Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
02/03/2013 23:03 # 1
quynhdtu
Cấp độ: 17 - Kỹ năng: 12

Kinh nghiệm: 120/170 (71%)
Kĩ năng: 34/120 (28%)
Ngày gia nhập: 01/04/2011
Bài gởi: 1480
Được cảm ơn: 694
Tiểu luận triết học Mac- Lenin1


Đề tài: Vận dụng quan điểm triết học Mác – Lênin về tính sáng tạo của ý thức vào việc phát huy vai trò của tri thức trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay.

 

 Mở đầu:

§  Triết học Mác Lênin là một trong ba bộ phận cấu thành của chủ nghĩa Mác – Lê nin, ra đời vào những năm 40 của thế kỷ XIX  và được phát triển gắn chặt với những thành tựu khoa học và thực tiễn của phong trào công nhân. Sự ra đời của triết học Mác- Lê nin là một cuộc cách mạng thật sự trong lịch sử tư tưởng loài người, trong lịch sử triết học. Thực tiễn đổi mới ở nước ta những năm nay, khẳng định được vai trò của triết học Mác- Lê nin, khẳng định ý nghĩa thế giới quan và phương pháp luận của nó. Bởi vì sự nghiệp đổi mới với tính chất mới mẻ, khó khắn và phức tạp của nó đòi hỏi phải có lý luận khoa học soi sáng. Khám phá về lý luận phải trở thành tiền đề và điều kiện cơ bản làm cơ sở cho sự đổi mới trong hoạt động thực tiễn. Chính vì thế, Triết học Mác Lênin là một môn học quan trọng giúp người học có thể nắm được quá trình hình thành phân tích những khái niệm, nguyên lý, quy luật của tư duy triết học nhân loại, đông thời nhận thấy rõ sự ra đời và phát triển của triết học Mác lênin là một quy luật tất yếu chứ không phải là một trào lưu văn hóa nằm ngoài dòng chảy của văn minh nhân loại.

§  Để có thể hiểu rõ hơn về tính sáng tạo trong ý thức góp phần như thế nào trong công cuộc XD đất nước hiện nay thì việc đầu tiên chúng ta nên tìm hiểu đó chính là nguồn gốc của nền kinh tế của nước ta. Nền kinh tế của nước ta có 1 xuất phát điểm thấp, tiềm lực kinh tế hầu như không có. Nhưng trong lúc bấy giờ thế giới lại đang phát triển không ngừng với các phát minh,ly luan,… của các nhà khoa học và triet học. Đất nước ta phải làm gì để tránh khỏi nguy cơ bị tụt hậu so với các nước trên thế giới? Caau hỏi này giúp chúng ta nhận thức rõ rằng bộ não cua con nguoi chinh là công cụ duy nhất có thể giúp cho đất nước ta phát triển thành 1 nước công nghiệp hóa-hiện đại hóa.

 

§  Như chúng ta đã biết trong triết học Mác - Lê nin, có đề cập đến vấn đề tính sáng tạo của ý thức. Giải thích rõ ràng về nguồn gốc, bản chất của ý thức để từ đó nêu lên được sự  phản ánh năng động, sáng tạo thế giới khách quan vào bộ óc người, do nhu cầu của việc con người cải biến giới tự nhiên quyết định và được thực hiện thông qua hoạt động lao động.Khẳng định rằng chính bộ não của con người là cơ quan vật chất của ý thức, phản ánh lại thế giới khách quan một cách sáng tạo hình thành hoạt động của  ý thức. Và nếu tính sáng tạo của ý thức được vận dụng một cách khoa học thì góp phần phát huy vai trò của tri thức trong việc xây dựng đất nước ta hiện nay. Chính vì lý do đó mà chúng tôi quyết định chọn đề tài này : ”Vận dụng quan điểm của triết học Mác – Lê nin về tính sáng tạo của ý thức vào việc phát huy vai trò của trí thức trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay”.

