Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
04/11/2013 13:11 # 1
anhtaicit
Cấp độ: 25 - Kỹ năng: 23

Kinh nghiệm: 136/250 (54%)
Kĩ năng: 210/230 (91%)
Ngày gia nhập: 13/01/2010
Bài gởi: 3136
Được cảm ơn: 2740
20 kỹ thuật chụp ảnh chân dung


 

Phần lớn những kỹ thuật này là dành cho nhiếp ảnh số (digital photography), tuy nhiên nó vẫn dựa trên nhiếp ảnh kinh điển. KỸ THUẬT 1: Camera setting. KỸ THUẬT 2: Outdoor Lighting.
Quan điểm nhiếp ảnh của tôi gồm có 3 phần: 
1. Thu nhập dữ liệu tốt (capturing good data): Phần này liên quan đến kỹ thuật chụp (ánh sáng, posing, bố cục, góc chụp, timing).
2. Biến dữ liệu thành thông tin (post-processing): Phần này liên quan đến kỹ thuật phòng tối. Những kỹ thuật cần thiết trong Photoshop để điều chỉnh ánh sáng, màu sắc, và độ tương phản. 
3. Trình bày thông tin: Phần này liên quan đến in ấn, online, framing, special effect...


KỸ THUẬT 1: Camera setting.

Để bảo đảm có dữ liệu tốt và chụp với hiệu quả cao thì việc đầu tiên là phải chọn những "setting" sau đây chính xác: file format, color space, ISO setting, white balance, exposure, color temparature, auto focus point, metering mode, và lens.
Tôi cho rằng các bạn xử dụng từ medium tới high-end camera, nghĩa là có những setting nêu trên. Tôi xin lần lượt thảo luận từng phần một.

1. File format: Nếu bạn chọn white balance và color temperature đúng thì xin bạn tự tin và mạnh dạn chụp "JPEG large". Với format này, bạn đã có đủ chất lượng (quality) để chuẩn bị "edit" trong PS. Bản thân tôi đã từng chụp Canon EOS D30 (3 MegaPixel) và sau đó dùng kỹ thuật PS để phóng lớn đến 20-by-30 inches mà nhìn vẫn rỏ nét. Hơn nữa, portrait photographer thường phải chụp với số lượng lớn, nếu như chụp RAW thì không chứa dược nhiều lắm trên memory card và nếu bạn có máy tính "chậm" thì sẽ mất nhiều thì giỏ upload, chỉnh white balance, color temperature, convert thành JPEG, những việc này làm giảm hiệu năng của người chụp.

2. Color space: Chọn Adobe RGB hơn là sRGB, vì sRGB dành cho Internet, còn RGB dùng cho mọi trường hợp. Nếu bạn chụp RGB rồi sau đó quyết định dùng cho Internet thì bạn chỉ có việc "compress" nó lại trong PS là xong.

3. ISO setting: chọn ISO cao nhất mà máy của bạn có thể "chịu dược" mà không bị "noise". Thông thường thì ISO thấp cho kết quả tốt hơn, nhưng những máy sau này như Canon EOS 20D có thể chụp đươc ỏ ISO setting 400 mà vẫn không bị "noise". Tận dụng sự tiến bộ này, bạn có thể để tốc độ chụp cao và cố định (1/125s) để bắt máy chọn khẩu độ lớn (trương hợp chụp hệ thống TV, tức là bạn chọn tốc độ, để máy chọn khẩu độ). Lý do chụp tốc độ nhanh là vì trong khi chụp chân dung, bạn phải di chuyển nhiều và điều khiển model cùng lúc nên rất dễ bị run máy.Hơn nữa với ISO setting cao và tốc độ cao, ta luôn được khẩu độ lớn (điều này cần thiết để có chiều sâu ảnh trường hẹp, cần thiết cho portrait).

4.White Balance: Yếu tố này quyết định đến "tông" màu (lạnh, nóng, neutral). Hầu hết các máy đều có auto, nhưng ta nên để đúng theo trường hợp (coi manual của máy bạn để biết rõ hơn).

5. Exposure: Với TV auto setting không phải lúc nào ta củng có "perfect exposure". Luôn luôn kiểm tra histogram để xem hình có bị over hay under exposure hay không. 
Nhìn vào histogram, nếu ta thấy có một vạch đen dài dọc bên phải của biểu đồ, có nghĩa là vùng đó bị "blown-out" (mất chi tiết). Tương tự như vậy, nếu có một vạch đen dọc bên trái có nghĩa là hình bị mất chi tiết trong vùng tối. (Nếu bạn dùng máy Canon, bấm nút info bạn sẽ thấy histogram hiện lên, những vùng mất chi tiết nó sẽ chớp chớp trên họa đồ)

Over Exposure: mất chi tiết nơi vùng sáng



Under Exposure: mất chi tiết nơi vùng tối



Để khắc phục, ta dùng exposure compensation. Tằng lên hay giảm đi để cân bằng ánh sáng lại (Xem camera manual của bạn để coi cách chỉnh).



6. Color temperature: 
Trời nắng (sunny daylight outdoors): khoãng 5200 K
Trong bóng râm (shaded areas outdoors): khoãng 7000 K
Trời mây, trời buồn ãm đạm, hay lúc mặt trời lặn: khoãng 6000K

7. Auto Focus Point: Trong chân dung bạn chỉ cần 1 focus point là đủ rồi (Canon 10D có 7 focus point). Khi chụp luôn luôn lấy điểm focus là con mắt (con mắt là cửa sổ của tâm hồn mà :lol:

8. Metering Mode: Chọn Partial Metering hay Center Weighted Metering Mode đặc biệt là khi chụp close up hay khi background quá sáng. Chọn Evaluative Metering khi backgorund đẹp.

9. Lenses: Trong khi chụp chân dung thì điều khiển model (communication) đóng một phần RẤT là quan trọng, nên chụp tele từ 70mm đến 135 mm là lý tưởng nhất. Nếu ta chụp kính dưới 50 mm, thì ta phải đứng gần, điều này làm cho model mất tự nhiên (người ta rất nhạy cảm khi bị ống kính dí sát vào người). Nếu ta chụp kính quá hẹp như tele 300 mm thì ta phải "hét" lên thì model mới biết mình muốn cái gì :LOL: 
Nói chung là ránG giữ một khoảng cách làm việc (working distance) mà mình và model cảm thấy thoải mái.

Phần này rất là "boring" nhưng rất là quan trọng. Vấn đề là bạn phải hoàn toàn hiểu biết camera của mình vì trong khi làm việc bạn chỉ tập trung hết thời giơ để quan sát ánh sáng, điều khiền model "posing", và "communication".




KỸ THUẬT 2: Outdoor Lighting.

Những ánh sáng thường gặp khi chụp ngoài trời là:

1. Trời mây (Cloudy day): Đây là ánh sáng lý tưởng nhất để chụp chân dung. Đây là loại ánh sáng tãn (diffused light), do mặt trời bị "block" bởi mây nên ánh sáng rất nhẹ, tuy nhiên da model sẽ bị "tái" nên cần được chỉnh mầu lại trong PS. Với loại ánh sáng này, bạn không phải lo lắng nhiều về vị trí chụp. Đứng đâu chụp củng ăn tiền hết á.

Ảnh này mình chụp ở Utah trong một ngày trời đầy mây.
Evaluating metering, fill flash.




2. Trong râm (shade): Nếu ngoài trời quá nắng thì tìm bóng râm để chụp. Nếu chụp dưới tàn cây thì coi chưng ánh sánh đi qua kẽ lá sẽ tạo nhừng khoãng lỗ chỗ trên mặt chủ đề :( . Nếu chụp dưới hàng hiên thì tìm một cái tường nào đó mà mó có màu đồng nhất (càng ít màu càng tốt). Như vậy bạn đã có mốt dạng "studio ngoài trời" với ánh sáng phản chiếu tư ngoài nắng vào trong bóng râm.

Hình này được chụp dưới hàng hiên của một nhà kho trong một ngày rất rất nắng. Ánh sáng phản chiếu làm cho model bị ám vàng (yellow cast). 

Evaluating Metering, fill flash.




3. Ánh sáng mạnh (Hard Light):Ánh sáng này thương là buổi trưa khi mặt trời ở trên đỉnh đầu. Ánh sáng này rất gắt (harsh) nên tạo shadow rất mạnh trên mặt của chủ đề. Khi chụp, nhớ để mặt của chủ đề trong bóng mát và coi chưng ánh sáng đổ vào mắt model tạo nên 2 cái lỗ sâu hoắm (shadow over eye sockets) :lol:
Nói chung ánh sáng này nên tránh vì làm cho model nhăn nhó, mồ hôi nhễ nhại. Chỉ chụp khi không tìm được bóng mát nào chung quanh.

Ảnh này được chụp dùng Center Weight Metering, không flash. Zoom sát vào mặt chủ đề, dùng TV setting, đo sáng, khóa setting lại, zoom ra rồi chụp. (khẩu độ 11, tốc độ 1/125, ISO setting 100). Dùng reflector. Set up kỹ thế vậy mà vẫn bị "blown out" ở tay.  (Too bad, hic hic hic)





Một cách khác để đối phó với ánh sáng mạnh là chụp close-up. Trong trường hợp này, để mặt của chủ đề chiếm phần lớn diện tích của hình để loại bỏ đi phần background quá sáng.





