta phân loại khách sạn theo quy mô, chất lượng, phạm vi kinh doanh và dịch vụ của nó; theo người sở hữu và điều hành khách sạn; theo xu hướng kinh doanh của họ.

Quy mô.
Nói chung các khách sạn ở Châu Âu chủ yếu là khách sạn nhỏ còn các vùng du lịch mới hơn như Hồng Kông , Singapore các khách sạn lại có quy mô trung bình lớn hơn nhiều. ví dụ ở Anh và Ailen, quy mô trung bình của khách sạn khoảng 30-35 buồng, trong khi ở Singapore là khoảng 150 buồng. Ở Việt Nam , những khách sạn mới có quy mô lớn hơn so với đa số các khách sạn nhỏ và cũ.

Về phương diện quản lý và điều hành các khách sạn được phân loại theo quy mô và tiện nghi như sau:
Loại nhỏ: 5-40 buồng.
Loại vừa: 40-50 buồng.
Loại lớn: trên 150 buồng


Hình 3


Tuy nhiên ta cần cẩn thận xem xét các khách sạn chỉ theo khía cạnh số lượng buồng. Việc kinh doanh của một số khách sạn nhỏ có thể chủ yếu là phục vụ ăn uống ( kể cả nhận đặt tiệc, không có dịch vụ buồng), và một số khách sạn quá nổi tiếng về các dịch vụ không thuộc dịch vụ buồng ngủ. Ví dụ khách sạn Mandarin Singapore nổi tiếng trong và ngoài nước với món cơm gà.

Phân loại và xếp hạng khách sạn theo chất lượng và phạm vi kinh doanh.
Các khách sạn thường được phân biệt dựa trên cơ sở số sao của chúng. Thường thì người ta xếp hạng từ 1 đến 5 sao, hay như ở Mỹ từ 1 đến 5 viên kim cương. Cách xếp hạng đó chủ yếu nhằm cung cấp thông tin cho khách hàng về tiện nghi và dịch vụ họ sẽ thấy ở khách sạn. Việc xếp hạng khách sạn còn có thể thực hiện nhiều chức năng luật pháp khác, ví dụ như xác định mức thuế khách sạn phải trả ( ví dụ ở Tây Ba Nha).
Ở Việt Nam có một hệ thống xếp hạng khách sạn có một hệ thống khách sạn chính thức do TCDLVN cấp giấy chứng nhận dựạ trên hệ thống xếp hạng theo sao. hệ thống xếp hạng này dựa theo cơ sở tiện nghi và dịch vụ của khách sạn. Nó có thể chỉ đơn giản là nới nghỉ với một bữa sang, hoặc có thể là các dịch vụ sang trọng trong một khách sạn năm sao.
Việc xếp hạng khách sạn không phải lúc nào cũng rễ ràng bởi tính đa dạng của ngành kinh doanh này. Nhiều khách sạn không thuộc một chủng loại nào. Cách xếp hạng chung thường dựa trên địa điểm, giá cả, mục dịch vụ và tiện nghi/ phương tiện đựoc cung cấp. Việc khách quyết định nghỉ tại một khách sạn nào đó chiụ ảnh hưởng của nhiều yếu tố như giá cả, địa điểm , tiện nghi, tiêu chuẩn dịch vụ…