Chương 1: Quan điểm của Mác-Lê nin về tính sáng tạo của ý thức:

          Theo định nghĩa của triết học Mác-Lê nin, ý thức là một trong hai phạm trù thuộc vấn đề cơ bản của triết học, theo đó ý thức là sự phản ánh thế giới vật chất khách quan vào bộ óc của con người và có sự cải biến và sáng tạo.

1.Nguồn gốc của ý thức được bắt nguồn từ tự nhiên và xã hội: 

a) Nguồn gốc tự nhiên :

Trước Mác nhiều nhà duy vật tuy không thừa nhận tính chất siêu tự nhiên của ý thức, song do khoa học lúc bấy giờ chưa phát triển nên cũng  không giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những thành tựu của khoa học tự nhiên, nhất là sinh lý học thần kinh, chủ nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng không phải mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ não người. Bộ não người hiện đại là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài về mặt sinh vật – xã hội và có cấu tạo phức tạp nhất được biết đến hiện nay, chứa tổng cộng tới 160.934km tế bào máu và bao gồm 100tỷ nơ ron thần kinh. Những tế bào này liên kết với nhau, tạo nên nhiều mới liên hệ nhằm thu nhận, xử lý, dẫn truyền và điều khiển toàn bộ hoạt động của cơ thể trong quan hệ với thế giới bên ngoài thông qua các phản xạ có điều kiện và không có điều kiện. Bộ não người là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ não người, không thể tách rời ý thức ra khỏi họat động của bộ não. Cũng theo chủ nghĩa Mác – Lê nin, hoạt động ý thức không thể diễn ra, tách rời họat động sinh lý thần kinh của bộ não người.

Trong bộ não người, quá trình ý thức không đồng nhất và cũng không tách rời, độc lập hay song song với quá trình sinh lý. Đây là hai mặt của một quá trình – quá trình sinh lý thần kinh trong bộ não người mang nội dung ý thức, cũng như tín hiệu vật chất mang nội dung thông tin.

Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ não mà không có sự tác động của thế giới bên ngòai để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng không thể có ý thức.

Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối tượng vật chất. Thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau. Phản ánh là sự tái tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả phản ánh phụ thuộc và cả hai vật - vật tác động và vật nhận tác động. Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thông tin. Nói cách khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

Thuộc tính phản ánh của vật chất có quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp. Ý thức là hình thức phát triển cao nhất của sự phản ánh thế giới, nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của ý thức vật chất, cùng với sự xuất hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con nguời, không thể tách rời con người. Ý thức là sự phản ánh thế giới bên ngòai vào trong bộ óc người. Bộ óc là cơ quan phản ánh, song chỉ có riêng bộ óc thôi thì chưa thể có ý thức. Không có sự tác động bên ngoài lên các giác quan và qua đó đến bộ óc thì họat động ý thức không thể xảy ra.

Như vậy, bộ óc người cùng với thế giới bên ngoài tác động lên bộ óc – đó là nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

b) Nguồn gốc xã hội :

Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ. Điều kiện quyết định cho sự ra đời của ý thức là những tiền đề, nguồn gốc xã hội. Ý thức ra đời cùng với quá trình hình thành bộ não người nhờ lao động, ngôn ngữ và những quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã hội, nó phụ thuộc vào xã hội và ngay từ đầu đã mang tính xã hội.

Quá trình hình thành ý thức không phải là quá trình con người thu nhận thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những qui luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các hiện tượng này tác động vào bộ não người. Ý thức được hình thành không phải chủ yếu do tác động thuần túy tự nhiên của thế giới khách quan vào bộ não người, mà chủ yếu là do hoạt động của con người cải tạo thế giới khách quan, làm biến đổi thế giới đó. Quá trình hình thành và phát triển ý thức là kết quả họat động chủ động của con người.