Một dạng ánh sáng mạnh nữa là những ngày tuyết. Mặc dù trời đầy mây nhưng mặt đất phủ đẩy tuyết trắng nên ánh sáng phản chiếu rất mạnh. Trong trương hợp như vậy "cưởng bức" model mặc đồ "màu mè" . Chụp với Center Weigh Metering. Cái khó là da của model sẽ bị tái 

Hình này được chụp ở Michigan, model bị lạnh tê tái. Da đâu được hồng như thế nếu không có PS



4. Ánh sáng nhẹ (soft light): Đây là dạng ánh sáng lý tương nhất để chụp chân dung. Thường là xế chiều khi mặt trời xuống thấp. Ánh sáng nhẹ đến nỗi mà ta có thể nhìn vào mặt trời mà không bị nhíu mắt  
Sau đây là 3 cách dùng ánh sáng nhẹ:

Chụp thuận nắng: Mặt trời trước mặt model. Đo sáng vùng hightlight.



Nếu hướng nắng đi vuông góc với góc chụp: Chụp theo kiểu Profile để làm nổi bật phần mặt (frontal face). Dùng flash để phủ nhẹ phần bên hông.



Nếu mặt trời đối diện camera (back lighting) thì ánh sáng sẽ làm nên vùng hight light chung quanh chủ đề. Vì ánh sáng này thấp, nhơ chận tia sáng đi thẳng vào ống kính, nếu không sẽ bị một lớp "mù" phủ lên hình.





5. Ánh sáng hắt: Đây là dạng ánh sáng đặc biệt tương đối mạnh vì nó dội tư ngoài sáng vào trong tối (hay râm). Chụp thể loại này nên dùng center weighted metering.

Dạng 1: Khi ánh sáng hắt vào từ 2 bên (dưới cái pier, cầu, láng). Mặc dù ánh sáng đi vào tư 1 phía nhưng củng có 1 phần ánh sáng ngược lại do phản chiếu. Ví dụ như ảnh sau đây, nguồn sáng từ bên phải nhưng ta vẫn thấy 1 ít ánh sáng hightlight ở bên trái.




Dạng 2: Khi ánh sáng hắt vào từ bên trên (trong 1 cái hẻm với 3 hay 4 phía bị cản ánh sáng bởi nhửng tòa nhà cao tầng). Chụp loại này thương để mặt chủ đề hơi cuối về phía trước để ánh sáng không bị rơi vào mặt. Nên tận dụng ánh sáng này để hightlight tóc đòng thời dùng flash để fill phần mặt.

Ảnh này chụp trong 1 cái hẻm cụt ở New York (3 chiều bị cản ánh sáng, và chiều còn lại củng bị cản bởi 1 tòa nhà cao tầng khác). Bạn có thể thấy ánh sáng từ phía trên hightlight tóc và lưng của chủ đề. Flash được dùng làm ánh sáng chính (key light).




Dạng 3: Window Lighting. Đây là dạng thường gặp nhất trong 3 dạng  khi ánh sáng hắt vào từ cửa sổ. Tùy theo ánh sáng mạnh hay nhẹ mà để chủ đề đứng gần hay xa cửa sổ, nếu cần thì dùng một tấm màng (curtain) để cản bớt ánh sáng lại. Chụp loại này thì lấy focus con mắt ở gần cửa sổ và đo sáng phần hightlight để không bị blown-out.

Ảnh này được chụp high contrast để làm nổi bật character lines. Ánh sáng từ cửa sổ là nguồn sáng chính (key light).



Ảnh này được chụp kết hợp với ánh sáng đèn vàng ở trong nhà. Ánh sáng từ cửa sổ dùng để hightlight phần mặt bên phải của em bé.



T. Nói chung, ánh sáng ngoài trời thay đổi rất là nhanh, nên trong khi chụp phải biết thay đổi camera setting của minh cho phù hợp với điều kiện ánh sáng. Luôn luôn xác định cho được đâu là nguồn sáng chính. "Position" chủ đề sao cho có những vùng hightlight và shadow để gây đươc cảm giác không gian 3 chiểu. 

Ảnh này, trên mặt chủ đề thể hiện đươc 4 vùng ánh sáng khác nhau. Vùng sáng nhất là 1, hơi sáng là 2, trung bình là 3, và vùng shadow là 4.

 



Contact me : 
anhtaicit

Mail : anhtai.cit@gmail.com
Yahoo / Skype : newstars_19889


Không nghe phò kể chuyện
Không nghe nghiện trình bày
Không nghe say chém gió
Không nghe chó sủa linh tinh

 
04/11/2013 13:11 # 2
anhtaicit
Cấp độ: 25 - Kỹ năng: 23

Kinh nghiệm: 136/250 (54%)
Kĩ năng: 210/230 (91%)
Ngày gia nhập: 13/01/2010
Bài gởi: 3136
Được cảm ơn: 2740
Phản hồi: 20 kỹ thuật chụp ảnh chân dung


KỸ THUẬT 3: Basic Composition.
Sau khi quan sát ánh sáng rồi, step kế tiếp là sắp đặt chủ đề ở đâu trên khung hình (subject placement). Đây là 1 kỹ thuật rất là quan trọng, vì nó hướng mắt người xem vào nơi mà mình muốn nhấn mạnh. Có những "rules" sau đây mà người chụp cần phải chú ý đến.

1. The rule of thirds (Luật 1/3): Theo luật này thì frame được chia làm 3 đường dọc và 3 đường ngang bằng nhau. Những đường này là những "đường mạnh", chủ đề nên nằm trên những đường này. Phẩn giao của những đường này tạo nên những "điểm mạnh". Đây củng là những điểm lý tưởng để đặt chủ đề của mình.







2. Direction (Hướng): Một tấm chân dung đẹp cần phải gây cảm giác "phương hướng" và "chuyển động" (sense of movement and direction). Để thực hiện điều này, bạn để nhiều khoảng trống trước mặt chủ đề hơn là sau lưng, và cung tạo nên hướng nhìn cho chủ đề.

Đây là 2 ví dụ về "direction"







3. Line (Đường): Có 2 loại đường: đường tình ta đi và đương tan vỡ :gathering (Đùa tí nhé)....Dường thực (real lines) và đương ảo (implied lines). Đường thực có thể thấy được ví dụ như đường rầy xe lửa, hàng rào. Đương ảo là nhưng đương tương tượng (đương này khó thấy hơn, tùy theo sự sáng tạo của người chụp ảnh).

Hai mục đích chính của "line" là:

a. Phá đi tính cô đọng (static) của frame. Thường thì frame hình chử nhựt hay vuông, để phá đi 2 chiều dọc và ngang này thì cần phải tạo những "line": sinh động hơn để phá đi tính "thụ động" này.





b. Mục đích thứ nhì của line là giúp hướng mắt người nhìn vào chủ đề.







2 ví dụ sau đây, đường đỏ là đương thực (real lines) nhằm hướng mắt người nhìn vào chủ đề, đường đen là đường ảo (implied lines) nhằm phá đi cái "static" của khung hình chữ nhật.







4. Shape (Hình dạng): Shape do đường thực hay đường ảo tạo thành. Thương thương dạng tam giác nhìn ấn tương nhất.

Dạng tam giác khi chụp đơn:





dạng tam giác khi chụp nhóm:





5. Tension and Balance (Sự căng thẳng và cân bằng): Sự sắp xếp của "shape" tạo nên cảm giác căng thẳng hay cân bằng.

Ví dụ sau đây, những thùng rác phía sau có độ sáng và kích thước quá khác biệt với chủ đề nên gây cảm giác "căng thẳng"





Ảnh này cân bằng hơn, vì chủ đề và chiếc xe đạp có cùng chung "tông" màu, độ sáng, và kích thước.





6. Pleasing compositional forms (Những dạng bố cục nhìn "dễ chịu"): Ngoài dạng tam giác nêu trên, dạng L-shaped (hay L ngược), S-shaped (hay S ngược), Z-shaped (hay Z ngược), C-Shaped (hay C ngược) củng tạo được những bố cục nhìn "pleasing" nhất.

Ví dụ về L-Shaped





Vi dụ về S-Shaped





7. Subject Tone: Sau khi đặt chủ đề lên trên đường mạnh hay điểm mạnh rồi, một điểm quan trọng nữa là cái "tone" của chủ đề phải sáng hơn, nét hơn, màu sắc nổi bật hơn (nếu chụp màu) những phần còn lại của hình.

Trong ví dụ này, độ sáng và nét làm nổi bật mặt (frontal) của chủ đề và giúp "stand out".






Tip này gồm có 4 phần: Camera Height, Head Positions, Framing, và Tilted Camera. Tip này bàn về "perspective" (tạm dịch là "cánh nhìn nhận chủ đề" CNNCĐ). Nói chung, vị trí đặt của camera ảnh hương đến "hình dạng của chủ đề. Hiểu rõ những qui tắc này sẽ giúp ta giữ đúng hay thay đổi (distorted) bề ngoài (appearance) của chủ đề khi cần.

1. Camera Height: Khi di chuyển Camera theo chiều dọc thì lưu ý những điểm sau đây:

Nếu chụp Head-and-Shoulders (hay Head-shot) (Tạm dịch là Bán Chân Dung) thì camera phải đặt ngang tầm với cái đỉnh của lỗ mũi (nose tip) để giũ đúng perspective.

