Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
10/12/2013 22:12 # 1
sat_thu_nikita
Cấp độ: 9 - Kỹ năng: 5

Kinh nghiệm: 88/90 (98%)
Kĩ năng: 29/50 (58%)
Ngày gia nhập: 27/09/2011
Bài gởi: 448
Được cảm ơn: 129
Thơ tự do trong thi ca miền Nam 1954 – 1975


Thơ tự do trong thi ca miền Nam 1954 – 1975

Nguyễn Vy Khanh

Tháng 7 năm 1954, cuộc chiến-tranh Đông-dương chấm dứt, nước Việt-Nam bị chia đôi. Trước thực tại mới, những nhà thơ ba miền tập hợp ở bên này vĩ tuyến 17 đã háo hức sáng tác, lên đường, làm nên một nền thi-ca độc đáo và dựng xây một nền văn-học nhân bản và khai phóng.

Thơ Tự-Do

“Nhóm” Sáng Tạo đã góp phần làm mới văn học về văn cũng như thơ, về hình thức, thể cách cũng như nội dung. Tạp chí Sáng Tạo (rồi Thế Kỷ Hai Mươi, v.v) đã đến với độc giả với những tác-giả mới và những bài thơ mới (với đề mục ‘thơ tự do’). Trong số, Thanh Tâm Tuyền có những bài thơ tự do, không vần, bất ngờ về ý và chữ dùng, sau xuất bản Tôi Không Còn Cô Độc (1956) và Liên, Đêm, Mặt Trời Tìm Thấy(1964). Thơ Thanh Tâm Tuyền dùng ngôn ngữ để phá hủy ngôn ngữ, phó mặc mạch thơ, nhạc điệu cũng như ngôn ngữ thơ, tự do trôi chảy như sự vật vô tri vô nghĩa từ nguyên thủy. Với Nguyên Sa, thơ tự do là thơ phá thể, không khuôn khổ (1), trong khi Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn, “thơ hôm nay không dừng lại ở thơ phá thể, thơ hôm nay là thơ tự do” mà cao điểm sẽ là thơ văn xuôi (2). Khi thơ Tự Do đã thành công gây tiếng vang thuận tiện, nhất là với những người làm thơ mới ra đời, nhóm Sáng Tạo bèn đi xa hơn phủ nhận giá trị thơ văn tiền chiến. Nhiều nhóm văn nghệ sĩ đã lên tiếng phản đối, nhất là ở Huế. Dù gì thì Thanh Tâm Tuyền rồi Nguyên Sa đã khai pháo mở đường cho dòng thơ sẽ được gọi là Thơ Tự Do. Thơ tự do nguyên thủy là phản ứng lại Thơ Mới và thơ thời tiền chiến, một vận động đã bắt nguồn từ thời kháng chiến, với Hữu Loan và Màu Tím Hoa Sim, v.v.

Đến Nguyên Sa, thơ chủ yếu là thơ tình-yêu rõ nét, đặc thù, cá nhân, có hình dáng nhưng cũng là một tình yêu phức tạp, đa dạng nhưng lã lướt, như trái tim người trẻ tuổi thấm nhuần hai văn hóa sống vào buổi giao thời của những năm cuối thập niên 1940 và đầu 1950. Thơ tình yêu của Nguyên Sa là một thứ tình yêu thuần chất, trữ tình thường nhật, hiện sinh. Khác thơ tình hiếm hoi của Thanh Tâm Tuyền, thơ Nguyên Sa không làm ra để gây băn khoăn hay suy nghĩ. Thanh Tâm Tuyền phải lo cho sứ mạng văn nghệ do đó bỏ quên tình yêu (“Tôi không ngợi ca tình yêu, tôi nguyền rủa tình yêu (…) Thơ hôm nay không cần đến Tình Ái và khi Tình Ái đến với thơ hôm nay cũng với vẻ tiều tuỵ khốn khổ chịu đựng hất hủi như cả một cuộc đời …”(3). Trong bài “Nỗi buồn thơ hôm nay”, Thanh Tâm Tuyền đi xa hơn khi ông hạ giá tình yêu : “tình ái cũng bị dùng làm phương tiện khám phá đời sống, khai quật ý thức…”. Do đó, cũng như các “nhà thơ hôm nay” của hai thập niên 1950 và 1960, Nguyên Sa chống trữ tình và lãng mạn, chống cả tình ái theo nghĩa thường vì theo ông, lãng mạn là “sự xúc động quá mãnh liệt, sự trữ tình bi thảm hoá” (4). Yêu nhưng không lãng mạn, cả không thác loạn của thơ tiền chiến. Tình với ngôn ngữ mới, cung cách mới, thơ mộng nhớ nhung mới và khác, có vẻ thực tế và thành thật hơn!

