THƯ PHÁP Ả RẬP
Nguồn gốc chữ À Rập:
Tiếng Ả Rập là một dòng ngôn ngữ bắt nguồn từ chữ do Thái và chủ yếu là các phụ âm, hệ thống ký tự Ả Rập được phát triển trong một thời gian khá ngắn nhưng sau đó đã trở thành một trong những hệ thống ngôn ngữ rất được phổ biến cho đến nay cùng với các hệ chữ latinh, chữ hán, chữ shanrit,…
Nguồn gốc người Ả Rập là văn hóa du mục. Họ có một nền văn hóa rất phát triển trước khi bị văn hóa Hồi Giáo làm ảnh hưởng và thống nhất về tư tưởng của họ, thế nhưng văn hóa du mục với vẻ đẹp của thơ ca đã đi vào cuộc sống của họ như một phần thiết thực trong cuộc sống. Người Ả Rập họ sáng tạo rất nhiều về thơ ca, văn học và thư pháp. Từ đó người Ả Rập dần cảm nhận sự quan trọng và công sức rất tuyệt vời của hệ thống ký tự mới này.
Hệ thống ký tự:
Hệ thống ký tự hiện nay của Ả Rập có nguồn gốc từ hệ thống ký tự Aram Nabataean. Gồm 28 ký tự không có nguyên âm ngắn, phân biệt các ký tự bằng một dấu chấm hay được đặt trên và dưới các câu. Các nguyên âm ngắn được thực hiện bằng các nét nhỏ chéo ở trên hoặc dưới các ký tự.
Bảng chữ cái Ả Rập
Hệ thống ký tự Aram Nabataean đã được những người Ả Rập du mục dùng làm hệ thống ngôn ngữ truyển bá rộng rãi từ khu vực Sinai Bắc Arabia kéo dài đến miền nam Syria. Đế chế Nabataean kết thúc năm 105 trước công nguyên, thế nhưng loại ngôn ngữ và chữ viết này đã tác động mạnh đến sự phát triển hệ thống ký tự Ả Rập cho đến nay.
Hệ thống ký tự Jazm là một hệ thống ký tự mới có nghiên cứu từ hệ thống ngôn ngữ Nabataen, các ký tự cứng nét, góc cạnh và cân đối hơn. Sau này đây chính là hệ thống ký tự xuất phát điểm cho hệ thống ký tự Kuji rất nổi tiếng.
Vì những chế độ thần quyền trong văn hóa Hồi Giáo đã phát triển nghệ thuật Thư pháp thành một biểu tượng tôn giáo mà đặc trưng là các hệ thống ngôn ngữ dành để thực hiện cuốn kinh Koran một biểu tượng văn hóa lớn của các nước Hồi giáo.
Học giả Hamid Yasin Safadi (1978) viết:
Thư pháp tiếng Ả Rập là một hình thức chủ yếu của nghệ thuật cho hình ảnh biểu Hồi giáo và sáng tạo. Trong toàn bộ địa lý rộng lớn của thế giới Hồi giáo, Ả Rập thư pháp là biểu tượng đại diện cho sự thống nhất, vẻ đẹp và sức mạnh. Các nguyên tắc thẩm mỹ của tiếng Ả Rập thư pháp là một sự phản ánh của các giá trị văn hóa của thế giới Hồi giáo. Một điều tra kỹ lưỡng vào những khác biệt mang tính thẩm mỹ giữa Ả Rập và thư pháp tiếng Ả Rập không thể cung cấp một cách tiếp cận để hiểu đúng tinh thần cơ bản của mỗi nền văn hóa.
Sự mạnh mẽ và tràn đầy năng lượng Umayyad phó vương al-Hajjaj Ibn al-Thaqafi Yousuf (694-714), đã về trách nhiệm giải quyết các vấn đề liên quan đến diacriticals. Ông đưa Nasr và Yehya để tinh chỉnh hệ thống Tashkil. Họ giới thiệu việc sử dụng các dấu chấm và dấu hiệu một số nguyên âm như các nhãn hiệu khác biệt. Các dấu chấm được đặt ở trên hoặc bên dưới các lá thư, hoặc là đơn hoặc trong các nhóm hai hoặc ba.
Thật không may, nhiều người dân và kinh sư hệ thống là không rõ ràng và khó hiểu. Một hệ thống tinh vi hơn là cần thiết. Các phong trào cải cách thứ hai được thực hiện khoảng 786. Ibn Ahmad Khalil al-Farahidi, nhà ngữ văn nổi tiếng Ả Rập và tự điển học, được giao nhiệm xây dựng hệ thống Tashkil mới. Al-Farahidi giới thiệu các dấu hiệu nguyên âm lấy cảm hứng từ hình dạng ban đầu hoặc các bộ phận của lá thư. Dấu hiệu 'hamza,' ví dụ, là một phần của 'Ayn "các chữ cái (không có đuôi kết thúc).
Hệ thống mới được phổ biến rộng khắp thế giới Hồi giáo. Và tiếng Ả Rập thư pháp có được các đặc điểm của vẻ đẹp, thiêng liêng, và tính linh hoạt. Thư pháp tiếng Ả Rập đã được sử dụng hành chính, về kiến trúc, về tiền xu, để thư từ bút ấn tượng, và việc xuất trình sổ thanh lịch, đặc biệt là Thánh Kinh Koran, thu nhỏ, và tác phẩm văn học khác.
Ba nhà Thư pháp bậc thầy trong việc phát triển nghệ thuật Thư pháp Ả Rập là Ibn Muqlah (886-940), Ibn al-Bawwab trong thế kỷ 11 và Yaqut al-Musta'simi vào cuối thế kỷ 13. Hai người sau này xây dựng nghệ thuật thư pháp Ả Rập dựa trên cách thể hiện của thầy thông giáo Ibn Muqlah, người Ả Rập yêu thích và tìm hiểu từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 18, ba thư pháp này là những người sáng tạo duy nhất của "phong cách hiện đại", và ba bậc thầy thư pháp này với ba phong cách thể hiện đã truyền lại cho đời sau những chuẩn mực, một số đặc trưng và kỹ năng rất riêng biệc cho việc phát triển của thư pháp Ả Rập.
Thư pháp tiếng Ả Rập đã giành được một danh tiếng cao cả cho là thiêng liêng, đạo đức, và nghệ thuật đại diện của đức tin Hồi giáo và nghệ thuật.
Minh Hoàng viết