Quan điểm nhiếp ảnh của tôi gồm có 3 phần:
1. Thu nhập dữ liệu tốt (capturing good data): Phần này liên quan đến kỹ thuật chụp (ánh sáng, posing, bố cục, góc chụp, timing).
2. Biến dữ liệu thành thông tin (post-processing): Phần này liên quan đến kỹ thuật phòng tối. Những kỹ thuật cần thiết trong Photoshop để điều chỉnh ánh sáng, màu sắc, và độ tương phản.
3. Trình bày thông tin: Phần này liên quan đến in ấn, online, framing, special effect...
KỸ THUẬT 1: Camera setting.
Để bảo đảm có dữ liệu tốt và chụp với hiệu quả cao thì việc đầu tiên là phải chọn những "setting" sau đây chính xác: file format, color space, ISO setting, white balance, exposure, color temparature, auto focus point, metering mode, và lens.
Tôi cho rằng các bạn xử dụng từ medium tới high-end camera, nghĩa là có những setting nêu trên. Tôi xin lần lượt thảo luận từng phần một.
1. File format: Nếu bạn chọn white balance và color temperature đúng thì xin bạn tự tin và mạnh dạn chụp "JPEG large". Với format này, bạn đã có đủ chất lượng (quality) để chuẩn bị "edit" trong PS. Bản thân tôi đã từng chụp Canon EOS D30 (3 MegaPixel) và sau đó dùng kỹ thuật PS để phóng lớn đến 20-by-30 inches mà nhìn vẫn rỏ nét. Hơn nữa, portrait photographer thường phải chụp với số lượng lớn, nếu như chụp RAW thì không chứa dược nhiều lắm trên memory card và nếu bạn có máy tính "chậm" thì sẽ mất nhiều thì giỏ upload, chỉnh white balance, color temperature, convert thành JPEG, những việc này làm giảm hiệu năng của người chụp.
2. Color space: Chọn Adobe RGB hơn là sRGB, vì sRGB dành cho Internet, còn RGB dùng cho mọi trường hợp. Nếu bạn chụp RGB rồi sau đó quyết định dùng cho Internet thì bạn chỉ có việc "compress" nó lại trong PS là xong.
3. ISO setting: chọn ISO cao nhất mà máy của bạn có thể "chịu dược" mà không bị "noise". Thông thường thì ISO thấp cho kết quả tốt hơn, nhưng những máy sau này như Canon EOS 20D có thể chụp đươc ỏ ISO setting 400 mà vẫn không bị "noise". Tận dụng sự tiến bộ này, bạn có thể để tốc độ chụp cao và cố định (1/125s) để bắt máy chọn khẩu độ lớn (trương hợp chụp hệ thống TV, tức là bạn chọn tốc độ, để máy chọn khẩu độ). Lý do chụp tốc độ nhanh là vì trong khi chụp chân dung, bạn phải di chuyển nhiều và điều khiển model cùng lúc nên rất dễ bị run máy.Hơn nữa với ISO setting cao và tốc độ cao, ta luôn được khẩu độ lớn (điều này cần thiết để có chiều sâu ảnh trường hẹp, cần thiết cho portrait).
4.White Balance: Yếu tố này quyết định đến "tông" màu (lạnh, nóng, neutral). Hầu hết các máy đều có auto, nhưng ta nên để đúng theo trường hợp (coi manual của máy bạn để biết rõ hơn).
5. Exposure: Với TV auto setting không phải lúc nào ta củng có "perfect exposure". Luôn luôn kiểm tra histogram để xem hình có bị over hay under exposure hay không.
Nhìn vào histogram, nếu ta thấy có một vạch đen dài dọc bên phải của biểu đồ, có nghĩa là vùng đó bị "blown-out" (mất chi tiết). Tương tự như vậy, nếu có một vạch đen dọc bên trái có nghĩa là hình bị mất chi tiết trong vùng tối. (Nếu bạn dùng máy Canon, bấm nút info bạn sẽ thấy histogram hiện lên, những vùng mất chi tiết nó sẽ chớp chớp trên họa đồ)
Over Exposure: mất chi tiết nơi vùng sáng
Under Exposure: mất chi tiết nơi vùng tối
Để khắc phục, ta dùng exposure compensation. Tằng lên hay giảm đi để cân bằng ánh sáng lại (Xem camera manual của bạn để coi cách chỉnh).