Sở hữu và quản lý khách sạn.
Trên thế giới có rất nhiều hình thức sở hữu và quản lý khác nhau trong ngành kinh doanh khách sạn, một vài trong số đó sẽ được mô tả dưới đây. Không phải các hình thức này đều có ở Vệt Nam . Cho dù điều này có thể có thay đổi. tại Việt Nam có một vài hình thức sở hữu khách sạn, bao gồm sở hữu nhà nước , sở hữu tư nhân, liên doanh hoặc công ty con thuộc tập đoàn nước ngoài. Ví dụ khách sạn Majestic TP HCM, là một trong số các khách sạn 5 sao cua rnhà nước. hầu hết các khách sạn trực thuộc tập đoàn khách sạn quốc tế ở Việt Nam là liên doanh do nhà nươc và đối tác nước ngoài chung vốn sở hữu. Ngoài những hình thức sở hữu nói trên còn có những khách sạn hoạt động dưới một hợp đồng quản lý hoặc theo thoả thuận đứng tên (franchíe)- mô hình này đặc biệt phổ biến ở nước khác.
• Tập đoàn khách sạn quốc tế.
Đó là một tập đoàn lớn kinh doanh dưới tên rất thông thường như : Accor với các chi nhánh Sofitel, Mercure, Novotel và Ibis ( http:// www. Hilton.com). Holidaylnn ( http:// www.basshotel.com.holidayinn). Các đặc điểm chính của các khách sạn kiểu này là sự tiêu chuẩn hoá các dịch vụ, tiện nghi và giá cả. Các khách sạn này có lợi thế nhờ sự có mặt trên toàn cầu của mình vì khách khách hàng có thể tìm đến với họ ở bất kỳ nơi nào mình đặt chân đến. Hầu hết các tập đoàn khách sạn lớn đề cố gắng có mặt ở các thành phố lớn, ví dụ ở Hà Nội có Hanoi Opera Hilton.
• Các công ty khách sạn quốc gia.
Một số nước có công ty khách sạn quốc gia chủ yếu điều hành khách sạn trong nước và có thể có một vài khách sạn ở nước ngoài, ví dụ như Days Inn ở Mỹ (http:// www. Daysinn.com/ ctg-bin) và De Vevere.com). Ở Việt nam, các cơ quan, tổ chức thuộc sở hữu nhà nước điều hành một số khách sạn nhà nước như Sở du lịch Sài Gòn là cơ cấu giống ới loại hình này nhất.
• Nhóm các khách sạn loại nhỏ.
• Không phải các nhóm khách sạn đều có quy mô lớn và phân bổ rộng. một sống công ty có thể sở hữu một nhóm 4-5 khách sạn, các khách sạn này có thể tập trung ở một vùng nào đó như vùng biển hoặc các bãi tắm, hoặc trải rộng hơn ở một số địa phương. Khách sạn Sunw hà Nội (www. Asiatralvel.com/vietnam/sunway) là một trong số mười khách sạn quốc tế Allson ở khu vực đông nam á.
• Các khách sạn độc lập.
Ở Việt Nam và nhiều nước khác có khá nhiều các khách sạn tư nhân không thuộc một công ty nào cả, ví dụ như khách sạn De syloia Hà Nội (www.vietnamadventures.com/destinations/desylioa.html). Nhiều khách hàng thích chọn những nơi này hơn vì tính độc lập của chúng.
• Các tập đoàn khách sạn.
Các tập đoàn khách sạn độc lập thường liên kết với nhau tạo thành một liên minh, điều này mang lại cho họ một số lợi thế trong việc chia sẻ chi phí quảng cáo, mua hàng khối lượng lớn, và chuyển các cuộc đặt buồng cho nhau. Thu nhập chính là từ tiếp thị và các khách sạn riêng lẻ trả một khoản phí hàng năm cũng như một số tiền hoa hồng phầm trăn cho tổ chức mẹ. Tập đoàn khách sạn nổi tiếng nhất là Best Western (www.hestwestern.com) gồm hơn 300 khách sạn độc lập trên khăp thế giới.

4. Trọng tâm kinh doanh hay vị trí của khách sạn.
Cuối cùng, có thể nhóm các khách sạn hoặc theo công việc kin doanh chính hay theo trọng tâm thị trường hoặc theo vị trí của chúng, những vấn đề đó ảnh hưởng tới đặc điểm hoạt động và quản lý khách sạn.
• Khách sạn thương nhân.
Những khách sạn này chủ yếu phục vụ khách thương nhân, nhưng thường được các nhóm khách hội nghị, khách du lịch và khách riêng lẻ thuê. Khách sạn thường có dịch vụ buồng ngủ, quán cà fê ( có thể mở cửa 24/24 giờ), quán bar/ cocktail, và có thể có cả phòng ăn sang trọng. Các dịch vụ có thể gồm giặt là/ dọn buồng, trung tâm dịch vụ phục vụ kinh doanh, câu lạc bộ sức khoẻ… các tiện nghi cho khách thường bao gồm báo miễn phí, cà fê sáng và dịch vụ đánh giày.




Khách sạn sân bay.