Trong quá trình lao động, ở con người xuất hiện nhu cầu trao đổi kinh nghiệm, trao đổi tư tưởng cho nhau. Chính nhu cầu đó đòi hỏi sự xuất hiện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ là do nhu cầu của lao động và nhờ lao động mà hình thành. Nó là hệ thống tín hiệu vật chất mang nội dung ý thức. Không có hệ thống tín hiệu này - tức ngôn ngữ, thì ý thức không thể tồn tại và thể hiện được. Theo quan điểm của triết học Mác – Lê nin ngôn ngữ ( tiếng nói và chữ viết ) vừa là phương tiện giao tiếp đồng thời là công cụ của tư duy vì nó là vỏ bọc vật chất của tư duy, là hình thức biểu hiện nội dung mà nội dung ở đây là tư duy. Nhờ ngôn ngữ con người có thể khái quát hóa, trừu tượng hóa, mới có thể suy nghĩ, tách khỏi sự vật cảm tính và truyền đạt những kinh nghiệm, hiểu biết của người này cho người khác, từ thế hệ này cho thế hệ khác.Vì vậy, ngôn ngữ có vai trò rất quan trọng đối với con người.

Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội.

2.Bản chất của ý thức: là sự phản ánh thế giới hiện thực khách quan vào bộ não của con người. Song đây là sự phản ánh một cách năng động sáng tạo, phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. 

Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan hay có thể nói sáng tạo lại thế giới khách quan dưới dạng ý thức. Nói như vậy, vì nội dung của ý thức là do thế giới khách quan quy định, song vì ý thức là chức năng và nó nằm trong bộ não con người, nên ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan nhưng lại thuộc phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan. Ý thức ở đây không có tính vật chất, nó chỉ là hình ảnh tinh thần, gắn liền với hoạt động khái quát hóa, trừu tượng hóa, có định hướng và có sự lựa chọn.

Ý thức là sự phản ánh sáng tạo thế giới: như đã nói ở trên ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc con người. Tuy nhiên, không phải thế giới khách quan tác động vào bộ não người là tự nhiên trở thành ý thức. Ngược lại, ý thức này là sự phản ánh năng động, sáng tạo về thế giới, do con người thu nhận thông tin thông qua hoạt động lao động, cải biến thông tin trên cơ sở của cái đã có, như vậy ý thức tạo ra tri thức mới về vật chất. 

Các Mác nhận định rắng: “Ý thức chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc của con người và được cải biến đi trong đó”. Như vậy, có thể nói sự phản ánh sáng tạo của ý thức biển hiện ở sự cải biến vật chất di chuyển vào trong bộ não con người thành những hình ảnh tinh thần. Và sáng tạo của ý thức là sáng tạo của phản ánh dựa trên những cơ sở của phản ánh, trong khuôn khổ và theo tính chất, quy luật phản ánh.

Tính sáng tạo của ý thức được thể hiện rất phong phú. Dựa vào những cái đã có, ý thức có thể tạo ra những tri thức mới về sự vật, có thể tưởng tượng ra những điều không có thực, có thể tiên đoán, dự báo về tương lai, tạo ra những ảo tưởng, làm nên những huyền thoại, xây dựng những giả thuyết – lý thuyết khoa học hết sức trừu tượng và có tính khái quát cao.

Như đã nói ở trên, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ não của con người, song đây là sự phản ánh đặc biệt- phản ánh trong quá trình con người cải tạo thế giới. Chính vì vậy, quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau đây:

Một là, trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông tin cần thiết.

Hai là, mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần. Thực chất đây là quá trình “sáng tạo lại” hiện thực của ý thức theo nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý tưởng tinh thần phi vật chất.

Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức là quá trình hiện thực hóa tư tưởng, thông qua hoạt động thực tiễn biến cái quan niệm thành cái thực tại, biến cái ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đọan này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động vài hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.

Tóm lại, ý thức là sự phản ánh sáng tạo, vì phản ánh đó dù trực tiếp hay gián tiếp, dù dưới dạng nào đi nữa thì bao giờ cũng phải dựa vào những tiền đề vật chất, dựa trên hoạt động thực tiễn nhất định. Và sự sáng tạo này không đối lập, loại trừ, tách rời sự phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh trên cơ sở của phản ánh. Chính vì vậy, phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Còn ý thức- trong bất kỳ trường hợp nào cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo của bộ não.  