[



Nếu chụp Three-Quarter-Length (Dưới thắt lưng và trên đầu gối) thì camera phải được đặt ở tầm đâu đó giữa vai và thắt lưngđể giũ đúng perspective.





Nễu chụp Full-Length (Chụp "nguyên con" :noexpress ), thì camera phải được đặt ngang thắt lưng để giũ đúng perspective.





Nói chung, từ những điểm chuẩn để giữ cho chủ đề đúng "perspective" kể trên, nếu ta di chuyển camera cao lên thì sẽ làm cho chủ để thấp đi, hoặc thấp xuống thì chủ đề sẽ cao lên. Vì vậy điều chỉnh camera sao cho chủ đề nhìn "lý tưởng" nhất (việc này thì tùy theo quan điểm riêng của người chụp).

2. Head Positions (vị trí đầu): Nếu Camera Height ảnh hưởng đến chiều cao của chủ đề thì Head Positions ảnh hưởng đến trọng lượng của chủ đề (tuy nhiên củng tùy thuộc vào cách đặt ánh sáng nữa).

Có 3 vị trí đầu cơ bản nhất trong chân dung là: 7/8, 3/4, và profile.

Seven-Eighths View (7/8): Ở vị trí này một bên mặt của chủ đề được thấy nhiều hơn phía bên kia, tuy nhiên ta vẫn thấy đươc cái tai.





Three-Quarters View (3/4): Chếch sang 1 tí nữa cho đến khi cái tai khuất đi thì ta có 3/4 view.





Profile: Tại góc chụp này, ta chỉ thấy một bên của mặt.





Bạn có thể kết hợp "camera height techique" và "head positions" để làm cho chủ đề "nhỏ con" đi.

Ảnh này được chụp high angle và 3/4 view.





3. Framing: Đây là 1 kỹ thuật rất quan trọng đến CNNCĐ (Cách nhìn nhận chủ đề). Thường thì ảnh được chụp trên những format tiêu chuẩn như: 4-by-6, 5-by-7, 5-by-5, 5-by-4, để tăng thêm tính đa dạng cho format thì ta dùng phương pháp Framing, có nghĩa là dùng những đường thực và đường ảo để tạo nên 1 cái frame khác bên trong một trong những frame tiêu chuẩn kể trên. 

Ảnh này cái cột bên trái (đóng vai trò đường thực) và cánh tay (đường ảo) "frame" chủ đề lại để phá đi cái frame kinh điển tỉ lệ 3/2.





Ảnh này bố cục được chặc chẽ hơn là nhờ cái vòm phía sau "frame" chủ đề lại.





Đây là một dạng đặc biệt của framing. Chủ đề được đặt sau tấm lưới. Tấm lưới tạo nên những đương chéo để phá đi tính cô đọng của frame kinh điển và đồng thời "frame" chủ đề thành những mãng nhỏ.





Đây là một kiểu rất sáng tạo về cách framing của anh Soneros. Trong ảnh này ta thấy framing không nhất thiết phải là cái "frame" được tạo bởi những đương thật mà có thể là sự kết hợp giữa đương thực và cạnh của frame. Và đặc biệt là frame trong ảnh này có tính chất "implied" và "abstract" đòi hỏi người nhìn phải suy tưởng ra (chứ không phải suy diễn ra :lol: ).







4. Tilted Camera (Kỹ thuật nghiêng máy): Kỹ thuật này được dùng để tạo bố cục ảnh, nếu mục đích này không đạt được thì có nghĩa là "lệch" máy :lol:

Ảnh này chủ đề pose thiếu linh động nên máy được nghiêng để tạo bố cục đường chéo và L-form.





Ảnh này máy được nghiêng, tuy nhiên , không giống như ảnh trên, người xem không biết máy đươc nghiêng theo góc độ nào vì chung quanh không có gì căn cứ theo để so sánh.





Tóm lại, những kỹ thuật kể trên giúp ta làm chủ được bố cục, thay đổi hay giữ CNNCĐ (perspective) để đạt đươc kết quả theo ý muốn.



Contact me : 
anhtaicit

Mail : anhtai.cit@gmail.com
Yahoo / Skype : newstars_19889


Không nghe phò kể chuyện
Không nghe nghiện trình bày
Không nghe say chém gió
Không nghe chó sủa linh tinh

 
04/11/2013 13:11 # 3
anhtaicit
Cấp độ: 25 - Kỹ năng: 23

Kinh nghiệm: 136/250 (54%)
Kĩ năng: 210/230 (91%)
Ngày gia nhập: 13/01/2010
Bài gởi: 3136
Được cảm ơn: 2740
Phản hồi: 20 kỹ thuật chụp ảnh chân dung


KỸ THUẬT 5: Basic Studio Lighting và Artificial Light.

Đây là 2 chủ đề mà người ta có thể viết thành 2 cuốn sách nên  chỉ xin mạn phép trình bày những điểm cơ bản nhất 

I. Basic Studio Lighting: Studio Lighting là tái tạo lại (hay bắt chước) ánh sáng tự nhiên nên nguồn sáng chính LUÔN LUÔN được đặt ít nhất là ngang tầm mắt của chủ đề hay là cao hơn. (Bởi vậy mấy phim kinh dị hay chiếu đèn mấy con quỹ từ phía dưới lên :lol: ).

Có 4 loại đèn chính trong studio: Key light, fill light, background light  hair light.





Sự thay đổi trong sắp xếp của các nguồn sáng này tạo nên tính đa dạng của kỹ thuật studio lighting. Ví dụ như: Loop Lighting, Paramount Lighting, Rembrand Lighting, Profile Lighting, Split Lighting.

Không có một chỉ số nhất định về cường độ ánh sáng và camera setting vì nhũng thồng số này phụ thuộc vào diện tích của studio, ví trí đặt của đèn flash, loại đèn flash được dùng, và ngay cả màu sắc của background.
a. Key light: Là nguồn ánh sáng chính quyết định phần nào của chủ đề được "chiếu sáng" (illuminate). Đây là nguồn sáng chính quyết định sự khác nhau giữa các thể loại ánh sáng setting trong studio.


b. Fill light: Mục đích chính của Fill Light là làm nhẹ đi phần shadow tạo bởi Key Light. Vì vậy, Fill Light luôn luôn "nhẹ" hơn (less powerful) Key light, còn nhẹ hơn như thế nào quyết định cái "mood" của ảnh.

Tỉ lệ thông thường giữa Key và Fill là 3:1. Tỉ lệ càng lớn (4:1, 5:1, và ngay cả no fill light) thì nhìn kịch tính hơn (more dramatic). Những tỉ lệ này thuộc về nhóm "high contrast" (chênh lệch cao giữa highlight và shadow).

Tỉ lệ càng nhỏ thì nhìn "dịu" hơn (pleasing). Ví dụ như: 3:2.


c. Hair Light: Đúng theo tên gọi của nó, Ánh sáng này "illuminate" phần tóc của chủ đề. Đèn nay thường được đặt hơi chếch ra phía sau để ánh sáng không "lọt" vào mặt chủ đề và làm cho tóc nổi bật lên nền background.





d. Background Light: Là loại ánh sáng rọi thẳng vào trung tâm của background để tạo thành "Vignette effect" (trung tâm sáng trong khi 4 góc tối đi) nhằm mục đích hướng mắt người nhìn vào chủ đề.






e. Kicker: Ngoài 4 loại chính kể trên, kicker là loại ánh sáng mạnh tương đương Key Light và đặt đối lại Key Light đề làm nởi bật cái "contour" và "roundness" (tạm dịch là "Đường viền không gian 3 chiều own: ).





Tính đa dạng của Studio Lighting là do sự kết hợp của các loại ánh sáng trên. Ngoại trừ Key Light bắt buộc phải có, những nguồn sáng còn lại thì tùy theo sự sáng tạo và sở thích của người chụp có thể dùng hết hoặc dùng vài loại hoăc không dùng củng được (chụp với một nguồn sáng).




Phần trên nói về các loại đèn dùng trong studio: Key light (phải có), fill light, hair light, background light, kicker (optional), đôi khi reflector củng được dùng như key light.


II.Trong studio có 5 loại setting chính: Paramount, Loop, Rembrandt, Split, và Profile.

Để dễ hiểu cho bài viết, các bạn cứ tưởng tượng studio setting giống như cái mặt đồng hồ (xin đừng xài đồng hồ digital :lol: ). Chủ để được ngồi ở trung tâm đồng hồ, camera được đặt ở vị trí 6 giờ, và tùy theo thể loại ánh sáng được dùng mà các đèn được thay đổi cho phù hợp.

1. Paramount Lighting: Ánh sáng này tái tạo ánh sáng gần giữa trưa khi mà mặt trời gần như trên đỉnh đầu. Key light được đặt ngay trên đầu và chính diện với chủ đề. Ánh sáng này làm nổi bật phần mặt (frontal) của chủ đề và "de- emphasize" phần hông (sides) của đầu. Vì key light được đặt đối diện và phía trên của chủ đề nên ánh sáng này tạo nên 2 cái shadows trên hốc mắt và một cái shadow ngay dưới mũi (đôi khi nó tạo nên dạng hình con bướm nên Paramount Lighting còn được gọi là Butterfly Lighting). Để làm giảm nhẹ những cái shadows này, fill light (hay reflector) được đặt ngay dưới Key Light (trường hợp duy nhất mà 2 loại đèn này được đặt cùng phía và theo hàng dọc trên dưới).