Nằm gần sân bay, các khách sạn này thường hoạt động gần hết công suất vì nó thuận lợi cho lữ khách. Mức độ dịch vụ và tiện nghi có thể chênh lệch rất lớn. Khách hàng bao gồm các hành khách đi máy bay, phi hành đoàn và các du khách thương nhân. Các khách sạn sân bay thường hoạt động24/24h, nhận và trả buồng bất kỳ thời gian nào trong ngày và thường phải phục vụ những vị khách bất ngờ bị hoãn chuyến bay. Sân quốc tế Don Muang Bangkok có khách sạn nằm ngay trong khu vực các toà nhà sân bay.
• Khách sạn bình dân
Những khách sạn này dành cho những nguồi có mức thu nhập không cao, chúng có chất lượng được tiêu chuẩn hoá cao, nhưng với các phưong tiện, ăn, ở có thể có hoặc không dịch vụ ăn uống. Các khách sạn bình dân thường ở xa trung tâm thành phố, gần các đường cao tốc hoặc các điểm nút giao thông ( nhà ga xe lửa, sân bay). Khách hàng của loại khách sạn này thường là các gia đình, lữ khách bình dân và các nhóm du khách/ hội nghị.
• Khách sạn căn hộ
Loại hình khác sạn căn hộ mới phát triển, chúng cung cấp chỗ ăn ở rộng rãi, một phòng khách riêng và các đồ dùng thiết yếu cho nhà bếp ( bếp nhỏ) trong phạm vi một căn hộ, khách sạn bao gồm những nguời trọ lâu, những người đi nghỉ hoặc thương nhân. Loại khách này đang phát triển ở các thành phố lớn, nơi mọi nguời chuyển đến và không tìm được một chỗ ổn định lâu dài. Một trong những công ty cung cấp sản phẩm này ở Mỹ là Embassy Suites ( http:// www.embassuites.com). Khách sạn duy nhất ở Sài gòn thuộc loại này là Sai Gon Chancery Best wester.
• Khách sạn sòng bạc Casino.
Trong các khách sạn casino, các phòng ở và hoạt động ăn uống chủ yếu phục vụ cho việc đánh bạc. Những khách sạn này thường rất xa hoa và phục vụ những trò giải trí, các cuộc trình diễn cao cấp nhằm thu hút khách hàng. Một số khách sạn casino nổi tiếng như LasVergas ở Mỹ (www.lg.hilton.com) và Maco, đặc khu hành chính của Trung Quốc (http://www. greatchina.net /get /macau / macau_hotel.htmt).


• Khách sạn nghỉ dưỡng.
Những khách sạn này dành cho những người đi nghỉ thư giãn, hoạt động theo mùa hoặc quanh năm, tùy theo các hoạt động gải trí có thể có. Khách sạn nghỉ dưỡng thường ở xa thành phố nhưng dễ tìm. Phạm vi dịch vụ và tiện nghi có thể khách nhau nhưng các khách sạn nghỉ dưỡng có xu hướng sang trọng hóa. Chu trình kinh doanh của loại khách sạn này đối lập với tru trình của khách sạn sân bay ở chỗ nó dễ dự tính trước lượng khách đến và đi trong một khoảng thời gian ấn định. Một ví dụ ở Vệt Nam là nhà nghỉ bên bờ biển, Bambo Village Seaside Resort ở Phan Thiết (http: // www.vietnamtourist.com/muine).

Nhà hàng
Khách sạn không chỉ là nơi ở duy nhất du khách tới ăn và là nơi các đầu bếp chuyên nghiệp làm việc. Điều quan trọng là phải nhìn nhận được sự đa dạng trong việc lựa chọn đồ ăn của du khách. Ngay cả khi bạn làm việc trong một nhà hàng ở một khách sạn quốc tế, bạn vẫn phải nhận thức lấy điều gì đang xẩy ra trong các mảng khác của thị trường- có thể bạn sẽ học hỏi từ những gì diễn ra trước đó. Khách hàng của bạn nhất định sẽ rút kinh nghiệm từ những nơi đó và việc này có thể ảnh hưởng tới những gì học trông đợi ở nhà hàng của bạn.

Các tiệm ăn uốn

Khách du lịch ở Việt Nam có thể chọn các nhà hàng:
• Nhà hàng phục vụ các món ăn Việt Nam, hoặc các món ăn bình dân đặc sản địa phương
• Nhà hàng phục vụ các món ăn Châu Á
• Nhà hàng các món ăn Châu Âu và thế giới.
• Quán cà fe và các quán ăn nhỏ.
• Các quầy di động trên đường phố
Mỗi loại cơ sở kinh doanh này có một loại món ăn, một phong cách phục vụ rất khác nhau và đáp ứng các nhu cầu đa dạng của thị trường.




                        

yh : yindoo.nguyen@yahoo.com   mail : Maitu1612@gmail.com

 


 


 
Các thành viên đã Thank hyebin vì Bài viết có ích:
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024