6. Color temperature:
Trời nắng (sunny daylight outdoors): khoãng 5200 K
Trong bóng râm (shaded areas outdoors): khoãng 7000 K
Trời mây, trời buồn ãm đạm, hay lúc mặt trời lặn: khoãng 6000K
7. Auto Focus Point: Trong chân dung bạn chỉ cần 1 focus point là đủ rồi (Canon 10D có 7 focus point). Khi chụp luôn luôn lấy điểm focus là con mắt (con mắt là cửa sổ của tâm hồn mà :lol:
8. Metering Mode: Chọn Partial Metering hay Center Weighted Metering Mode đặc biệt là khi chụp close up hay khi background quá sáng. Chọn Evaluative Metering khi backgorund đẹp.
9. Lenses: Trong khi chụp chân dung thì điều khiển model (communication) đóng một phần RẤT là quan trọng, nên chụp tele từ 70mm đến 135 mm là lý tưởng nhất. Nếu ta chụp kính dưới 50 mm, thì ta phải đứng gần, điều này làm cho model mất tự nhiên (người ta rất nhạy cảm khi bị ống kính dí sát vào người). Nếu ta chụp kính quá hẹp như tele 300 mm thì ta phải "hét" lên thì model mới biết mình muốn cái gì :LOL:
Nói chung là ránG giữ một khoảng cách làm việc (working distance) mà mình và model cảm thấy thoải mái.
Phần này rất là "boring" nhưng rất là quan trọng. Vấn đề là bạn phải hoàn toàn hiểu biết camera của mình vì trong khi làm việc bạn chỉ tập trung hết thời giơ để quan sát ánh sáng, điều khiền model "posing", và "communication".
KỸ THUẬT 2: Outdoor Lighting.
Những ánh sáng thường gặp khi chụp ngoài trời là:
1. Trời mây (Cloudy day): Đây là ánh sáng lý tưởng nhất để chụp chân dung. Đây là loại ánh sáng tãn (diffused light), do mặt trời bị "block" bởi mây nên ánh sáng rất nhẹ, tuy nhiên da model sẽ bị "tái" nên cần được chỉnh mầu lại trong PS. Với loại ánh sáng này, bạn không phải lo lắng nhiều về vị trí chụp. Đứng đâu chụp củng ăn tiền hết á.
Ảnh này mình chụp ở Utah trong một ngày trời đầy mây.
Evaluating metering, fill flash.
2. Trong râm (shade): Nếu ngoài trời quá nắng thì tìm bóng râm để chụp. Nếu chụp dưới tàn cây thì coi chưng ánh sánh đi qua kẽ lá sẽ tạo nhừng khoãng lỗ chỗ trên mặt chủ đề :( . Nếu chụp dưới hàng hiên thì tìm một cái tường nào đó mà mó có màu đồng nhất (càng ít màu càng tốt). Như vậy bạn đã có mốt dạng "studio ngoài trời" với ánh sáng phản chiếu tư ngoài nắng vào trong bóng râm.
Hình này được chụp dưới hàng hiên của một nhà kho trong một ngày rất rất nắng. Ánh sáng phản chiếu làm cho model bị ám vàng (yellow cast).
Evaluating Metering, fill flash.
3. Ánh sáng mạnh (Hard Light):Ánh sáng này thương là buổi trưa khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Ánh sáng này rất gắt (harsh) nên tạo shadow rất mạnh trên mặt của chủ đề. Khi chụp, nhớ để mặt của chủ đề trong bóng mát và coi chưng ánh sáng đổ vào mắt model tạo nên 2 cái lỗ sâu hoắm (shadow over eye sockets) :lol:
Nói chung ánh sáng này nên tránh vì làm cho model nhăn nhó, mồ hôi nhễ nhại. Chỉ chụp khi không tìm được bóng mát nào chung quanh.
Ảnh này được chụp dùng Center Weight Metering, không flash. Zoom sát vào mặt chủ đề, dùng TV setting, đo sáng, khóa setting lại, zoom ra rồi chụp. (khẩu độ 11, tốc độ 1/125, ISO setting 100). Dùng reflector. Set up kỹ thế vậy mà vẫn bị "blown out" ở tay.
(Too bad, hic hic hic)
Một cách khác để đối phó với ánh sáng mạnh là chụp close-up. Trong trường hợp này, để mặt của chủ đề chiếm phần lớn diện tích của hình để loại bỏ đi phần background quá sáng.