Ảnh trên, chủ đề nhìn thẳng vào ống kính, tuy nhiên hướng ngồi quay về phía ví trí 8 giờ . Key light được đặt ở vị trí 8 giờ ngay phía trên đầu, reflector được đặt ngay phía dưới Key light. Vì mắt chủ đề không sâu nên ta không thấy cái shadow trên hốc mắt rõ lắm, tuy nhiên ta vẫn thấy shadow ngay dưới mũi. Loại ánh sáng này thích hợp cho nữ (vì mắt nam thường sâu hơn mắt nữ).


2. Loop Lighting: Loại setting này hơi khác với Paramount ở chỗ là Key light vẫn để ở trên cao nhưng hơi thấp xuống để làm mất đi cái shadow trên hốc mắt, và chếch về một bên để tạo nên cái shadow hình "loop" trên má của chủ đề. Ánh sáng này thích hợp để làm "ốm" đi (slim) mặt của chủ đề.






3. Rembrandt Lighting: Hay còn được gọi là 45-degree lighting. Đặc điểm của ánh sáng này là nó tạo nên một cái tam giác nhỏ trên má của chủ đề (ở bên phía ngược lại của Key light). Ánh sáng này bắt nguồn từ họa sĩ Rembrandt người Hà lan, ông ta thích vẽ chủ đề đứng cạnh cửa sổ. Ánh sáng này thường được coi là cổ điển, kịch tính (classic, dramatic look), thích hợp cho nam. 
Để tạo được tác dụng Rembrandt Lighting, Key light được đặt thấp xuống nữa gần như ngang tầm mắt của chủ đề (để tránh tác dụng loop-shadow) và gần như là tạo một góc 45 độ đối với chủ đề.





Ảnh trên ta có thể thấy dạng hình tam giác trên má trái của chủ đề (Key light được đặt ở vị trí khoãng giữa 7 và 8 giờ, và thấp ngang tầm mắt của chủ đề).


4. Split Lighting: Loại ánh sáng này chỉ "chiếu" (illuminate) đúng nữa mặt của chủ đề, nữa còn lại hoàn toàn trong vùng tối. Ánh sáng này dùng để làm "ốm" đi (slim) những người có khổ mặt hay mũi "rộng". Ánh sáng này ít được dùng trong nhiếp ảnh thương mại (commercial photography). Nếu dùng thì tỉ lệ Key và Fill thường là 3:2.





Ảnh trên Key light được đặt ở vị trí 9 giờ, tỉ lệ Key:Fill là 3:1 (hic, it's not commercial photography. Ảnh này "free" chứ không bán được).


5. Profile Lighting: Loại ánh sáng này thì hướng nhìn của chủ đề và camera tạo nên một góc 90 độ. Key light được đặt hơi chếch ra phía sau chủ đề để làm nổi bật đường viền trên sống mũi. Fill light (optional) được đặt đối diện với Key để làm nhẹ đi phần shadow. Loại ánh sáng này ít được dùng vì nó giới hạn về mặt hình thức (chủ đề bị bó buộc về hướng nhìn và "posing").

[



Ảnh trên, camera ở vị trí 6 giờ, chủ đề nhìn về hướng 3 giờ (tạo nên góc 90 độ với góc chụp), Key light ở vị trí khoãng giữa 1 và 2 giờ.ách xử dụng và set đèn flash trong studio (bài viết này lấy đèn Excalibur 3200 làm ví dụ)

Một đèn flash dùng trong studio thường có những nút (buttons, slider) cơ bản sau (xem ảnh dưới):

Phía sau:





Phía trước:





Cái slider trên cùng "control" lượng ánh sáng đánh ra từ "flash ring", bạn có thể set từ 1/8 đến F (full power). Đây là nguồn sáng thực quyết định lượng ánh sáng mà mình muốn "đánh" (illuminate) lên chủ đề.

Cái slider ngay kế phía dưới "control" lượng ánh sáng đánh ra từ "modeling light", bạn củng có thể set từ 1/8 đến "full power". Thực chất đây chỉ là bóng đèn vàng (light bulb), nên không mạnh lắm so với "flash ring" nên dù có set full power củng không "át" (over-power) được "flash ring". Mục đích của modeling light là cho ta "coi thử" (preview) ánh sáng sẽ "đánh" vào chỗ nào một khi ta bấm máy chụp.

Ngay vùng trung tâm, ta có nút "slave". Khi nút này "on" thì phần "sensor" hoạt động làm cho đèn "fire" khi có nguồn sáng "kích thích" nó. Mục đích để làm cho đèn "work" như là "fill light".

Kế bên là nút "sound". Sau khi flash "fire", thì nó cần thời gian để nạp điện lại, khi nó "ready" thì nó sẽ phát ra tiếng "bíp" (nếu ta để nó "on") báo cho ta biết là đèn có đủ power cho shot kế tiếp.

Nút "M.L." là nút "công tắc" của đèn "modeling light".

Nút Power là nút "công tắc" của flash ring.

Lỗ cắm "sync" là nơi cắm dây để nối flash với camera (trường hợp flash đóng vai trò Key light nguồn sáng chính).







Hai ảnh trên cho thấy, nguồn sáng được hướng hội tụ lại vùng trung tâm của cái dù bởi một cái phểu, rồi lại được phản ngược trở lại về phía ta muốn chụp.Sau khi nắm được các loại ánh sáng cơ bản thường dùng trong studio và cách xử dụng đèn flash, vấn đề kế tiếp là đo sáng và chỉnh các setting trên camera (tốc độ, khẩu độ, ISO...) để có được một exposure như ý.

Nếu có thể được thì bạn có thể dùng light metering để quyết định một exposure lý tưởng. Tuy nhiên, nếu biết "set up" ta vẫn có thể chụp được một tấm ảnh đủ sáng mà không cần dùng light-metering (well, this tip can save you 200 dollars from buying that device :lol: ). 

Có 2 loại yếu tố ảnh hưởng đến một tấm ảnh đúng sáng là: 

a. Những yếu tố liên quan đến studio setting (độ mạnh của đèn flash, ví trí đặt của đèn, diện tích studio, tone của background).

b. Những yếu tố setting trên máy ảnh (khẩu độ, tốc độ, ISO)

Hai loại yếu tố này ảnh hưởng qua lại và trực tiếp tới nhau. Vì ta không dùng light-metering nên ta sẽ giữ những thông số trên camera cố định (nhóm yếu tố 2) và điều chỉnh flashes (nhóm yếu tố 1) sao cho có được một exposure lý tưởng.

III.Những setting lý tưởng trên camera trong studio:

* ISO: Vì ta hoàn toàn làm chủ ánh sáng nên để tránh ảnh bị noise, luôn luôn set ở 100.

* Khẩu độ: Trong studio, thì background không còn là "problem", vì background thường là một màu trơn, kết hợp với background light (để tạo vignette effect) nên ta không phải lo lắng nhiều về những cái lỉnh kỉnh làm phân tâm người nhìn khi chụp tại "location". Vì thế, set khẩu độ nhỏ để ảnh có độ nét cao và "chiều sâu ảnh trường" (DOF) rộng.

* Tốc độ: Set tốc độ cao để tránh ảnh bị nhòe do rung tay.

Nhóm thông số sau được dùng để minh họa cho kỹ thuật set up ánh sáng này ISO:100, tốc độ: 1/125s, khẩu độ: f/8

Sau khi set những thông số này cố định trên camera, bước kế tiếp là set lượng ánh sáng đánh ra từ key light (ta không phải lo lắng về fill light vì khi key light mà đúng thì fill light phải đúng).

Vì có nhiều loại đèn flash khác nhau (với công suất khác nhau) nên ví dụ sau chỉ có tính cách tượng trưng.

Đầu tiên set key light "đánh" 3/4 công suất của đèn. 

Test Shot: Chụp thử một tấm, trên camera, bật histogram lên (xin coi tip 1 về cách đọc histogram). Nếu ảnh dư sáng thì ta có những cách điều chỉnh sau: giảm công suất đèn xuống, hoặc di chuyển key light xa ra, hoặc tăng tốc độ trên máy, hoặc đóng khẩu độ nhỏ lại.

Nếu ảnh thiếu sáng thì (bạn có thể đoán): tăng công suất đèn lên, hoặc di chuyển flash gần lại, hoặc giãm tốc độ trên máy (nhưng đừng giãm dưới 1/60s), hoặc mở khẩu độ lớn lên (nhưng đừng lớn hơn f/5.6).

Tới đây, hi vọng bạn đã có khái niệm về cách thực hiện một "test shot". Nói chung là cần phải linh động quyết định cần phải hiệu chỉnh những setting của "nhóm yếu tố 1" (flash), hoặc "nhóm yếu tố 2" (camera).Sau khi key light đã set được như ý rồi (ví dụ như 3/4 công suất của đèn) thì vấn đề còn lại là fill light, background light, hair light (những đèn này có tính cách "optional").

