Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
07/12/2022 16:12 # 1
buiducduong
Cấp độ: 22 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 7/220 (3%)
Kĩ năng: 0/10 (0%)
Ngày gia nhập: 25/09/2020
Bài gởi: 2317
Được cảm ơn: 0
Tất cả những gì bạn cần để xây dựng một Node.js Server & Authentication (Cơ bản): Express, Sessions, Passport, and cURL - Part 1/2 😊 (Series: Bí kíp Javascript - PHẦN 20)


Ngày xưa lúc mình mới tiếp cận với Nodejs và đọc các tutorial hướng dẫn trêng mạng, mình luôn phải vật lộn với việc hiểu phần Authentication của nó. Thay vì thực sự giải thích cơ chế và những gì đang xảy ra, mình chỉ cảm thấy như tác giả chỉ đơn giản là cung cấp một hướng dẫn về cách sao chép/dán từ tài liệu. Bài viết này nhằm thực sự hướng dẫn bạn qua quy trình authentication và giải thích từng cơ chế một.

Bài này mình sẽ chia làm 2 phần để các bạn giễ dàng tham khảo. (PHẦN 2)

LỜI KHUYÊN: Bạn NÊN vừa đọc vừa đối chiêu với code nếu có thể thì hãy code nó ra là tốt nhất. Việc đó giẽ giúp bạn hiểu hơn khi đọc giải thích. Nếu chỉ đọc giài thích có thể bạn sẽ cảm thấy có lúc rất khó hiểu.

Điều kiện tiền quyết: mình giả sử như các bạn đã có thế sử dụng cơ bản với Terminal/command-line interface (CLI) và Javascript/Node.js.

PHẦN 1

Bước 1. Thiết lập cấu trúc tệp

Đầu tiên, chúng ta sẽ tạo một thư mục cấp cao nhất có tên là “authTut” chỉ để chứa 2 folder của project là server và client. Trong trường hợp này, chúng ta sẽ sử dụng cURL làm client interface thay vì trình duyệt (Chrome hoặc trình duyệt nào khác), vì mình nghĩ nó sẽ giúp bạn hiểu rõ hơn những gì thực sự xảy ra trong trình duyệt của bạn khi gọi 1 request.

Để mô phỏng bộ nhớ của trình duyệt, chúng ta sẽ tạo một thư mục /client trong /authTuts và chúng ta cũng sẽ tạo một thư mục /server nơi chúng ta sẽ xây dựng server.

Chạy các lệnh sau trong **terminal** của bạn.

workspace $ mkdir authTut
workspace $ cd authTut
authTut $ mkdir server
authTut $ mkdir client

Bước 2. Khởi tạo npm và cài đặt express trong thư mục /server

Đầu tiên, hãy mở Terminal trên thư mục /server của chúng ta, sau đó khởi tạo npm. Với nó chúng ta có thể theo dõi những phụ thuộc nào mà server của chúng ta có. Tiếp theo, hãy tiếp tục và cài đặt express dưới dạng phụ thuộc, sau đó tạo tệp server.js.

authTut $ cd server
server $ npm init -y
server $ npm install express --save
server $ touch server.js

Lưu ý, việc sử dụng flag '-y' cùng với 'npm init' sẽ tự động chấp nhận các value mặc định mà npm khởi tạo cho project của chúng ta. Sau khi enter, bạn sẽ thấy các tùy chọn mặc định được ghi vào Terminal.

Tại thời điểm này, bạn sẽ có cấu trúc thư mục folder giống như sau:

- /authTuts
  - /server
    - /node_modules
    - server.js
    - package.json
  - /client

Bước 3. Tạo server Express Node.js

Mở thư mục /authTuts trong Editor yêu thích của bạn (Mình dùng VsCode), sau đó mở tệp authTuts/server/server.js.

Đầu tiên, chúng ta sẽ request mô-đun express, sau đó chúng ta gọi hàm express() để tạo ứng dụng của chúng ta và cuối cùng chúng ta nói express sẽ chạy trên Port nào.

