Những điểm thiết yếu trong chẩn đoán
Các triệu trứng kích thích bài tiết.
Khó chịu ở đáy chậu và trên xương mu, thường mơ hồ và khó định vị.
Có các chất tiết của tuyến tiền liệt khi bóp và kết quả cấy cũng dương tính.
Nhận định chung
Mặc dù viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn có thể tiến triển từ viêm tuyến tiền liệt cấp tính do vi khuẩn, song nhiều bệnh nhân không có tiền sử nhiễm trùng cấp tính. Trực khuẩn Gram (-) là các tác tác nhân gây bệnh hay gặp nhất, nhưng chỉ có một vi khuẩn Gram (+) (enterococcus) là kết hợp với nhiễm trùng mạn tính. Con đường nhiễm trùng giống như đã giới thiệu ở phần nhiễm trùng cấp tính.
Triệụ chứng và dấu hiệu
Các biều hiện lâm sàng có tính biến thiên. Một số bệnh nhân không có triệu chứng, nhưng đại đa số là có các mức độ khác nhau của các triệu chứng kích thích bài tiết. Đau lưng phía dưới và đau ở đáy chậu không hay gặp. Nhiều bệnh nhân có tiền sử mắc các nhiễm trùng đường niệu. Khám thực thể thường không rõ ràng, bởi tuyến tiền liệt có thể thấy bình thường, lùng bùng, hoặc cứng chắc.
Các dấu hiệu cận lâm sàng
Xét nghiệm nước tiểu là bình thường trừ khi có viêm bàng quang thứ phát. Các chất tiết do ép tuyến tiền liệt có tăng số lượng bạch cầu > 10/hpf (trường tăng sáng), đặc biệt là các đại thực bàọ chứa đầy lipid. Tuy nhiên, cấy các chất tiết hoặc cấy các mẫu nước tiểu sau ép tuyến tiền liệt là cần thiết cho chẩn đoán.
Chẩn đoán hình ảnh
Các kỹ thuật ghi hình không cần thiết, song chụp X quang chậu hông hoặc siêu âm qua trực tràng có thể cho thấy hình ảnh sỏi tuyến tiền liệt.
Chẩn đoán phân biệt
Viêm niệu đạo mạn tính có thể có bệnh cảnh giống viêm tuyến tiền liệt mạn tính, song việc cấy nước tiểu ở các phân đoạn (đầu bãi, cuối bãi và toàn bộ) có thể định khu nguồn nhiễm trùng. Viêm bàng quang có thể thứ phát sau viêm tuyến tiền liệt, nhưng các mẫu nước tiểu theo phân đoạn sẽ định khu nhiễm trùng. Bệnh hậu môn có thể có chung một số triệu chứng như viêm tuyến tiền liệt, và khám thực thể sẽ phân biệt được chúng.
Điều trị
Một số thuốc kháng khuẩn đạt được nồng độ điều trị bên trong tuyến tiền liệt khi không có viêm cấp. Trimethoprim tác động lan toả bên trong tuyến tiền liệt, và trimethoprim - sulfamethòxazọl cho tỷ lệ chữa khỏi bệnh tốt nhất. Các thuốc có hiệu quả khác bao gồm carbenicillin, erythromycin, cephalexin và các quinolon. Thời gian điều trị tối ưu vẫn còn gây tranh cãi, thường trong khoảng thời gian từ 6 đến 12 tuần. Các thuốc chống viêm (indomethacin, ibuprofen) và ngâm mông vào nước nóng có thể có tác dụng làm giảm các triệu chứng của bệnh.
Tiên lượng
Viêm tuyến tiền liệt mạn tính do vi khuẩn khó chữa khỏi, nhưng các triệu chứng của nó và khuynh hướng gây các nhiễm trùng đường niệu tái phát có thể kiểm soát được bằng liệu pháp kháng sinh.