Tùy theo ý thích mà ta chọn tỉ lệ thích ứng giữa key light và fill light. Tỉ lệ 1:3 là thông dụng nhất. Vậy nếu key light là 3/4 thì fill light sẽ là 1/3 của 3/4 (bác nào có calculator thì tính giùm đi :lol: , nói vậy thôi, chứ ước lượng là được rồi)

Những tỉ lệ 1:4, 1:5, thì sẽ cho ảnh có độ tương phản cao, nên nhìn kịch tính (dramatic). Thích hợp cho phái nam.

Tỉ lệ 1:2 thì sẽ cho độ tương phản thấp nên nhìn "pleasing" hơn. Thích hợp cho phái nữ.

Nếu hair light và background light được dùng thì công suất của đèn chỉ nên set 1/2 của key light (1/2 của 3/4 là bao nhiêu hở các bác? )

Lưu ý quan trọng: Khi chụp trong studio nên tắt hết các đèn, chỉ để modeling light của key light thôi, và để đủ sáng để có thể thấy vùng highlight và shadow. Ánh sáng của model light (ánh sáng preview) phải đủ sáng để ta có thể lấy nét (lấy nét ở mắt).Kỹ thuật chụp Artificial Light: Artificial light là những loại đèn như neon, tungsten, spotlight... Những loại đèn này được xếp vào nhóm "low light". Thật vậy cho dù là bạn đến Las Vegas hay New York là những nơi có ánh sáng rực rỡ về đêm, nhưng ánh sáng của city light không thể so sáng với ánh sáng mặt trời được. Tùy theo yêu cầu mà ta cần biết những điểm cơ bản sau khi "đối phó" với loại ánh sáng này.

Trường hợp background không cần thiết: Ví dụ như bạn chụp một sự kiện mà sự kiện đó đặc biệt quan trọng hơn cả background nhiều thì chọn lấy "giải pháp an toàn" là chụp ở tốc độ mà đèn cho phép. Làm như vậy thì chủ đề sẽ thấy rõ và đủ sáng trong khi background hoàn toàn chìm trong bóng tối.





Trường hợp không thể dùng flash được thì tăng ISO, nếu vẫn thiếu sáng mở lớn khẩu độ hơn, hoặc chụp tốc độ chậm lại (nếu bạn chụp dưới 1/60s thì nên dùng monopod)

Ảnh sau, mặc dù ISO được set ở 1600 mà vẫn không đủ sáng nên tốc độ được set ở 1/45s, máy được "tì" trên bàn cho vững.





Trường hợp chụp kết hợp với Flash: Đây là trường hợp NÊN dùng nhất vì:

-Ta vừa thấy được chủ đề và vừa thu được background. Ví dụ như thân chủ của bạn bỏ ra cả ngàn để tổ chức đám cưới ở khách sạn sang trọng nhất mà nếu chụp theo tốc độ đèn flash, khi lên ảnh chỉ thấy cô dâu chú rể dancing còn thì đèn màu, khách khứa chìm trong màn đêm hết own: . Hoặc như bạn du lịch tới thành phố lớn như New York rực rỡ về đêm, bạn chụp một tấm chân dung với background là Times Square, nhưng lên ảnh thì giống như chụp trong "parking lot" thì buồn lắm.

-Phương pháp này ảnh không bị "noise" (do set ISO cao) và không bị "heavy color cast" (xem ảnh trên, khuôn mặt cậu bé bị tối và vàng do ánh đèn light-bulb).

Nguyên tắc chung của kỹ thuật chụp "low light" kết hợp với đèn Flash:

-Để máy theo chế độ TV (Tốc độ ưu tiên) và fill nhẹ với Flash. Có 2 vấn đề cần lưu ý khi dùng phương pháp này: Bạn muốn lấy bao nhiêu background và chủ đề đứng ở đâu trước ống kính.

Trong khoãng 1/15s tới 1/50s là khoãng thời gian đủ lâu để thu được "artificial light" của background vào trong ống kính. Nếu bạn muốn thu "nhiều background" thì set 1/15s. Nếu "ít background" thì set 1/50s. (Linh động xử dụng trong khoãng tốc độ này).
Trong khoãng tốc độ này thì nguy cơ máy bị rung rất cao. Tuy nhiên, vì đó chỉ là background nên hơi rung hay mờ tí củng không sao, và nếu bạn chịu khó tập tạ thì khoãng này nếu chụp quen có thể vẫn rõ được :lol:
Còn nếu như bạn chụp ở tốc độ 1s (hay dưới) thì nên dùng monopod.

Vì ta set máy ở TV (chế độ auto) nên máy sẽ quyết định lượng ánh sáng trắng của đèn Flash tới chủ đề.

Sau khi bấm máy, thì Flash sẽ "đánh" trước. Sau khi "đánh rồi" ống kính vẫn mở để có đủ thời gian thu "ánh sáng tối" của background. Lúc này chủ đề nằm trong vùng tối nên nếu chủ đề nhúc nhích thì khi lên ảnh (tùy theo chủ đề đứng ở vị trí sáng tối cỡ nào) ta sẽ thấy ở phần "rìa" hơi blur. Nếu chủ đề đứng dưới ánh đèn vàng thì khi lên ảnh ta sẽ thấy ảnh sáng vàng "trộn" với ánh sáng trắng của đèn Flash. Vì vậy cần phải "ngóc" đèn Flash lên (ít nhất là 45 độ) để hạn chế lượng ánh sáng trắng lại, tránh không để chủ đề bị "over-lighting" (Ánh sáng trắng + ánh sáng tại hiện trường làm chủ đề bị dư sáng).

Nói chung phương pháp này, flash được dùng để làm chủ đề sáng, còn tốc độ chậm nhằm thu được ánh sáng tối của background.

Ảnh sau được chụp với tốc độ 1/25s, (vì background không xa lắm) bạn vẫn có thể thấy ánh sáng trắng của flash dội (bounce flash) từ trần nhà ám lên chú rể và cô dâu, đồng thời vẫn giữ nguyên ánh sáng của hiện trường nơi background.





Ảnh sau được chụp với tốc độ 1/4s, ta có thể thấy ánh sáng trắng của flash và viền màu chung quanh chủ đề (viền này thu vào máy SAU KHI flash đã đánh), vì background quá xa nên cần chụp tốc độ chậm này (chiếc xe hơi bên trái bị blur vì tốc độ chậm).





Contact me : 
anhtaicit

Mail : anhtai.cit@gmail.com
Yahoo / Skype : newstars_19889


Không nghe phò kể chuyện
Không nghe nghiện trình bày
Không nghe say chém gió
Không nghe chó sủa linh tinh

 
04/11/2013 13:11 # 4
anhtaicit
Cấp độ: 25 - Kỹ năng: 23

Kinh nghiệm: 136/250 (54%)
Kĩ năng: 210/230 (91%)
Ngày gia nhập: 13/01/2010
Bài gởi: 3136
Được cảm ơn: 2740
Phản hồi: 20 kỹ thuật chụp ảnh chân dung


KỸ THUẬT  6: The mind game: Những điều cần biết trong một Photo Shoot Session
Đây là tip liên quan đến cách điều khiển chủ đề trong những điều kiện ánh sáng, môi trường chụp khác nhau. Cụ thể là Portrait và Wedding Session.

1. Cách điều khiển (run) một Portrait Photo Shoot Session: Phần này bao gồm Consultation Meeting, quan sát ánh sáng, posing chủ đề, góc chụp, kỹ thuật framing, và communication (quan trọng nhất).

1a. Consultation Meeting: (tạm dịch là trao đổi trước khi chụp)
Nếu có thể được bạn nên bỏ ra khoảng 20 phút tới 1 tiếng để tìm hiểu và quan sát chủ đề trước khi chụp. Trong buổi meeting này điều cần nhất là gây sự tin tưởng cho chủ đề, nên bạn với tư cách là Photographer cần phải tự tin trước thì chủ đề mới tự tin được. Cách hay nhất là show cho chủ đề Porfolio (những ảnh mình đã chụp) của mình. Nếu chủ đề thích ảnh của bạn thì sẽ tin tưởng bạn. Đây củng là dịp để thảo luận về địa điểm, thời gian, và trang phục chụp. 
+ Địa điểm và thời gian chụp liên quan nhiều đến chất lượng ánh sáng. Địa điểm chụp cần nhất là nơi ít người qua lại để chủ đề tập trung và thoải mái hơn.
+ Thời gian chụp là khoãng 2 tiếng trước khi mặt trời lặn là lý tưởng nhất. Hoặc khi mà chủ đề có thể nhìn thẳng vào mặt trời mà không bị nhíu mắt (squint).
+ Trang phục chụp: Vì đây là chụp chân dung nên trang phục chỉ phục vụ cho sự thể hiện của chủ đề (expression). Quần áo cần nhất là màu trơn (1 hay 2 màu "solid"), nên tránh đồ có sọc, có chữ, hình ảnh trừu tượng...dễ gây sự phân tâm cho người nhìn ảnh.

* Kinh nghiệm của tác giả: Khi chủ đề hỏi tôi phải mặc gì ở Photo Shoot, tôi hay trả lời là "Mặc cái gì mà bạn cảm thấy thoải mái và tự nhiên nhất NHƯNG chỉ nên mặc màu trơn, không chữ, không hình ảnh trừu tượng" (chữ NHƯNG ngầm hiểu là sự yêu cầu hơn là sự đề nghị). ("Wear whatever you feel comfortable with, being yourself BUT make sure the clothes have solid color, no text, no abstract images")


1b. Quan sát ánh sáng: Trước khi bấm máy, bạn phải xác định cho được nguồn sáng chính từ đâu.