//npm modules
const express = require('express');

// create the server
const app = express();

// tell the server what port to listen on
app.listen(3000, () => {
  console.log('Listening on localhost:3000')
})

Ngoài lề: Nếu bạn nào muốn hiểu sâu về việc tại sao cứ gọi hàm require(...) bỏ cái tên vào là có một đối tượng để sử dụng thì tham khảo bài viết này nhé Abstract Factory Pattern. Trong này mình cũng đã có một bài viết chi tiết về các Design Pattern này.

Tiếp theo, gọi 'node server.js' từ terminal. Điều này sẽ khởi động server của chúng ta. Bạn sẽ nhận được câu trả lời “Listening on localhost:3000”. (Lệnh 'node' trong terminal của chúng ta có thể được sử dụng để chạy các tệp Javascript).

Listening on localhost:3000
^C // Cái dấu này là mình nhấn Ctrl + C để ngừng server. Bất cứ khi nào bạn muốn ngừng hoạt động trên Ternimal bạn có thể dùng tổ hợp phím [Ctrl + C]
server $ node server.js
Listening on localhost:3000

Nai sừ! Bạn vừa tạo một server! Nếu bạn truy cập “ http://localhost:3000/” ngay bây giờ, bạn sẽ thấy thông báo lỗi cho biết “Cannot GET /”, nhưng vẫn tốt hơn là gặp lỗi “This site can't be reached”! (Điều này là bạn đã có 1 server chỉ là chưa có Enpoint nào thôi 😄)

Bước 4. Thêm homepage route vào route '/'

Cập nhật tệp server.js để thêm hàm GET vào route '/' của chúng ta. Khi client (trình duyệt hoặc cURL như chúng ta sẽ thấy ngay sau đây) gọi hàm GETserver của chúng ta sẽ phản hồi và kèm dữ liệu. Trong trường hợp này, chúng ta cung cấp hàm '/' GET với function callback cho server của chúng ta phản hồi với câu 'you just hit the home page'.

//npm modules
const express = require('express');

// create the server
const app = express();

// create the homepage route at '/'
app.get('/', (req, res) => {
  res.send('you just hit the home page\n')
})

// tell the server what port to listen on
app.listen(3000, () => {
  console.log('Listening on localhost:3000')
})
 

Các tham số 'req' và 'res' được cung cấp cho hàm callback app.get('/') của chúng ta là các đối tượng 'request' và 'response' được tạo từ các request headers.

Nếu bạn truy cập http://localhost:3000/ bây giờ, bạn vẫn sẽ thấy lỗi 'Cannot GET /', vì server của chúng ta vẫn hoạt động trên tệp server.js cũ và mỗi lần chúng ta thay đổi tệp này thì cần phải restart lại server. Ok giờ khởi động lại server sau khi lưu các thay đổi của mình. Chúng ta có thể làm điều này bằng cách nhấn 'Ctrl + C' khi đang ở trong terminal và sau đó chạy lại 'node server.js'.

Listening on localhost:3000
^C
server $ node server.js
Listening on localhost:3000

Bây giờ, khi bạn truy cập lại http://localhost:3000/ , bạn sẽ thấy thông báo 'you just hit the home page'. Mở tab hoặc cửa sổ mới trong terminal của bạn và thay đổi vào thư mục /client (Bạn có thể dùng lệnh cd .. hoặc thao tác trên UI để mở 1 terminal của 1 thư mục nào đó). Sau đó, gọi lệnh cURL và chuyển vào một số tùy chọn để truy cập endpoint trang chủ của chúng ta. Bạn sẽ thấy phản hồi của chúng ta được trả lại.

server $ cd ..
authTut $ cd client
client $ cURL -X GET http://localhost:3000/
you just hit the home page

Ở trên sử dụng tùy chọn '-X' để có thể chuyển curl thành GET hoặc POST tới một endpoint. Ở đây, chúng ta đang 'GETendpoint '/'.

