Câu hỏi 1: Trong bài “Chiếu dời đô”, Hoàng đế Lý Thái Tổ đã xác định những lợi thế nào của đất Thăng Long?
a. Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương.
b. Được thế rồng cuộn hổ ngồi.
c. Có núi cao sông dài.
d. Muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh.
Luận bàn câu 1:
Chắc chắn là Ban Tổ chức cuộc thi muốn kiểm tra kiến thức của mọi người về văn bản “Chiếu dời đô” của vua Lý Thái Tổ. Qua đây, nhắc cho mọi người biết những lợi thế của đất Thăng Long, được nhìn nhận qua lăng kính của chính nhân vật lịch sử đã khai sinh ra tòa kinh đô nước Đại Việt năm 1010.
Thế thì, cũng chắc chắn là ta phải tìm đọc lại văn bản gốc của “Chiếu dời đô”. Văn bản này được lưu trữ trong bộ “Đại Việt sử ký toàn thư”(phần “Bản ký”, quyển 2, tờ 26). Bản dịch ra tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội – Hà Nội, 1988, in ở trang 241, tập 1.
Xem kỹ văn bản được cho là của vua Lý Thái Tổ này, ta thấy Người khai sinh Kinh đô Thăng Long nói đất này có rất nhiều lợi thế quan trọng. Nhưng Ban Tổ chức cuộc thi chỉ nêu ra 4 điều thôi:
a. Là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương. Luận điểm này có nguyên văn trong văn bản “Chiếu dời đô”.
b. Được thế rồng cuộn hổ ngồi. Bản dịch Việt ngữ của “Chiếu dời đô” cũng có câu này. Còn nguyên văn Hán ngữ thì đó là: “Long bàn Hổ cứ”. Đây là 4 chữ của thuật phong thủy, nói về một thế đất rất quý, là nơi ở của Rồng và Hổ (những vật tượng trưng cho sức mạnh và hiển vinh).
c. Có núi cao sông dài.Nguyên văn Hán ngữ của “Chiếu dời đô”, ở đoạn nói về sông và núi, chỉ viết là: “Tiện giang sơn hướng bội chi nghi”. Bản dịch Việt ngữ (H.1988) in thành câu rằng: “Tiện hình thế núi sông sau trước”. Nên dịch lại là: “Có vị thế thuận tiện nhìn ra sông, tựa vào núi”. Đây là nói về vị thế chiến lược (quân sự) rất lợi hại của Thăng Long. Không phải nói về “núi cao sông dài” của đất này. Ngờ rằng đây là “cái bẫy” của Ban Tổ chức cuộc thi.
d. Nhân vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Câu này có trong nguyên bản “Chiếu dời đô”.
Câu hỏi 2: Tòa thành cổ nhất trên đất Thủ đô là tòa thành nào?
a. Thành Đại La.
b. Thành Cổ Loa.
c. Thành cổ Sơn Tây.
d. Thành cổ Hà Nội.
Luận bàn câu 2:
Đất Thủ đô là trung tâm (đầu não) hành chính – chính trị của quốc gia. Là một Thủ đô có lịch sử rất lâu đời, Hà Nội tất phải xây dựng rất nhiều thành cổ qua các đời, để thể hiện và làm căn cứ cho chức năng đứng đầu cả nước về mặt hành chính – chính trị. Từ năm 2008, Hà Nội được mở rộng, tích hợp vào đất Thủ đô nhiều miền đất cổ, vốn cũng đã sẵn có nhiều thành cổ được xây dựng ở đấy rồi, cho nên càng thêm nhiều di sản thành cổ.
Tuy nhiên, Ban Tổ chức cuộc thi chỉ nêu ra 4 tòa thành cổ trong số rất nhiều di sản quí báu này của Thủ đô:
a. Thành Đại La. Đây là tòa thành được “Chiếu dời đô” của Lý Thái Tổ nói đến, với tên gọi nguyên văn là: “Cao vương cố đô Đại La thành” (Thành Đại La – đô cũ của vua họ Cao). Nhân vật “Cao Vương” ở đây là Cao Biền – Kinh lược sứ của nhà Đường. Cao Biền được vua nhà Đường cử sang đất Việt đầu tiên là để chống giặc Nam Chiếu. Thành Đại La được xây dựng năm 866 để làm nhiệm vụ ấy.
b. Thành Cổ Loa. Tòa thành kỳ vĩ này, gọi thế vì còn vết tích ở xã Cổ Loa, huyện Đông Anh. Ba chức năng quan trọng được thành Cổ Loa xưa thực hiện là: quân thành, thị thành, và đặc biệt là Kinh thành. Vì có đến 2 lần, Cổ Loa là kinh đô nước Việt. Lần thứ nhất, ngay khi khởi dựng vào thế kỷ III trước Công nguyên, Cổ Loa là kinh đô của triều đại An Dương Vương. Lần thứ hai, vào thế kỷ X, Cổ Loa là Kinh đô của Ngô Vương Quyền.
c. Thành cổ Sơn Tây. Đây là tòa thành mới được khôi phục ở thị xã Sơn Tây, sau gần 200 năm tồn tại như một trung tâm hành chính – chính trị, đặc biệt là quân sự, của cả Xứ Đoài ngày xưa. Bởi vì khởi dựng vào năm Minh Mệnh thứ ba (1822), thành cổ Sơn Tây xây bằng đá ong theo kiểu Vô băng, đến nay vẫn còn dấu tích của 4 tòa dinh thự - công đường của cả 4 vị quan đầu tỉnh Sơn hồi thế kỷ XIX là: Tổng đốc (sau là Tuần phủ), Bố chánh (Án sát), Đề đốc và Đốc học.
d. Thành cổ Hà Nội. Đây là thuật ngữ có tính quy ước, để gọi công trình kiến trúc quân sự, xây đồ lên khu vực Hoàng thành Thăng Long đời Lê, nhưng hơi co lại một chút, do vua Gia Long (đầu thời Nguyễn và đầu thế kỷ 19) cho tạo dựng để làm thủ phủ của Bắc Thành (lúc này chưa có tỉnh Hà Nội, càng chưa có Thành phố Hà Nội). Thành cổ Hà Nội hoàn công xây đắp vào năm 1805.
Nhà Sử học Lê Văn Lan