Khi tới địa điểm chụp, nếu là ngày mây, thì cả bầu trời sẽ tạo nên loại ánh sáng tản (diffusing light), đây là ánh sáng thích hợp và lý tưởng nhất cho chân dung.

Ví dụ về ánh sáng tản (diffusing light), trời mây (ảnh dưới)

Loại ánh sáng lý tưởng kế tiếp là ánh sáng nhẹ khi mặt trời sắp mọc hay gần lặn. Với loại ánh sáng dịu này, nếu bạn khéo đặt chủ đề thì thì khuôn mặt sẽ tạo nên tỉ lệ highlight và shadow không quá tương phản, ảnh nhìn sẽ kịch tính hơn.

Ảnh sau chụp lúc mặt trời gần tà, phần highlight không bị cháy (blown-out) và phần shadow vẫn giữ được chi tiết.



Nên tránh chụp lúc nắng gắt (giữa trưa), nhưng nếu phải chụp thì tìm hàng hiên hay trong bóng râm. Trong trường hợp này, ánh sáng từ ngoài vào trong hàng hiên/bóng râm sẽ trở thành nguồn sáng chính.

Ảnh sau được chụp trong hàng hiên trong một ngày nắng gắt (harsh). Ánh sáng HẮT vào từ bên phải ảnh.


1c. Posing chủ đề: Phần này liên quan mật thiết đến góc chụp và kỹ thuật framing.

Cơ bản nhất và dễ nhất để pose là để vai chủ đề tạo thành một góc khoãng 45 độ với hướng máy chụp



Ảnh dưới tôi điều khiển model đứng yên và tôi di chuyển qua bên trái, tôi đề nghị model nghiêng đầu về phía trước một tí và....bấm máy. (lưu ý hướng chụp và vai chủ đề tạo thành một góc nhọn.



Kinh điển nhiếp ảnh đòi hỏi chủ đề pose kỹ lưỡng từ đầu, tay, ngón tay, chân, đứng, ngồi, nằm....tới mức hoàn chỉnh. Làm như vậy thường làm cho chủ đề căng thẳng (ý kiến riêng của hafoto). Để làm cho posing trở nên dễ dàng, ngoài vai và góc máy nêu trên bạn chỉ cần nhớ thêm:

Một tư thế pose đẹp là một tư thế mà chủ đề cảm thấy thoải mái, giống như một tư thế thật, bạn chỉ điều chỉnh chủ đề sao cho bố cục thỏa mản.

Chi tay và chân nên nằm trên cùng vùng mặt phẳng với đầu (plane) và hơi gấp khúc để tạo những đường chéo dẫn tới mặt chủ đề. 

Ảnh sau 2 cánh tay chủ đề tạo nên những đường gấp khúc và dẫn mắt người nhìn tới khuôn mặt chủ đề.

1d. Góc chụp: Chọn góc chụp đẹp khôn những giúp ta hiểu chỉnh những chi tiết trên khuôn mặt chủ để và vóc dáng (xin xem tip "perspective" đã viết) mà còn làm tăng tính đa dạng của chủ đề. Sự thể hiện của khuôn mặt (facial expressions) thay đổi từng giây một và từng góc độ một nên cần thiết phải chụp nhiều góc cạnh khác nhau. 

Lợi điểm thứ 2 là góc chụp còn giúp ta loại bỏ những chi tiết lộn xộn ở background và giải quyết những trường hợp ánh sáng khó chụp.

Lưu ý khi chụp ở góc thấp, yêu cầu chủ đề nghiêng về phía trước để tránh biến dạng (thân hình to và đầu bị nhỏ lại)

 
Ảnh dưới vì những chi tiết lặt vặt trên mặt đất nên tôi chọn góc chụp thấp và yêu cầu chủ đề hơi nghiêng về phía trước để giảm thiểu sự biến dạng.

Ảnh dưới tôi chọn góp chụp cao để né ánh sáng gắt của mặt trời....

 

Trường hợp góc cao giúp ta tránh được ánh sáng trực tiếp từ mặt trời, và nền đất trở thành background. Tương tự vậy, yêu cầu chủ đề ngả ra phía sau để tránh biến dạng.

 
1e. Kỹ thuật Framing: Kỹ thuật này củng ảnh hưởng đến background. Với kỹ thuật này ta đi tới (1) sự chọn lựa và quyết định background nhiều hay ít, và (2) khi nào nên áp dụng kỹ thuật này (xin đọc phần dưới).

Nếu bạn chụp bán chân dung (head and shoulder) thì khi chụp wide angle lens bạn phải đứng gần chủ đề hơn và bạn sẽ được nhiều background hơn.

Tương tự vậy, với tele lens bạn củng chụp được bán chân dung nhưng phải đứng xa hơn và background sẽ ít hơn

Ảnh dưới chụp ở Focal Length 35 mm để lấy hết bức tường.



Củng chụp bán chân dung, ảnh dưới chụp ở Focal Length 210mm, và background hầu như bị loại bỏ hoàn toàn.



Lưu ý quan trọng: Khi chọn Focal Length để chụp, cần phải cẩn thận đến "độ lớn" của chủ đề. Củng là bán chân dung nhưng qua 2 ảnh trên, ảnh chụp wide angle lens chủ đề "bé" và không gian trải rộng ra, ảnh chụp tele thì chủ đề "lớn" hơn và khoãng không gian như gần lại (compressed).
Những kỹ thuật trên nhằm mục đích tạo nên những thành phần cơ bản nhất của nhiếp ảnh (visual art nói chung) là: Đường (line), dạng (shape), hình khối (form), chất lượng của bề mặt (texture), pattern (cái này khó dịch nhỉ????), và màu sắc (color).



Sau đây là một số khái niệm cơ bản nhất khi design một tấm chân dung. Posing đẹp là sự kết hợp giữa chủ đề và người chụp (photographer). Trong đó người chụp đóng phần quan trọng hơn. Quan trọng hơn là vì người chụp chọn lựa, sắp đặt, dàn dựng (nói chung là design) những thành phần cơ bản của nhiếp ảnh (photographic elements) như line, shape, form,...và quyết định thành phần nào sẽ đóng phần chủ đạo trong tác phẩm của mình.

Trước khi đi vào phần "Communication" là phần đặc biệt quan trọng trong nhiếp ảnh chân dung, ta nên nắm vài nét cơ bản nhất trong việc design một tấm ảnh (vấn đề không đơn thuần chỉ là posing)

1. Line (Đường): Đây là thành phần cơ bản nhất của nhiếp ảnh. Khi bạn nhìn vào viewfinder vấn đề quan trọng là bạn phải nhìn ra đường (xin xem các tips trước về đường thực và đường ảo).



Ảnh trên, chủ đề pose khá cứng nhắc, nhưng với kỹ thuật nghiêng máy, người chụp có thể tạo nên 2 đường chéo để phá đi cái "bị động" của khung hình chữ nhật.
2. Shape (hình dạng): Sự liên kết của "line" tạo thành "shape"



3. Form (hình khối): Nếu Shape là phần mặt phẳng 2 chiều thì Form nói về không gian 3 chiều. Nhiếp ảnh là nghệ thuật thu không gian 3 chiều lên nên mặt phẳng 2 chiều, nên người chụp cần phải tạo cho người xem ảnh có "cảm giác" không gian 3 chiều. Để gây ấn tượng này thì nguồn sáng chính luôn được đặt chếch về một bên (sidelight) để cho chủ đề "nổi khôi". Và một kỹ thuật nữa dùng trong photoshop đã được trình bày trong phần Retouch là "Kỹ thuật Dodge và Burn".

Ảnh dưới, nguồn sáng chính hắt từ ngoài vào hàng hiên tạo nên những mãng tối sáng tạo "cảm giác không gian 3 chiều".



4. Texture: Một thủ pháp thường dùng trong nhiếp ảnh chân dung là nhấn mạnh và làm nổi bật bề mặt của da (skintone)... Cái này đòi hỏi ảnh có độ nét cao (do lấy nét tốt, chất lượng ống kính, và kỹ thuật sharpen) để gây ấn tượng cho người xem ảnh. Tùy theo yêu cầu mà đôi khi kỹ thuật "lỉght diffusing" được kèm theo để gây cảm giác "pleasant" cho người nhìn (trường hợp glamourous photography).



5. Pattern: (hình dạng lập đi lập lại) Một cách dễ nhất để gây sự chú ý và tập trung vào chủ đề là cho chủ đề phá đi cái pattern.

Ảnh dưới những ô vuông của hàng rào tạo những pattern bị phá đi bởi chủ đề



6. Color: Một phương pháp rất thường dùng trong nhiếp ảnh là "over-saturate" để gây sự chú ý. 

Ảnh dưới màu xanh blue được over-saturated để làm nổi bật đôi mắt xanh của chủ đề nằm trên nền skintone màu đỏ (củng được saturated).