Bước 5. Dùng nodemon trong khi dev

Sẽ thực sự khó chịu nếu chúng ta phải khởi động lại server mỗi khi chúng ta thực hiện thay đổi đối với tệp server.js của mình. Hãy sử dụng mô-đun nodemon, mô-đun này sẽ tự động khởi động lại server của chúng ta mỗi khi chúng ta lưu thay đổi vào tệp server.js. Đầu tiên, cài đặt gói nodemon trên global. Mở 1 Terminal mới sau đó thực hiện lệnh:

server $ npm install -g nodemon

Khi bạn dùng tùy chọn -g vào trình cài đặt mô-đun npm, nó sẽ cài đặt gói trên môi trường global để bạn có thể truy cập mô-đun đó từ bất kỳ đâu trong hệ thống tệp của mình khi bạn đang ở trong terminal. Bây giờ, hãy tắt server của chúng ta và khởi động nó bằng nodemon.

server $ nodemon server.js

Bây giờ, chúng ta hãy thay đổi văn bản phản hồi của đường dẫn trang chủ của chúng ta thành một cái gì đó khác và cũng console.log() đối tượng request, để chúng ta có thể thấy nó trông như thế nào. Sau khi lưu tệp, bạn sẽ thấy server khởi động lại trong tab Terminal server.

//npm modules
const express = require('express');

// create the server
const app = express();

// create the homepage route at '/'
app.get('/', (req, res) => {
  console.log(req)
  res.send('You hit the home page without restarting the server automatically\n')
})

// tell the server what port to listen on
app.listen(3000, () => {
  console.log('Listening on localhost:3000')
})
 

Bây giờ, chúng ta hãy gọi lại curl, riêng lần này lần này, hãy dùng thêm flag -v (verbose).

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -v
Note: Unnecessary use of -X or --request, GET is already inferred.
* Rebuilt URL to: http://localhost:3000/
*   Trying ::1...
* TCP_NODELAY set
* Connected to localhost (::1) port 3000 (#0)
> GET / HTTP/1.1
> Host: localhost:3000
> User-Agent: curl/7.54.0
> Accept: */*
> 
< HTTP/1.1 200 OK
< X-Powered-By: Express
< Content-Type: text/html; charset=utf-8
< Content-Length: 66
< ETag: W/"42-Ybeup68SVZ+Id3fqVh25rCkXfno"
< Date: Sun, 29 Oct 2017 19:58:38 GMT
< Connection: keep-alive
< 
You hit the home page without restarting the server automatically
 

Trong request thứ 2, chúng ta nhận được thông tin về curl request của chúng ta. Hãy tìm hiểu kỹ hơn một chút về nó nhé.

  1. cURL cho chúng ta biết rằng chúng ta không cần phải sử dụng -X GET vì đó là value mặc định cho cURL. Tuy nhiên, trong bài viết này mình muốn sử dụng nó để các bạn hiểu rõ hơn.
  2. rebuilt URL to…” cho bạn biết cURL đã thêm một dấu gạch chéo vào cuối URL của bạn.
  3. Đang thử :: 1…” là địa chỉ IP mà URL đã giải quyết.
  4. Dòng tiếp theo là Port chúng ta đã kết nối, mà bạn nhận thấy là Port chúng ta đã chỉ định khi chúng ta tạo server.
  5. > cho biết dữ liệu cURL đã được gửi đến server.
  6. < cho biết dữ liệu cURL đã nhận được từ server.
  7. Cuối cùng, bạn thấy văn bản phản hồi mà server đã gửi

Nếu bạn lật qua tab Terminal nơi server đang chạy, bạn sẽ thấy một output rất dài. Đây là đối tượng 'request' mà server của chúng ta xây dựng từ dữ liệu chúng ta đã gửi đến server.