Tình yêu ở Nguyên Sa có thể bắt đầu bằng mong nhớ, đợi chờ và những lời trách móc tự nhiên :

“Có phải em về đêm nay?

Trên con đường thời gian trắc trở

để lòng anh đèn khuya cửa ngõ

ngọn đèn dầu lụi bấc mắt long lanh

(…) Em đừng trách anh để lòng mình tủi cực

dến ngại ngùng dù nắng dù mưa

sao em không về

để dù nắng dù mưa

dù trong thời gian có sắc mầu của những thiên đàng đổ vở…”

(Có Phải Em Về Đêm Nay)

“Em” thời nay thành “con chó ốm, con mèo ngái ngủ” và ” mắt cá ươn”; không còn là “mắt xanh là bóng dừa hoang dại” (Đinh Hùng), “em đi áo mỏng phô hờn tủi” (Quang Dũng). Tóc của “em” chỉ là “tóc ngắn” (Áo Lụa Hà Đông). Tình yêu đến với nhà thơ như một hạnh phúc, một tròn đầy với những cảm xúc thật với da thịt cũng như trong tâm hồn.

Thơ tự do của Nguyên Sa có tiết tấu và nhạc điệu đặc biệt chưa thấy trước đó. Nguyên Sa lại có tài sử dụng nhiều hình ảnh mới và lạ. Nào “chải tóc em bằng năm ngón tay”, nào “lệ trắng gạo mềm” , “da em trắng anh chẳng cần ánh sáng / tóc em mềm anh chẳng thiết mùa xuân” , “tóc màu củi chưa đun”, miệng “chim sẻ”, áo “sương mù”, “bàn tay chim khuyên” (Nga) hay “sương gió trầm tư thêu thùa má ướt”, v.v.

“… Người về đâu giữa đêm khuya dìu dặt

Hơi thở thiên thần trong tóc ẩm hương xưa

Người đi về trời nắng hay mưa

Sao để sương gió trầm tư thêu thùa má ướt…”

(Đẹp)

Muốn “phá thể” và “tự do” nhưng thơ Nguyên Sa có lời và chất nhạc rất nhẹ nhàng, rất Việt Nam. Ông vẫn sử dụng lại những ước lệ của thi ca cổ điển như “thuyền ghé bến”, tay “lá sen”, mắt “mt vừng trăng sáng”, hay của thơ mới như “gió heo may”. Thành ra Nguyên Sa có những câu thơ mà ngôn từ như có âm hưởng ca dao dù đã được tân hóa theo thời đại:

“… Paris có gì lạ không em?

Mai anh về mắt vẫn lánh đen

Vẫn biết lòng mình là hương cốm

Chả biết tay ai làm lá sen…”

(Paris Có Gì Lạ Không Em?).

Thơ tự do của Nguyên Sa thời ra đời trên Người Việt và Sáng Tạo đã thuyết phục người thưởng thức văn nghệ rằng thơ tự do có thể sống động, rằng thơ tự do cũng có thi-tính. Sau thử nghiệm của Nguyễn Đình Thi trong kháng chiến chưa đủ thuyết phục, thì giờ đây là một xác định mới với một thẩm-mỹ mới, nhận định mới. Thơ tự do của Nguyên Sa nhờ giàu nhạc tính, lại đơn sơ, truyền cảm và hãy còn chứa đựng tâm hồn Việt Nam do đó đã sống lâu hơn đến ngày nay và chắc cả sau này; trong khi thơ tự do của nhiều nhà thơ thời ông đã và đang đi vào quên lãng. Nếu lúc đầu thơ tự do được cổ võ như một vượt thoát khỏi những bó buộc và giới hạn của luật thơ thì nay bài thơ tự do nào còn gi” được vần và nhạc và hình ảnh lại tiếp tục được yêu thích. Trong trường hợp Nguyên Sa, phủ nhận Thơ Mới và tiền chiến đồng thời cổ xúy thơ tự do và phá thể, nay phân tích lại thì Nguyên Sa đã không thật sự đi xa trên con đường thơ tự do và vô tình thơ ông lại là gạch nối với thơ tiền chiến và dòng thơ kháng chiến trước đó. Cho đến khi tạp chí Sáng-Tạo đình bản hẳn, những nhà lý thuyết cổ võ thơ tự do của nhóm đã vẫn không thuyết phục thật sự giới sáng tác cũng như giới thưởng thức văn nghệ. Thanh Tâm Tuyền có vẻ là người cuối cùng lên tiếng khi cho rằng người làm thơ tự do vì sống thời gian hôm nay và dùng thanh âm ngôn từ để khám phá chính mình. Dù sao đi nữa, cùng với Thanh Tâm Tuyền, Nguyên Sa đã đem lại niềm tin nơi thể thơ tự do, thở của hai ông đã chiếu sáng trên nền trời thi ca ViệtNam hậu chiến. Chính sự tiếp nối và thành công của những nhà thơ khác đã đưa thơ tự-do đi xa.