Có lẻ tới đây bạn tự hỏi, chụp một tấm chân dung mà cần phải biết ngần ấy ư?
Trả lời: Bạn không cần phải kiểm soát từng chi tiết một kể trên để đạt được một tấm chân dung đạt kỹ thuật. Nếu bạn thực tập nhiều thì những kỹ thuật trên sẽ trở thành cái gọi là trực quan (intuition). Vì trong khi chụp (photo shoot session), bạn sẽ không 1 phút bận tâm về kỹ thuật chụp ảnh mà dồn tất cả thời giờ điều khiển chủ đề để đạt được cái thần, cái hồn, và sức diễn cảm (expressions) của chủ đề mà những kỹ thuật trên không tạo được. Nói tóm lại, một tấm ảnh chân dung có thể đạt được về mặt kỹ thuật nhưng vẫn không cho người nhìn thấy được cái thần của chủ đề là do thiếu sự liên lạc giữa chủ đề và người chụp....

7. Communication (Điều khiển chủ đề): Communication là một kỹ thuật rất quan trọng nhằm làm nổi bật lên những cá tính, cảm xúc, sức diễn cảm của chủ đề. Photo Shoot là một quá trình thứ tự và liên tục từ cách xử dụng lens, chọn khoãng cách chụp, mật độ chụp, hướng dẫn chủ đề pose, và dĩ nhiên kỹ thuật làm cho chủ đề tự tin và thoải mái.

Sau khi chọn địa điểm chụp và xác định được nguồn sáng chính, 2 điều cần nhớ đầu tiên là chọn khoãng cách chụp và hướng dẫn chủ đề pose.

Luôn luôn bắt đầu với cái gọi là "Working Distance". Đây là từ chuyên môn trong nhiếp ảnh chân dung tạm dịch là "khoãng cách lý tưởng". Nếu bạn nhìn vào trong viewfinder ở tiêu cự 100 mm VÀ frame được chủ đề phần ngực và đầu (head and shoulder shot) thì bạn đã đạt được "Working Distance". Gọi là "khoãng cách lý tưởng", vì tại khoãng cách này chủ đề cảm thấy thoải mái nhất (phần lớn chủ đề rất nhạy cảm khi ống kính dí quá sát) và tại khoãng cách này không quá xa và không quá gần giúp bạn điều khiển chủ đề mà không phải la to lên (không ai thích bị nghe hét)
 




               Ảnh trên chụp ở tiêu cự 100 mm (nhưng nhìn gần hơn là vì chụp với digital Canon nhân với factor 1.6, C'mon đại khái thôi mà đâu cần phải chính xác vậy). Lưu ý thêm là với kỹ thuật framing chủ đề bị tách ra hoàn toàn với background hỗn độn.
Điểm thứ 2 quan trọng là luôn luôn bắt đầu với tư thế dựa (đứng hay ngồi). Với tư thế này cho dù model chuyên hay không thì tư thế dựa luôn làm cho chủ đề cảm thấy thoải mái và tự tin nhất.



Luôn luôn trấn an chủ đề là chủ đề nhìn đẹp và tư thế pose đúng cách khi nhìn qua ống kính của bạn mặc dù tư thế pose có hơi thụ động. Thực vậy, vì cho dù chủ pose như thế nào đi nữa nhưng với kỹ thuật framing và nghiêng máy bạn luôn tạo được những bố cục nhìn vững vàng và chắc chắn (dynamic).

Ảnh sau tôi yêu cầu chủ đề đứng khoanh tay (tư thế này nhìn rất thụ động trong nhiếp ảnh kinh điển), và với kỹ thuật framing nhằm loại bỏ những chi tiết lặt vặt chung quanh và hàng rào phía trước kết hợp với kỹ thuật nghiêng máy tôi thực sự đóng góp vào tư thế pose của chủ đề...(Lưu ý khoãng cách chụp cái gọi là "working distance").



Điều khiển chủ đề bằng lời nói (Directing model verbally): Cùng với khoãng cách chụp lý tưởng bạn phải luôn luôn khuyến khích, khen ngợi, nếu cần ngưỡng mộ chủ đề để tạo cảm giác tự tin và phấn khởi cho chủ đề. Nếu chủ đề có những tư thế pose và cách diễn cảm lạ lùng hơi quá đáng thì bạn củng đừng có chê và tiếp tục bấm máy thêm vài tấm rồi dừng lại giả vờ nghĩ giải lao (take a break) để phá tan dòng cảm xúc lạ lùng đó.

Khi yêu cầu chủ đề pose tay hay đầu bạn chỉ cần nói chứ không cần chạm đến người chủ đề. Ví dụ như:
- Cuối đầu xuống tí và nhìn lên (đừng có lấy tay chạm vào đầu người ta )
- Đưa tay lên ngang tầm mắt và vịn vào bờ tường.
- Nghiêng người ra phía sau và chịu trọng lực lên chân sau.
Cùng với việc dùng lời nói yêu cầu chủ đề, bạn phải di chuyển để đạt góc chụp lý tưởng (đừng mong mõi chủ đề cho bạn tư thế chụp lý tưởng).
Đừng quên, sau khi yêu cầu chủ đề bạn phải tỏ ra mình tán thưởng. Những lời tán thưởng giống như một dấu chấm mà chủ đề cần phải ngừng lại và tập trung vì đó sẽ là thời điểm bạn bấm máy. Ví dụ:
- Đúng rồi (bấm máy), đẹp lắm (bấm máy), rất tình (bấm máy) v.v.....
- Wowww (click), excellent (click), man you look awnsome (click), i like that (click).......

Không bao giờ đếm (ví dụ 1....2...3... chụp nha). Kỹ thuật này rất tệ hại vì hoặc là chủ đề sẽ cho bạn cảm xúc giả (fake expression) hoặc bạn sẽ tăng áp lực lên chủ đề (building up tension). 
Ví dụ sau có thể sẽ là ý nghĩ của chủ đề (trong ngoặc) khi bạn dùng kỹ thuật đếm.
- Một (aaaa anh ta sắp chụp rồi)....Hai (Gần chụp rồi cố gắng lên cần phải chú ý cao độ và nhoẽn miệng cười) ....và Ba chụp nè (nhe răng). 
Kết quả là bạn sẽ có nụ cười giả tạo (fake smile). Người ta nói khi cười đôi mắt củng cười....

Thay vì yêu cầu chủ đề thể hiện một cảm xúc nào đó mà bạn tìm kiếm, bạn hãy giả vờ như chủ đề đã có cảm xúc đó rồi. 
Ví dụ: Wowww, bạn nhìn rất tự tin (tự nhiên chủ đề sẽ chuyển qua thái độ tự tin.
Ví dụ 2: I like this look, it is very serious (model will act accordingly).
Điều khiển chủ đề bằng lời nói (Directing model verbally): Cùng với khoãng cách chụp lý tưởng bạn phải luôn luôn khuyến khích, khen ngợi, nếu cần ngưỡng mộ chủ đề để tạo cảm giác tự tin và phấn khởi cho chủ đề. Nếu chủ đề có những tư thế pose và cách diễn cảm lạ lùng hơi quá đáng thì bạn củng đừng có chê và tiếp tục bấm máy thêm vài tấm rồi dừng lại giả vờ nghĩ giải lao (take a break) để phá tan dòng cảm xúc lạ lùng đó.

Khi yêu cầu chủ đề pose tay hay đầu bạn chỉ cần nói chứ không cần chạm đến người chủ đề. Ví dụ như:
- Cuối đầu xuống tí và nhìn lên (đừng có lấy tay chạm vào đầu người ta )
- Đưa tay lên ngang tầm mắt và vịn vào bờ tường.
- Nghiêng người ra phía sau và chịu trọng lực lên chân sau.
Cùng với việc dùng lời nói yêu cầu chủ đề, bạn phải di chuyển để đạt góc chụp lý tưởng (đừng mong mõi chủ đề cho bạn tư thế chụp lý tưởng).
Đừng quên, sau khi yêu cầu chủ đề bạn phải tỏ ra mình tán thưởng. Những lời tán thưởng giống như một dấu chấm mà chủ đề cần phải ngừng lại và tập trung vì đó sẽ là thời điểm bạn bấm máy. Ví dụ:
- Đúng rồi (bấm máy), đẹp lắm (bấm máy), rất tình (bấm máy) v.v.....
- Wowww (click), excellent (click), man you look awnsome (click), i like that (click).......

Không bao giờ đếm (ví dụ 1....2...3... chụp nha). Kỹ thuật này rất tệ hại vì hoặc là chủ đề sẽ cho bạn cảm xúc giả (fake expression) hoặc bạn sẽ tăng áp lực lên chủ đề (building up tension). 
Ví dụ sau có thể sẽ là ý nghĩ của chủ đề (trong ngoặc) khi bạn dùng kỹ thuật đếm.
- Một (aaaa anh ta sắp chụp rồi)....Hai (Gần chụp rồi cố gắng lên cần phải chú ý cao độ và nhoẽn miệng cười) ....và Ba chụp nè (nhe răng). 
Kết quả là bạn sẽ có nụ cười giả tạo (fake smile). Người ta nói khi cười đôi mắt củng cười....

Thay vì yêu cầu chủ đề thể hiện một cảm xúc nào đó mà bạn tìm kiếm, bạn hãy giả vờ như chủ đề đã có cảm xúc đó rồi. 
Ví dụ: Wowww, bạn nhìn rất tự tin (tự nhiên chủ đề sẽ chuyển qua thái độ tự tin.
Ví dụ 2: I like this look, it is very serious (model will act accordingly).