Bước 6. Cài đặt uuid để tự động tạo các unique string

Bây giờ, hãy mở một Terminal mới trong thư mục server và cài đặt mô-đun uuid, giúp chúng ta tạo các string ngẫu nhiên. (Mở một tab khác sẽ cho phép chúng ta cài đặt các gói cho server của mình mà không phải dừng quá trình server hiện tại. Khi chúng ta đưa các mô-đun mới vào tệp server.js của mình, nodemon sẽ tự động khởi động lại và có thể kéo các mô-đun này vào.)

server $ npm install --save uuid

Sau đó, chúng ta thêm nó vào tệp server của chúng ta và cập nhật văn bản phản hồi của chúng ta để gửi nó đến client. Lưu ý, mình đang sử dụng string interpolation trong ví dụ bên dưới (Nếu bạn chưa quen với cách sử dụng này hãy tham khảo tại đây), request sử dụng '``' thay vì dấu ngoặc kép. Đó là (``) không phải là (''). (Có thể ở gần phía trên bên trái trên bàn phím của bạn.)

//npm modules
const express = require('express');
const { v4: uuid } = require("uuid");

// create the server
const app = express();

// create the homepage route at '/'
app.get('/', (req, res) => {
  console.log(req)
  const uniqueId = uuid()
  res.send(`Hit home page. Received the unique id: ${uniqueId}\n`)
})

// tell the server what port to listen on
app.listen(3000, () => {
  console.log('Listening on localhost:3000')
})
 

Bây giờ hãy gọi lại cURL.

client $ curl -X GET http://localhost:3000
Hit home page. Received the unique id: 044e0263-58b7-4c7f-a032-056cd81069e3

Bước 7. Add/configure express-session

Cài đặt express-session. Middleware này xử lý việc tạo session vì express không tự động làm điều này.

server $ npm install express-session --save

Sau khi nó được cài đặt, hãy sửa đổi tệp server.js của chúng ta theo những cách sau:

  1. Tạo một instance express-session thông qua require
  2. Add/configure ứng dụng của chúng ta để sử dụng middleware session với id session duy nhất mà chúng ta tạo. Chúng ta sẽ ghi log đối tượng request.sessionID trước và sau khi middleware được sử dụng.
  3. Gửi sessionID cho client

Lưu ý, trong cấu hình session bên dưới, mình để 'secret' là 'keyboard cat', nhưng trong thực tế, bạn sẽ thay thế điều này bằng một string được lấy từ biến môi trường.

//npm modules
const express = require('express');
const { v4: uuid } = require("uuid");
const session = require('express-session')

// create the server
const app = express();

// add & configure middleware
app.use(session({
  genid: (req) => {
    console.log('Inside the session middleware')
    console.log(req.sessionID)
    return uuid() // use UUIDs for session IDs
  },
  secret: 'keyboard cat',
  resave: false,
  saveUninitialized: true
}))

// create the homepage route at '/'
app.get('/', (req, res) => {
  console.log('Inside the homepage callback function')
  console.log(req.sessionID)
  res.send(`You hit home page!\n`)
})

// tell the server what port to listen on
app.listen(3000, () => {
  console.log('Listening on localhost:3000')
})
 

Bây giờ, hãy gọi lại request curl bằng flag -v.

curl -X GET http://localhost:3000 -v
...
< set-cookie: connect.sid=s%3A5199f3ed-3f5a-4478-aed7-fab9ce6ca378.DjQlJ%2F1t%2F00RAfIs5yW6CEsVUXM25aMclq7VGzxVnoY; Path=/; HttpOnly
...

Mình đã cắt đi những phần ko cần thiết ở phần Log ở trên, nhưng bạn có thể thấy rằng trong dữ liệu được trả về từ server (được biểu thị bằng ký hiệu <) chúng ta đang đặt ID session thành uuid. Nếu chúng ta mở sang tab terminal server của mình, chúng ta sẽ thấy như sau:

Inside the session middleware
undefined
Inside the homepage callback function
5199f3ed-3f5a-4478-aed7-fab9ce6ca378

Khi chúng ta ghi lại req.sessionID bên trong middleware session, session vẫn chưa được khởi tạo, vì vậy chúng ta chưa thêm sessionID vào đối tượng request. Tuy nhiên, khi chúng ta nhận được lệnh callback từ request GET của mình, middleware session đã được chạy và thêm sessionID vào đối tượng request.