Cũng thuộc nhóm Sáng Tạo nhưng hơi thơ mệnh yểu, Quách Thoại lên án chiến tranh, bạo lực, đồng thời chào mừng tự do và đòi hỏi dân chủ. Cõi tự do thật vô cùng quyến rũ :

“Cờ dân chủ ta bước tới tương lai đầy ứ

Phố lớn cười đại lộ hát nghênh ngang

Xã hội đi về, vũ trụ rộn ràng

Nhà mới dựng, gỗ ngói còn thơm lắm

… Đường rộng mở thênh thang trời dân chủ

Ôi! Tự do do thật vô cùng quyến rũ  !”.

Bài Sáng Tạo ghi dấu sinh hoạt của nhóm tạp chí cùng tên:

“Tôi đổ lệ khóc đêm nay

Nào các anh có biết

Khi tôi đọc những bài văn anh,

bài thơ anh thắm thiết:

Những mối tình yêu đời bất diệt

của lòng anh, của hồn anh trinh khiết

hiện nguyên hình trên chữ mực vừa in.

Tư tưởng — giòng câu — chứa đựng vạn niềm tin

Bao tâm huyết đổ dồn trên ý nghĩ

Thơm tho thay những ý tình tế nhị

Nói không cùng những cảm động ẩn trong lời

Tôi biết các anh những kẻ đã khóc cười

Là những kẻ còn tin yêu vững sống

Còn sáng tạo các anh hãy còn sáng tạo

Mặt trời mọc !

Mặt trời mọc !

Rưng rưng mùa hoa gạo

Lỡ một mai tôi chết trần truồng không cơm áo

Thì hồn tôi xin phảng phất chốn trăng sao

Để nhìn các anh như vừa gặp buổi hôm nào

Và trong câu chuyện tôi sẽ cười nhắc bảo:

Còn sáng tạo ta hãy còn sáng tạo”.

Mai Trung Tĩnh đề nghị thơ xuôi, một cách thể nghệ-thuật tự-do :

…Tôi vẫn trờ về xóm đêm đêm nghe tiếng đàn than van kể chuyện chiều xưa mẹ chết anh bỏ đi, em bơ vơ chịu lấy một mình đau khổ. Em lớn lên mang theo từng hồ lệ khóc không hết ngày xanh.

Bao cung bậc nức nở như lòng anh rạn nứt.

Người ôm đàn còng lưng gói tròn tâm sự riêng tây, giây chùng nỉ non như trái tim bị hắt hủi.

Người ta muốn xót thương và cần sự tội nghiệp của kẻ khác ư? Cuộc đời phải chăng là một chuỗi dài tội nghiệp. Đêm đêm người ta vẫn đàn vọng cổ tiếc cho ngày xưa dù có hay không. Nghĩa là một dĩ vãng, kỷ niệm nào.

Nghĩa là tôi muốn cho mắt khóc. Cuộc đời là những câu vọng cổ dài. Đời mình là những chuỗi nhớ thương tiếc nuối.

Người muốn thế nên không cưỡng được.

(Tiếng khóc, 40 Bài Thơ).

Như vậy, thơ Tự do hiện đại thi ca thêm một bước, hợp tâm tình con người “hôm nay” lúc bấy giờ và có thể cả sau này, nhưng về mặt văn chương, thành quả và sự đóng góp hạn chế hơn Thơ Mới và cả thơ Tượng trưng dù chỉ có mặt không lâu !

(Nguồn: Phebinhvanhoc.com.vn)

 




 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024