Tip 6: The mind game: Những điều cần biết trong một Photo Shoot Session (tiếp theo)

Mật độ chụp: Là khoãng thời gian giữa 2 lần bấm máy. Kỹ thuật này củng được dùng để tác động lên trạng thái tâm lý và cảm xúc của chủ đề.

Nếu mật độ chụp cao (khoãng từ 2 giây -> 5 giây) thì sẽ gây cho chủ đề cảm giác hưng phấn. Họ có cảm giác là mỗi cử chỉ, động tác đều sẽ được nắm bắt (captured) và điều này ảnh hưởng đến: 1. Sự tập trung và chú ý cao độ của chủ đề vào ống kính, 2. Sự tự tin của chủ đề, phải làm sao cho họ cảm giác rằng họ nhìn đẹp nhất, thu hút nhất. Phải làm cho họ tin rằng "Woww! I am attractive, beautiful, handsome,....and look best, that is why he (the photographer) shots non-stop"

Hơn nữa khi bạn bấm máy với mật độ cao, sát xuất ảnh đẹp sẽ cao hơn và vì.....memory rẻ mà (kakakakka)

Chụp mật độ cao thích hợp với "Active Posing". Nghĩa là chủ đề chuyển động và tạm dừng (pause) cho bạn bấm máy và nhanh chóng chuyển qua tư thế khác. Vì vậy, để giữ dòng cảm hứng cho chủ đề khi họ tạm dừng bạn phải bấm máy ngay (cho dù là bạn cảm thấy pose chưa hoàn chỉnh, bố cục chưa tốt) để cho họ tiếp tục chuyển qua động tác khác.

Những ảnh sau tôi compose và chụp chỉ trong vòng 2 giây cho mỗi shot (Bạn để ý tấm 2 và 4 cho dù chủ đề chưa hoàn toàn chuẩn bị tôi củng bấm máy để model tiếp tục chuyển động).




Nói chung, khi bạn đưa máy lên nhìn vào ống ngắm là trong vòng 2 tới 5 giây (cho dù bạn biết tấm ảnh đó sẽ compose sai, đừng lo chút nữa delete) thì vẫn bấm máy, nếu bạn ngắm nghía quá lâu, thì chủ đề sẽ nghi ngờ về khả năng diễn cảm củng như bề ngoài của họ.

Nếu bạn cảm thấy cần thêm thời giờ để compose một tấm ảnh thì bạn phải giải nghĩa tại sao bạn làm vậy để chủ đề biết rằng họ phải làm gì đề cộng tác với bạn và điều đó không liên quan gì đến khả năng diễn cảm hay bề ngoài của họ.

Ảnh sau tôi yêu cầu chủ đề nghiêng đầu sao cho hướng ánh sáng chỉ làm nổi bật một bên thôi (window lighting), họ biết rằng tôi cần thời gian để đạt hiệu quả mong muốn.



Ảnh sau tôi điều khiển chủ đề (họ biết họ phải làm vậy) sao cho 2 bậc thang frame khuôn mặt lại.




Khi bạn cảm thấy có sự liên lạc tin tưởng của chủ đề đối với mình, thì bước kế tiếp là làm cho buổi chụp (photo shoot) thêm phần hứng thú. Trước khi bước vào phần này thường thì bạn nên cho model giải lao (take a break) và cho họ xem qua những hình được chụp trên view finder (ưu điểm của digital).

Những cách sau tôi thường áp dụng để làm cho buổi chụp thêm phong phú:

1. Thay đổi khoảng cách chụp: Tới giai đoạn này bạn có thể phá vỡ khoãng cách kinh điển (working distance) để áp sát hay chụp ở cự li xa (tới đây phần nào chủ đề củng hiểu style chụp của bạn rồi).

Ảnh sau tôi tiến gần hơn khoãng cách lý tưởng để có shot này:



....ảnh sau được chụp ở khoãng cách hơn 10 mét:

[

2. Thay đổi góc chụp: Bạn có thể thử nghiệm với những góc chụp "extreme" để gây hiệu ứng đặc biệt.

Ảnh sau tôi nằm ngay dưới chân chủ đề và yêu cầu họ hơi nghiêng về phía trước...để có một góc chụp cực thấp.



...và ngược lại bạn củng có thể tìm một góc chụp cao 



3. Thử nghiệm với hiệu quả đặc biệt: Nếu bạn có wide angle lense, thì đây là lúc nên tận dụng chức năng của nó.

Ảnh sau tôi tiến thật sát (càng gần thì mức độ distortion càng cao) để gây hiệu ứng đặc biệt.




....hoặc chỉ chụp đôi mắt mà thôi.





Một số tips làm cho chủ đề luôn luôn tập trung và active:

1. Thỉnh thoảng yêu cầu chủ đề chớp chớp mi mắt để mắt linh động hơn. Thường thì sau 5 hay 10 phút tập trung đôi mắt trở nên mệt và nhìn thiếu linh động.

2. Thỉnh thoảng yêu cầu chủ đề "exercise" đôi môi để tránh tình trạng môi dưới bì thừ ra do mệt.

3. Take a break và nói đôi chuyện ngoài lề để thư giản chủ đề.


Vài kinh nghiệm cá nhân để tổng kết phần điều khiển chủ đề:

1. Đối với tôi một photo shoot giống như là một trò chơi tâm lý từ lúc bắt đầu tới lúc kết thúc. Lúc bắt đầu buổi shoot mối quan hệ của tôi với model như là quan hệ một chiều vì tôi luôn phải điều khiển và chủ động. Dần dần, model trở nên hứng thú và cuối cùng chính họ là người sáng tạo ra kiểu pose mà tôi chỉ gợi ý. Bản thân tôi đánh giá sự thành công của buổi shoot dựa trên mức độ cộng tác và thái độ thoải mái ở CUÔI BUỔI SHOOT.

Ảnh sau là kết quả của sự cộng tác của chủ đề. Lúc này là cuổi buổi shoot, tôi và Chris đi bộ ra xe để về thì tôi nhìn thấy bờ tường chạy dài theo bãi biển. Tôi gợi ý là phải chỉ bờ tường cao lên một tí thì có thể chụp làm sao để bờ tường làm thành đường dẫn vào khuôn mặt. Chỉ nói vậy, Chris lập tức chạy tới và quỳ xuống áp vào bờ tường để tôi bấm máy.



Củng cùng buổi chụp với Chris, tại bãi đậu xe tôi nhìn thấy cái ramp khá cao hơn bình thường, tôi gợi ý với Chris là tôi muốn tạo một tấm ảnh nhìn cân bằng (symmetric) và sao cho chủ đề trở thành ngay trung tâm của ảnh và Chris đã rất hăng hái pose ngay giữa đường cho dù xe cộ 2 bên lane đang chờ (hehehe, sorry guys).



2. Đối với tôi, một tấm ảnh pose đẹp là kết quả của sự cộng tác 2 chiều giữa photographer và model. Vì vậy, trong tip này tôi hoàn toàn không đề cập nhiều đến kỹ thuật pose tay, bàn tay, đầu, chân .v.v.... vì nếu người photographer cho model cảm giác là model phải pose đúng thì họ sẽ có cảm giác áp lực và điều đó ảnh hưởng rất lớn đến trạng thái tâm lý của model. Hơn nữa với kỹ thuật framing và với sự nhạy cảm về bố cục ảnh thì hầu như người photographer luôn luôn tự giải phóng mình bởi những lề luật về kỹ thuật posing kinh điển.

Ảnh sau tư thế pose tay của Catherine rất static (buông thỏng) nhưng cô ta có nét thể hiện rất thu hút vấn đề là tôi phải chọn góc chụp và nghiêng máy để thêm đường nét dynamic trong bố cục.



3. Và cuối cùng đừng quên đôi mắt và đôi môi. Đối với tôi, cái thần của cảm xúc là ở đôi mắt (cùng với miệng là 2 chi duy nhất trên khuôn mặt là có sức diễn cảm). Vì vậy trong quá trình chụp luôn luôn tập trung nhìn thẳng vào mắt chủ đề vì: 1. Tạo mối liên lạc với chủ đề (eye contact) 2. make sure ánh sáng không tạo nên những vùng shadow dưới hốc mắt.

Ảnh sau tôi phải di chuyển góc chụp sao cho vùng shadow không đổ lên mắt của chủ đề và kết hợp với kỹ thuật framing để mắt trở thành tâm điểm của ảnh (bố cục).



Ảnh sau, mặc dù nắng không gắt lắm nhưng đủ chói để làm cho mắt chủ đề nhíu (squint), tôi yêu cầu chủ đề nhắm mắt lại và đếm tới 3 (trường hợp ngoại lệ cần phải đếm) khi chủ đề vừa mở mắt ra nhìn thẳng vào mặt trời là tôi bấm máy. Mặc dù bố cục lệch lạc (thông cảm vì phải bấm máy liền mà) nhưng cái thần của đôi mắt đã kéo lại tấm ảnh.



Phần điều khiển chủ đề trong chụp chân dung tới đây xin hết. 

Tác giả bài viết:  
Nguồn tin: Sưu tầm



Contact me : 
anhtaicit

Mail : anhtai.cit@gmail.com
Yahoo / Skype : newstars_19889


Không nghe phò kể chuyện
Không nghe nghiện trình bày
Không nghe say chém gió
Không nghe chó sủa linh tinh

 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024