Hãy thử gọi hàm cURL vài lần nữa. Bạn sẽ thấy rằng một id session mới được tạo mỗi lần gọi. Các trình duyệt sẽ tự động lưu id session và gửi nó theo từng request đến server; tuy nhiên, cURL không tự động lưu ID session của chúng ta và gửi nó trong headers request. Hãy cùng fix nó nhé điều đó. Hãy sử dụng lại cURL, và sử dụng flag '-c' và đoạn text 'cookie-file.txt'.

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -c cookie-file.txt

Điều này tạo ra một tệp văn bản trong thư mục /client của chúng ta có tên là 'cookie-file.txt'. Bạn sẽ thấy tệp văn bản này xuất hiện trong project của mình. Bây giờ chúng ta có thể gọi lại curl, nhưng lần này gọi cookie-file.txt với flag '-b' request cURL gửi id session của sẽ được gửi trong dữ liệu headers của chúng ta. Hãy cũng sử dụng thêm flag '-v' để xem điều này.

curl -X GET http://localhost:3000 -b cookie-file.txt -v
...
> GET / HTTP/1.1
> Host: localhost:3000
> User-Agent: curl/7.54.0
> Accept: */*
> Cookie: connect.sid=s%3Ade59a40f-6737-4b8d-98bf-bf2bb8495118.e0pWTi2w8%2FAAOKxKgKDBdu99JnspruYSEgLSV3tvxX4
...

Mình cũng đã cắt đi những phần ko cần thiết ở phần Output ở trên, nhưng như bạn có thể thấy, id session đang được gửi trong headers request của chúng ta và chúng ta biết nó được gửi tới server vì có biểu tượng >. Hãy thử gọi hàm này bao nhiêu lần tùy thích. Nếu bạn chuyển qua phần output củaterminal server, bạn sẽ thấy rằng cùng một id session đang được xuất ra Terminal mỗi lần request. Bạn cũng có thể nhận thấy, chúng ta không thấy consolog 'Inside the session middleware' được tạo. Điều này là do hàm 'genid' của chúng ta không được gọi vì id đã được đưa vào.

Tuy nhiên, chúng ta lại có 1 vấn đề ở đây. Hãy thử khởi động lại server của chúng ta.

Trong tab Terminal nơi server đang chạy, nhấn 'Ctrl + C' sau đó khởi động nó bằng nodemon.

Inside the homepage callback function
de59a40f-6737-4b8d-98bf-bf2bb8495118
^C
server $ nodemon server.js
Listening on localhost:3000

Từ thư mục client, hãy gọi lại lệnh cURL.

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -b cookie-file.txt

Sau đó nhìn lại nhật ký server một lần nữa.

Listening on localhost:3000
Inside the session middleware
de59a40f-6737-4b8d-98bf-bf2bb8495118
Inside the homepage callback function
ac656d2a-9796-4560-9dbf-73996a1853f8

Như bạn có thể thấy ở trên, hàm genid middleware session của chúng ta đang được gọi. Điều này là do session đã được lưu trữ trong bộ nhớ của server. Vì vậy, khi chúng ta khởi động lại serverid session đã bị xóa cùng với phần còn lại của bộ nhớ. Đây là vấn đề.

  1. Server được khởi động lại và bộ nhớ session bị xóa.
  2. Chúng ta gửi request cURL của chúng ta đến server cùng với id session của chúng ta
  3. Server nhận các request và middleware session không thể tìm thấy id session trong bộ nhớ, vì vậy nó gọi hàm genid
  4. Hàm genid logging rằng chúng ta đang ở bên trong middleware session và nó ghi lại id session của đối tượng request. Vì chúng ta đã gửi id session trong request cURL của mình, đối tượng request đã thực sự được khởi tạo với id session đó. Tuy nhiên, id session này bị ghi đè bởi value trả về của hàm genid.
  5. Khi middleware session được thực hiện xong ghi đè id session mà chúng ta đã gửi, quyền kiểm soát được chuyển giao cho hàm callback trong app.get(), nơi chúng ta ghi lại rằng chúng ta đang ở bên trong hàm callback hompage và ghi lại id mới.