Một dạng ánh sáng mạnh nữa là những ngày tuyết. Mặc dù trời đầy mây nhưng mặt đất phủ đẩy tuyết trắng nên ánh sáng phản chiếu rất mạnh. Trong trương hợp như vậy "cưởng bức" model mặc đồ "màu mè" . Chụp với Center Weigh Metering. Cái khó là da của model sẽ bị tái
Hình này được chụp ở Michigan, model bị lạnh tê tái. Da đâu được hồng như thế nếu không có PS
4. Ánh sáng nhẹ (soft light): Đây là dạng ánh sáng lý tương nhất để chụp chân dung. Thường là xế chiều khi mặt trời xuống thấp. Ánh sáng nhẹ đến nỗi mà ta có thể nhìn vào mặt trời mà không bị nhíu mắt
Sau đây là 3 cách dùng ánh sáng nhẹ:
Chụp thuận nắng: Mặt trời trước mặt model. Đo sáng vùng hightlight.
Nếu hướng nắng đi vuông góc với góc chụp: Chụp theo kiểu Profile để làm nổi bật phần mặt (frontal face). Dùng flash để phủ nhẹ phần bên hông.
Nếu mặt trời đối diện camera (back lighting) thì ánh sáng sẽ làm nên vùng hight light chung quanh chủ đề. Vì ánh sáng này thấp, nhơ chận tia sáng đi thẳng vào ống kính, nếu không sẽ bị một lớp "mù" phủ lên hình.
5. Ánh sáng hắt: Đây là dạng ánh sáng đặc biệt tương đối mạnh vì nó dội tư ngoài sáng vào trong tối (hay râm). Chụp thể loại này nên dùng center weighted metering.
Dạng 1: Khi ánh sáng hắt vào từ 2 bên (dưới cái pier, cầu, láng). Mặc dù ánh sáng đi vào tư 1 phía nhưng củng có 1 phần ánh sáng ngược lại do phản chiếu. Ví dụ như ảnh sau đây, nguồn sáng từ bên phải nhưng ta vẫn thấy 1 ít ánh sáng hightlight ở bên trái.
Dạng 2: Khi ánh sáng hắt vào từ bên trên (trong 1 cái hẻm với 3 hay 4 phía bị cản ánh sáng bởi nhửng tòa nhà cao tầng). Chụp loại này thương để mặt chủ đề hơi cuối về phía trước để ánh sáng không bị rơi vào mặt. Nên tận dụng ánh sáng này để hightlight tóc đòng thời dùng flash để fill phần mặt.
Ảnh này chụp trong 1 cái hẻm cụt ở New York (3 chiều bị cản ánh sáng, và chiều còn lại củng bị cản bởi 1 tòa nhà cao tầng khác). Bạn có thể thấy ánh sáng từ phía trên hightlight tóc và lưng của chủ đề. Flash được dùng làm ánh sáng chính (key light).
Dạng 3: Window Lighting. Đây là dạng thường gặp nhất trong 3 dạng khi ánh sáng hắt vào từ cửa sổ. Tùy theo ánh sáng mạnh hay nhẹ mà để chủ đề đứng gần hay xa cửa sổ, nếu cần thì dùng một tấm màng (curtain) để cản bớt ánh sáng lại. Chụp loại này thì lấy focus con mắt ở gần cửa sổ và đo sáng phần hightlight để không bị blown-out.
Ảnh này được chụp high contrast để làm nổi bật character lines. Ánh sáng từ cửa sổ là nguồn sáng chính (key light).
Ảnh này được chụp kết hợp với ánh sáng đèn vàng ở trong nhà. Ánh sáng từ cửa sổ dùng để hightlight phần mặt bên phải của em bé.
T. Nói chung, ánh sáng ngoài trời thay đổi rất là nhanh, nên trong khi chụp phải biết thay đổi camera setting của minh cho phù hợp với điều kiện ánh sáng. Luôn luôn xác định cho được đâu là nguồn sáng chính. "Position" chủ đề sao cho có những vùng hightlight và shadow để gây đươc cảm giác không gian 3 chiểu.
Ảnh này, trên mặt chủ đề thể hiện đươc 4 vùng ánh sáng khác nhau. Vùng sáng nhất là 1, hơi sáng là 2, trung bình là 3, và vùng shadow là 4.