Chương 2: Vai trò của tri thức trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay:

Như đã trình bày trong phần I, ý thức là một hiện tượng xã hội, ra đời và tồn tại gắn liền với hoạt động thực tiễn, chịu sự chi phối không chỉ của quy luật tự nhiên mà còn của các quy luật xã hội, được quy định bởi nhu cầu giao tiếp xã hội. Chính vì thế, ý thức có kết cấu rất phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố với quan hệ mật thiết với nhau; và một trong những kết cấu cơ bản mà ta sẽ cùng bàn trong phần này là tri thức, vai trò của tri thức và phát huy vai trò đó trong công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay.

1/ Tri thức là gì?

Tri thức là toàn bộ những hiểu biết của con người, là kết quả của quá trình nhận thức, là sự tái tạo lại hình ảnh của đối tượng được nhận thức dưới dạng các loại ngôn ngữ.

Trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước, tri thức luôn được đánh giá  là nền tảng và động lực cho phát triển. Những luận cứ khoa học đã giúp Đảng có một sự định hướng đúng đắn về đuường lối chính sách phát triển của đất nước; vạch ra kế hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông nghiệp, du lịch dịch vụ, Khoa học công nghệ...Nói đến vai trò nền tảng và động lực của tri thứctrong công cuộc đổi mới là nối đến con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá dựa trên cơ sở Khoa học và công nghệ, coi khoa học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu. Quan điểm này cho tấy rõ sự quyết tâm và lựa chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm và đổi mới phương thức phát triển phù hợp với những đòi hởi phải tiến hành công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững trong những thập niên đầu của thế kỷ 21.

Bên cạnh đó, ta cũng ko nên rập khuôn bắt chước mô hình công nghiệp hóa của các nước khác, cũng không nên hiểu công nghiệp hóa là xây dựng công nghiệp mà phải hiểu đó là sự chuyển giao nên kinh tế từ tình trạng lạc hậu, năng suất chất lượng kém, lao động thủ công sang nền kinh tế có chất lượng năng suất cao, phương pháp sản xuất dựa vào tiến bộ khoa học và công nghệ mới nhất. Vì vậy CNH phải đi đôi với cơ giới hóa.

Đặc trưng của nền kinh tế tri thức

Dù có nhiều cách hiểu khác nhau, song có thể thấy, nền kinh tế tri thức có những đặc trưng cơ bản sau:

a. Tri thức đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng đầu quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.

b. Trong nền kinh tế tri thức, cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi sâu sắc, nhanh chóng, trong đó cơ cấu sản xuất dựa ngày càng nhiều vào việc ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao.

c. Cơ cấu lao động trong kinh tế tri thức có những biến đổi so với nền kinh tế tri thức trước đó: Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao (70-90%), nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa, sự sáng tạo, đổi mới, học tập trở thành nhu cầu thường xuyên đối với mọi người.

d. Trong nền kinh tế tri thức, hàm lượng tri thức trong sản phẩm ngày càng cao, quyền sở hữu đối với tri thức trở nên quan trọng hơn những yếu tố như tài nguyên, đất đai.

e. Mọi hoạt động của kinh tế tri thức đều liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa, có tác động sâu sắc đến nhiều mặt của đời sống xã hội trong mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.

Hiện nay về cơ bản nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế mang những dấu ấn của kinh tế nông nghiệp, đang chuyển dần sang kinh tế công nghiệp. Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Chỉ số KEI của Việt Nam hiện đang là 3,51, trong đó chỉ số sáng tạo chỉ là 2,72, trong khi đó chỉ số KEI của một số nước trong khu vực là rất cao: Singapore là 8,44; Malaysia là 6,07; Thái Lan là 5,52.