Hãy thực hiện curl request đó một lần nữa từ thư mục client để hiểu hơn về phần giải thích trên bằng cách nhìn vào thứ tự log đã được ghi ra. Đồng thời nhìn vào source code để tham chiếu các bước:

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -b cookie-file.txt

Xem lại nhật ký server.

Inside the session middleware
de59a40f-6737-4b8d-98bf-bf2bb8495118
Inside the homepage callback function
b02aa920-7031-427f-ac2e-b82f21140002

Một lần nữa, server của chúng ta phản hồi với một id session khác, vì chúng ta đã gửi cùng một id session từ trước khi chúng ta khởi động lại server. Chúng ta cần gọi lại request curl, nhưng lần này passed flag '-c' để chúng ta ghi đè thông tin session hiện có.

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -c cookie-file.txt

Quay lại nhật ký server.

Inside the session middleware
undefined
Inside the homepage callback function
74f37795-6fcf-4300-beb9-3de41395eafe

Req.sessionID không được xác định, vì chúng ta đã không gửi thông tin session trong request curl của chúng ta. Hãy xem cookie-file.txt của chúng ta. Chắc chắn, có id session đã được tạo và gửi lại.

...
#HttpOnly_localhost FALSE / FALSE 0 connect.sid s%3A74f37795-6fcf-4300-beb9-3de41395eafe.5mblOCOvpwAMh7bNuTZ9qyloG5UOcIczep5GjMnVEi8

Bây giờ, nếu chúng ta gọi lại request curl bằng flag '-b'. Chúng ta sẽ không thấy nhật ký 'Inside the session middle' được ghi ra output, vì genid không được gọi. Id session đang được khớp với id session trong bộ nhớ.

Mặc dù vậy, chúng ta vẫn chưa giải quyết được vấn đề đang gặp phải. Nếu chúng ta khởi động lại server của mình, bộ nhớ sẽ bị xóa một lần nữa. Vì vậy, chúng ta cần có một số cách để đảm bảo rằng chúng ta có thể lưu id session của mình ngay cả khi server tắt. Đó là khi chúng ta cần đến 'session store'. Thông thường, cơ sở dữ liệu của bạn sẽ hoạt động như một kho lưu trữ session, nhưng vì chúng ta đang cố gắng giữ mọi thứ trong trong bài viết này đơn giản nhất có thể, chúng ta hãy chỉ lưu trữ thông tin session của mình trong tệp văn bản.

Nếu bạn truy cập vào tài liệu nhanh, bạn sẽ thấy rằng có một số npm packages được cung cấp để hoạt động như một bộ nhớ cache hay cái gì gì đó nằm giữa cơ sở dữ liệu của bạn và middleware session. Chúng ta sẽ sử dụng cái gọi là 'session-file-store.' Trong thực tế thì chúng ta sử dụng Redis hoặc DynamoDB (dự án mình đang dùng DynamoDB) nhưng đừng lo lắng nếu bạn hiểu cái này thì bạn cũng sẽ sử dụng được những cái kia một cách hiệu quả. Như thường lệ, chúng ta hãy cài đặt nó.

server $ npm install session-file-store --save

Bây giờ, hãy thêm nó vào tệp server.js của chúng ta.

//npm modules
const express = require('express');
const { v4: uuid } = require("uuid");
const session = require('express-session')
const FileStore = require('session-file-store')(session);

// create the server
const app = express();

// add & configure middleware
app.use(session({
  genid: (req) => {
    console.log('Inside the session middleware')
    console.log(req.sessionID)
    return uuid() // use UUIDs for session IDs
  },
  store: new FileStore(),
  secret: 'keyboard cat',
  resave: false,
  saveUninitialized: true
}))

// create the homepage route at '/'
app.get('/', (req, res) => {
  console.log('Inside the homepage callback function')
  console.log(req.sessionID)
  res.send(`You hit home page!\n`)
})

// tell the server what port to listen on
app.listen(3000, () => {
  console.log('Listening on localhost:3000')
})
 

Lưu ý ở trên, rằng chúng ta đang gọi biến session khi chúng ta request FileStore. Sau đó, chúng ta thêm một instance vào FileStore vào cấu hình session của chúng ta.

