Đối với những khoản dự phòng ở phần bên tài sản của bảng cân đối kế toán, Việt Nam lại thiết kế các tài khoản có tận cùng bằng số 9. Ví dụ TK 129-Dự phòng giảm giá đầu tư ngắn hạn, TK 139-Dự phòng thu khó đòi; TK 159-Dự phòng giảm giá HTK; TK 229-Dự phòng giảm giá đầu tư dài hạn.
Trong khi đó đối với các khoản dự phòng ở phần bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán, Việt Nam lại thiết kế các tài khoản không mang tính quy luật tận cùng như ở trên. Ví dụ : Quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm - TK 351; Dự phòng phải trả - 352....
Tại sao lại như vậy ?