Xét phương diện những đặc trưng của nền kinh tế tri thức thì chúng ta thấy cơ cấu kinh tế - lao động của Việt Nam hiện nay vẫn là lạc hậu: tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp trong GDP còn hạn chế, ngành nông nghiệp còn cao. Cơ cấu lao động cũng chưa chuyển biến mạnh mẽ: lao động trong lĩnh vực nông nghiệp còn chiếm tỷ trọng rất cao, chất lượng lao động còn nhiều hạn chế. Trong khi đó hiện nay ở Mỹ khoảng 80% lực lượng lao động làm việc trong các ngành dịch vụ, nghiên cứu, ứng dụng và triển khai.  

*Giải pháp phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam

Nền kinh tế Việt Nam đang quá độ sang kinh tế công nghiệp. Vì vậy, để tạo điều kiện và thúc đẩy kinh tế tri thức phát triển cần quán triệt và thực hiện một số giải pháp sau:

Thứ nhất, phải giải quyết tốt mối quan hệ giữa khoa học, công nghệ và tri thức.Sự phát triển của khoa học, công nghệ là điều kiện cần để hình thành và phát triển kinh tế tri thức.Cần đầu tư hơn nữa cho khoa học, công nghệ; tạo ra chính sách phát triển khoa học, công nghệ.

Thứ hai, nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học, đào tạo nhân lực cho kinh tế tri thức. Nghiên cứu khoa học được coi là nền tảng của tăng trưởng kinh tế, đóng vai trò quan trọng trong các quá trình hình thành kinh tế tri thức. Theo một nghiên cứu mới nhất, hiện nay nếu không có gì thay đổi thì Việt Nam cần khoảng thời gian là 60 năm mới có thể theo kịp về số lượng bài báo ở thời điểm năm 2005. Việt Nam vẫn đang thiếu chuyên gia nghiên cứu khoa học tầm cỡ quốc tế, chất lượng lao động Việt Nam đạt 4/10 điểm (theo WEF).

Thứ ba, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN hướng đến việc phát huy vai trò của khoa học, công nghệ, hướng đến kinh tế tri thức. Cần tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh, thúc đẩy sự đổi mới, sáng tạo, khuyến khích các chủ thể kinh tế phát huy tối đa tiềm năng của mình, trong đó nhấn mạnh các vấn đề về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ, bản quyền...

Thứ tư, tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang kết hợp hợp lý giữa tăng trưởng theo chiều rộng với chiều sâu. Cần kết hợp hợp lý phát triển kinh tế theo hai mô hình này, một mặt khai thác những lợi thế sẵn có về lao động, tài nguyên; mặt khác phải “đi tắt, đón đầu”, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo mô hình “hiện đại”, “rút ngắn” để phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.  

 

 

2. Vai trò của tri thức trong công cuộc xây dựng đất nước:

Thực tế cho thấy sau hơn 25 năm đổi mới dựa vào tiềm năng của đất nước vận dụng tri thức vào sản xuất mà đặc biết là sự sự trợ giúp của Khoa học-Công nghệ chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể.

Một là,Đất nước ra khỏi khủng hoảng, kinh tế đạt tốc độ tăng trưởng nhanh.Năm 2005, nước ta đứng thứ 2 trên thế giới về xuất khẩu gạo, thứ 2 về cà phê, thứ 4 về cao su, thứ 2 về hạt điều, thứ nhất về hạt tiêu.

Trong 5 năm, tổng vốn FDI thực hiện đạt gần 45 tỉ USD, vượt 77% so với kế hoạch đề ra. Tổng vốn ODA cam kết đạt trên 31 tỉ USD, gấp hơn 1,5 lần so với mục tiêu đề ra; giải ngân ước đạt khoảng 13,8 tỉ USD, vượt 16%. GDP bình quân đầu người đạt 1.168 USD.

Hai là, Cơ cấu kinh tế chuyển biến tích cực theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, gắn sản xuất với thị trường.

Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP đã tăng từ 33,1% năm 1988 lên 38,1% năm 2005. Các ngành dịch vụ đã phát triển đa dạng hơn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu của sản xuất và đời sống. Ngành du lịch, bưu chính viễn thông phát triển với tốc độ nhanh. Các ngành dịch vụ tài chính, ngân hàng, tư vấn pháp lý... có bước phát triển theo hướng tiến bộ, hiệu quả.

Ba là, Thực hiện có kết quả chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, phát huy ngày càng tốt hơn tiềm năng của các thành phần kinh tế.Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần dần được hình thành, kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định

Qua 25 năm đổi mới, hệ thống pháp luật, chính sách và cơ chế vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xây dựng tương đối đồng bộ. Hoạt động của các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế nhiều thành phần và bộ máy quản lý của Nhà nước được đổi mới một bước quan trọng.

4 là,Thực hiện gắn kết phát triển kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, đời sống của đại bộ phận dân cư được nâng lên rõ rệt.

Một thành công lớn đầy ấn tượng của nước ta qua 25 năm đổi mới là đã giải quyết có hiệu quả mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hoá, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, các cơ hội phát triển được mở rộng cho mọi thành phần kinh tế, mọi tầng lớp dân cư, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của nhân dân được nâng cao.

Thu nhập bình quân đầu người tăng mạnh từ 200 USD năm 1990 lên khoảng  1168 USD năm 2010.

 

 

3. Phát huy vai trò của tri thức trong công cuộc xây dựng đất nước hiện nay:

 Qua hơn 20 năm đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội; vị thế của Việt Nam đã được nâng cao trên trường quốc tế. Lực lượng trí thức, đặc biệt là trí thức khoa học và công nghệ đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới. Xác định rõ vai trò quan trọng trong giai đoạn hiện nay, Liên hiệp các Hội khoa học và Kỹ thuật Việt Nam (Liên hiệp hội Việt Nam) đã và đang tiếp tục cùng lực lượng trí thức cả nước xây dựng và tập hợp đội ngũ, thúc đẩy sự phát triển khoa học công nghệ của nước ta.

Chặng đường phía trước còn dài để tiếp tục xây dựng nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế, trong thời gian tới cùng với đội ngũ tri thức cả nước, dảng và nhà nước ta đã xác định không ngừng phát huy vai trò năng động, sáng tạo, khắc phục tồn tại, yếu kém, vươn lên trở thành nhân tố nòng cốt tập hợp trí thức Việt Nam tham gia xây dựng và phát triển đất nước. Đặc biệt là sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị của tổ chức chính trị - xã hội đối với đội ngũ trí thức khoa học và công nghệ. Nâng cao năng lực cho các hội thành viên và các đơn vị trực thuộc để đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền và phổ biến kiến thức, phát triển công nghệ phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Đồng thời, sẽ tiếp tục củng cố, kiện toàn và phát triển tổ chức, làm tốt công tác hội viên; tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động; khuyến khích, hỗ trợ tổ chức và hoạt động mạng lưới chia sẻ thông tin với nhau....

4. tính tất yếu trong liên minh công nhân-nông dân-trí thức trong quá trình quá độ CNXH:

  Công cuộc xây dựng xã hội mới trong thời kỳ quá độ lên CNXH là công việc hoàn toàn mới, đầy khó khăn gian khổ, phức tạp, lâu dài, diễn ra trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, vì sự nghiệp giải phóng không chỉ cho giai cấp công nhân, mà cho toàn xã hội. Trong cơ cấu xã hội của thời kỳ quá độ còn tồn tại nhiều giai cấp tầng lớp, trong đó nông dân còn chiếm đa số, tầng lớp trí thức có xu hướng ngày càng phát triển. Mỗi giai cấp tầng lớp còn có những đặc điểm, vị trí kinh tế - xã hội, vai trò khác nhau. 
      Đối với giai cấp công nhân: do vị trí lịch sử quy định, là giai cấp ngày càng đông đảo theo sự phát triển của nền kinh tế công nghiệp trong nước cũng như trên thế giới. Họ có những đặc điểm riêng có, ưu việt mà không có giai cấp nào có được. Trong thời đại ngày nay, là giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo, đi đầu trong việc giải phóng con người, giải phóng xã hội. Giai cấp công nhân phải tổ chức lực lượng cách mạng, vì sự nghiệp cách mạng nào cũng là sự nghiệp của quần chúng. Việc tìm đến với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức là một nhu cầu tự thân.
      Giai cấp nông dân là một tập đoàn xã hội đông đảo sinh sống trên địa bàn nông thôn, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu với tư liệusản xuất đất rừng, sông biển, tạo ra các sản phẩm nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của thị trường về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu cho công nghiệp và xuất khẩu. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, về cơ bản nông dân được giải phóng khỏi chế độ áp bức bóc lột, nhưng đa số nông dân vẫn có đời sống còn thấp kém hơn các giai tầng xã hội khác. Mặt khác nông dân lại có vai trò to lớn trong cuộc cách mạng xây dựng và phát triển kinh tế xã hội.

      Tầng lớp trí thức, là một tập đoàn những người lao động xã hội đặc biệt bằng trí óc, phương thức lao động chủ yếu là lao động trí tuệ cá nhân, tạo ra những sản phẩm khoa học, trí tuệ, tinh thần. Trong thời kỳ quá độ lên CNXH, trí thức cũng đã được giải phống, càng có điều kiện để phát huy vai trò của mình. Ở mọi quốc gia, trí thức là bộ phận tiêu biểu cho trí tuệ, văn hoá của đất nước. Họ có nhiều ý kiến đóng góp vào việc hoạch định đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, của Nhà nước để phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục, trực tiếp đào tạo, bồi dưỡng, phát triển nguồn nhân lực cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.

      Như vậy, cả giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đều là những lực lượng lao động sản xuất, lực lượng chính trị - xã hội với những đặc điểm, vai trò xác định. Họ là những giai cấp, tầng lớp đông đảo nhât trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Đặc biệt đối với các nước tiền tư bản, nông nghiệp lạc hậu quá độ bỏ qua chế độ TBCN đi lên CNXH đây là lực lượng cách mạng chủ yếu. Với tư cách là giai cấp lãnh đạo, giai cấp công nhân mà đứng đầu là Đảng cộng sản phải nắm bắt được những yếu tố khách quan từ các giai cấp tầng lớp, để tổ chức thành liên minh vững chắc, khi đó không chỉ giành được sự thắng lợi mà cũng “không có thế lực nào phá vỡ nổi”
     

5. Phát huy vai trò tri thức quân đội trong xây dựng đất nước.

Ở mọi thời đại, tri thức luôn luôn “là nền tảng tiến bộ xã hội”, đội ngũ trí thức là lực lượng nòng cốt thúc đẩy sự phát triển và phồn vinh của đất nước. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta có quan điểm nhất quán coi trọng và tin tưởng vào đội ngũ trí thức. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế... Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách tạo điều kiện để đội ngũ trí thức phát triển ngày càng lớn mạnh, phát huy tốt vai trò phục vụ tích cực cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Nhìn chung, đội ngũ trí thức quân đội được đào tạo cơ bản, phần lớn đã trải nghiệm qua thực tiễn chiến đấu, phục vụ chiến đấu, huấn luyện, công tác; có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân; gắn bó với quân đội và nghề nghiệp; có tri thức, tiếp cận được sự phát triển của khoa học - công nghệ trong nước, khu vực và thế giới; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Trên lĩnh vực khoa học nghệ thuật quân sự, trí thức quân đội đã tập trung nghiên cứu, giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; xây dựng, củng cố nền quốc phòng toàn dân, xây dựng khu vực phòng thủ tỉnh (thành phố); nghiên cứu và hoàn thiện lý luận nghệ thuật quân sự Việt Nam trong chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc. Trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn quân sự trí thức quân đội đã nghiên cứu, giải quyết nhiều vấn đề của thực tiễn công cuộc bảo vệ Tổ quốc đặt ra; góp phần vào việc xây dựng Cương lĩnh, đường lối chính trị, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế; tích cực tham gia đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống lại các luận điệu thù địch, sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng; xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị. Trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật, công nghệ quân sự và y dược quân sự, trí thức quân đội đã nghiên cứu, giải quyết thành công nhiều vấn đề về bảo quản, sửa chữa; chủ động nghiên cứu chế tạo, cải tiến vũ khí, trang bị, kỹ thuật đáp ứng yêu cầu thực tiễn, phát triển nghệ thuật quân sự, phát triển cách đánh của lực lượng vũ trang 3 thứ quân; tích cực ứng dụng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật và một số công nghệ mũi nhọn, như công nghệ thông tin, công nghệ vật liệu, công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học vào các hoạt động quốc phòng và quân sự. Kết quả của các công trình nghiên cứu đã góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác bảo đảm hậu cần, kỹ thuật, bảo đảm vũ khí, trang bị, bảo đảm sức khỏe cho lực lượng vũ trang...