Chúng ta cũng cần phải làm một việc khác. Theo mặc định, khi chúng ta sử dụng mô-đun 'session-file-store', nó sẽ tạo một thư mục '/session' mới khi nó được gọi lần đầu tiên. Lần đầu tiên và mỗi lần tiếp theo khi chúng ta tạo một session mới, mô-đun sẽ tạo một tệp mới cho thông tin session trong thư mục /session. Vì chúng ta nhập session-file-store trong server.js và session-file-store phụ thuộc vào thư mục /session, nên node sẽ khởi động lại server mỗi khi chúng ta tạo một session mới. Cái này thì ko được kể cả trong môi trường dev thì chả nhẽ cứ mỗi lần request lại restart lại server -> ko ổn.

Chúng ta có thể request nodemon bỏ qua một tệp hoặc thư mục bằng cách gọi '- ignore' và thêm nó vào tên tệp hoặc thư mục.

server $ nodemon --ignore sessions /server.js

Bạn sẽ cảm thấy khó khắn nếu mỗi lần cần run nó lại phải gõ một đoạn dài như vậy. Hãy tự làm cho nó dễ dàng hơn bằng cách thêm nó trực tiếp vào các tập lệnh npm của chúng ta trong tệp package.json.

{
  "name": "server",
  "version": "1.0.0",
  "description": "",
  "main": "index.js",
  "scripts": {
    "test": "echo \"Error: no test specified\" && exit 1",
    "dev:server": "nodemon --ignore sessions/ server.js" // Bạn thêm dòng này vào là ok
  },
  "author": "",
  "license": "ISC",
  "dependencies": {
    "express": "^4.16.2",
    "express-session": "^1.15.6",
    "session-file-store": "^1.1.2",
    "uuid": "^3.1.0"
  }
}
 

Bạn đã thêm câu lệnh ở trên vào file package.json bạn hoàn toàn có thể gọi lệnh như sau nó tương đương với lệnh mà chúng ta đã setup cho nó: (đừng quên tắt server trước khi run lại lệnh này nhé)

server $ npm run dev:server

Bây giờ chúng ta hãy tạo lệnh gọi cURL và tạo một tệp cookie mới sẽ được lưu vào thư mục client.

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -c cookie-file.txt

File Cookie-file.txt của bạn bây giờ sẽ có một id session mới được lưu trong đó. Nếu bạn bỏ qua '...s%3A', thì phần còn lại trước dấu '.' phải khớp với tên của tệp mới được lưu trong thư mục /session.

Bây giờ khởi động lại server một lần nữa.

server $ npm run dev:server

Sau đó, gọi lệnh cURL truyền cho nó file cookie-file.txt với flag '-b' trong lần gọi này, để nó gửi id session mà chúng ta đã tạo trước khi chúng ta khởi động lại server.

client $ curl -X GET http://localhost:3000 -b cookie-file.txt

Hãy thử gọi nó bao nhiêu tùy thích. Bạn sẽ nhận được cùng một output id session mọi lần request. Vì vậy, chúng ta có thể thấy ở đây việc tạo kho lưu trữ tệp session cho phép chúng ta lưu các session ở phía server.

giờ bạn đã có một Server nodejs sơ khai không có Authentication nhưng đã có thể nhận biết được request được gửi từ id session nào.

Ở bài tiếp theo mình sẽ hướng dẫn bạn cách Authentication và hoàn chỉnh một Server nodejs. (PHẦN 2)

Như mọi khi, mình hy vọng bạn thích bài viết này và biết thêm được điều gì đó mới.

Cảm ơn và hẹn gặp lại các bạn trong những bài viết tiếp theo! 😍




 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024