KẾT LUẬN

Trong quá trình lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta đã “nhận thức ngày càng sâu sắc rằng xã hội, văn hóa là những lĩnh vực thể hiện rõ nhất bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong những năm tới, cần đưa việc giải quyết các vấn đề xã hội và phát triển văn hóa lên nhanh hơn nữa, tương xứng với nhịp độ phát triển kinh tế”. Chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội chính là một mục tiêu, một động lực quan trọng của sự nghiệp đổi mới, đồng thời thể hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa khi Việt Nam bước vào phát triển kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. Đường lối xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội hoàn toàn đúng đắn của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới vừa qua đã góp phần quan trọng vào việc củng cố hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần ngày càng cao của nhân dân, góp phần vào sự phát triển bền vững của đất nước. Đường lối này chính là kết quả của sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh lịch sử cụ thể của đất nước ta. Những đóng góp sáng tạo của Đảng về lý luận xây dựng con người, phát triển văn hóa là một bộ phận quan trọng hợp thành lý luận đổi mới của Đảng.

Việc tổ chức và triển khai những quan điểm những nhiệm vụ về xây dựng con người và phát triển văn hóa trong 25 năm đổi mới vừa qua đã tạo nên sự chuyển biến tích cực trong đời sống văn hóa của đất nước. Những thành tựu và đóng góp về lý luận và chỉ đạo thực tiễn của Đảng trên lĩnh vực này đã góp phần phát huy mạnh mẽ vai trò to lớn của văn hóa và con người trong sự nghiệp đổi mới.

Sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế dưới sự tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng đem đến cả thời cơ và thách thức mới cho việc xây dựng con người đảm bảo tiến bộ xã hội và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Trong quá trình này, việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối, chính sách xây dựng con người và phát triển văn hóa, xã hội là một yêu cầu khách quan. Mặt khác, việc tổ chức và triển khai nghiêm túc những quan điểm chỉ đạo, những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược xây dựng con người và phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội là nhân tố có ý nghĩa quyết định để biến tư tưởng của Đảng thành hiện thực.

Trong quá trình này, chúng ta cần phát huy những thành tựu đã đạt được, khắc phục những khuyết điểm và yếu kém của thời kỳ vừa qua, tranh thủ thời cơ, quyết tâm thực hiện đồng bộ và toàn diện các giải pháp cấp bách nêu trên để giành những thành tựu mới, tạo nên sự phát triển về chất để khẳng định sức mạnh mới của con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hội nhập kinh tế quốc tế.

 

 

 

 

 

 


You can if you think you can

Smod "Góc Học Tập"

Skype: mocmummim

Email: phanthiquynh.qnh3@gmail.com

FB: facebook.com/phan.quynh.96


 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024