Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
25/02/2010 19:02 # 1
nxduck
Cấp độ: 7 - Kỹ năng: 7

Kinh nghiệm: 27/70 (39%)
Kĩ năng: 67/70 (96%)
Ngày gia nhập: 20/01/2010
Bài gởi: 237
Được cảm ơn: 277
Những tòa nhà độc đáo nhất thế giới


1. Toà Aqua (Mỹ)

Toà nhà chọc trời với những đường nét uốn lượn mềm mại này sẽ được hoàn thành vào năm 2009 ở Chicago (Mỹ). Nhìn từ xa, bạn có thể nghĩ rằng nó không khác với kiến trúc truyền thống cho lắm. Điều đặc biệt và cảm giác lạ kỳ chỉ đến khi bạn ở gần nó hay đứng trên những ban công cao chót vót.

2. Tháp xoắn ốc Chicago, Mỹ


Ngọn tháp này sẽ được cắt băng hoàn thành vào năm 2010. Nó sẽ là toà chung cư cao nhất thế giới và cũng là toà nhà cao nhất phương Tây.

3. Trụ sở đài truyền hình trung ương Trung Quốc



Với độ cao khiêm tốn 234m, toà nhà này không phải là cao lắm. Tuy nhiên, kiểu thiết kế của nó thì thật độc đáo. Thời gian diễn ra Olympics Bắc Kinh 2008 sẽ là lúc công trình này hoàn tất.

4. Khách sạn thuyền buồm ở Dubai.

Lấy chủ đề từ biển, những nhà thiết kế đã xây 10 toà tháp nhỏ hơn biểu tượng cho những chiếc thuyền, còn toà lớn nhất đại diện cho ngọn hải đăng.

5. Khu chung cư màu xanh (Ấn Độ)


Ắt hẳn nhà thiết kế này là người rất yêu môi trường vì nhìn vào nó bạn sẽ thấy những cây cối xanh tươi lọt giữa các toà tháp nóng bức xung quanh.

6. “Eiffel” của nước Nga


Tới khi hoàn thành vào năm 2012, nó sẽ là toà tháp cao nhất châu Âu và cao gấp đôi tháp Eiffel của nước Pháp. Công trình đang được thi công tại trung tâm thủ đô Moscow.

7. “Viên ngọc” của hòn đảo Penang (Malaysia)



Sau nhiều tháng nghiên cứu tính khả thi, công trình đặc biệt này đang trong giai đoạn phê duyệt cuối cùng và nó sẽ sớm được khởi công xây dựng. 15 năm sau, bạn sẽ không thể không đến chiêm ngưỡng công trình này nếu có dịp đến thăm hòn đảo xinh đẹp Penang.

8. Trụ sở Gazprom (Nga)



Toà nhà bằng kính cao 300m này sẽ là trụ sở tương lai của Tập đoàn năng lượng khổng lồ nước Nga – Gazprom ở thành phố St. Petersburg. Màu sắc của toà nhà sẽ thay đổi trung bình 10 lần mỗi ngày phụ thuộc vào vị trí mặt trời.

   
Điện Kremlin


Thời điểm xây dựng: 1475 trở đi
Địa điểm: Moscow, Nga

Một vài hình dáng kiến trúc nổi tiếng vang dội nhiều hơn cả là điện Kremlin ở Moscow trong nhiều thập niên chính từ "điện Kremlin" tượng trưng cho một thế lực bí ẩn. Thực tế, nhiều thành phố ở Nga thời Trung cổ đều có điện "Kremlin" - hay thành lũy công sự - nhưng các điện Kremlin khác không nổi tiếng hay ai ai cũng biết đến bằng điện Kremlin ở Moscow. Điều này có thể giải thích ở nhiều mức độ nhưng lý do căn bản thật đơn giản: Quyền lực.
Mặc dù Moscow được xây dựng khoảng năm 1147 là một thành phố tương đối mới trong số nhiều thành phố cổ của Nga, nhưng phát triển thông qua sự vận động hoàn cảnh thật nhẫn tâm cho đến khi đất nước Nga bị thống trị. Điện Kremlin, một thành lũy ngay trung tâm thành phố, có sơ đồ xấp xỉ hình tam giác ven sông. Là địa điểm quyền lực ở công quốc Muscovite - và sau này là nước Nga nói chung - điện Kremlin bao gồm nhiều đại giáo đường trong vùng cũng như là nơi ở của nhà cầm quyền cho đến khi Peter Đại đế dời đô về St Petersburg năm 1711. Điện Kremlin cũng có nhiều tòa nhà hành chính quan trọng, tu viện và các nhà thờ nhỏ hơn do cung đình sử dụng.


Sơ đồ điện Kremlin (Ảnh: architectnetwork)


Lịch sử xây dựng
Tường thành điện Kremlin trở thành một biểu tượng quyền lực Nga nhờ ở phần lớn vẻ ngoài nổi tiếng đối với trí tưởng tượng Nga nhất là khi giới kiến trúc sư địa phương bổ sung đường xoắn ốc ở tháp trong thế kỷ 17. Nhưng các tháp chính và tường thành rất giống sản phẩm kỹ thuật xây công sự Ý Quattrocento, vào thời điểm xây dựng điện Kremlin ở Moscow, kỹ thuật này đã lỗi thời ở Ý từ lâu.
Trong thập nhiên 1460, tình trạng tường đá vôi hiện hữu của điện Kremlin có niên đại vào cuối thế kỷ 14 đã đến mức cần phải trùng tu khẩn cấp.


(Ảnh: capitaltours)


Các nhà thầu địa phương được tuyển dụng để sửa chữa chắp vá nhưng đối với tái thiết cơ bản, Ivan III phải hướng về nước Ý để tìm chuyên gia xây dựng công sự. Từ năm 1485 - 1516, pháo đài cũ được thay bằng tường và tháp gạch. Tường kéo dài đến 2.235m với chiều dày thay đổi từ 3,5 đến 9m, với lỗ châu mai "đuôi én" kiểu Ý đặc biệt.
Trong số 20 tháp làm nổi bật tường điện Kremlin, tháp công phu nhất đặt ở các góc hay lối ra vào chính vào thành. Trong số các tháp bề thế nhất là tháp Frolow (sau này là tháp Spassky, hay Đấng cứu thế), lần đầu tiên do Vasily Ermolin xây dựng vào năm 1464-1466 nhưng Pietro Antonio Solan xây dựng lại vào năm 1491, ông từ Milan đến Moscow năm 1490. Vương miện trang trí do Bazhen Ogurtsov và một người Anh tên Christopher Halloway bổ sung năm 1624 - 1625. Ở góc Đông Nam của tường thành, tháp Beklemishev (1487 - 1488, có đường xoắn ốc bát giác từ năm 1680) được Marco Friazin xây dựng, ông thường làm việc chung với Solari. Tháp này và các tháp tương tự ở điện Kremlin gợi ý so sánh với pháo đài xây ở Ý.
Solari đóng vai trò quan trọng trong việc trùng tu điện Kremlin, không chỉ những với 4 tháp lối vào, tháp Borovitsky, Constantine và Helen, tháp Frolov, và tháp Nikolsky (tất cả xây dựng trong khoảng thời gian 1490 - 1493), cũng như tháp Binh công xưởng nguy nga và tường điện Kremlin đối mặt với Quảng trường đỏ, ông còn xây dựng "Cung điện nhiều mặt" - Granovitaica palata, đặt tên này là do sự trát vữa nhám lên đá vôi có hình dạng thoi ở mặt tiền chính. Sử dụng để tổ chức yến tiệc và tiếp thượng khách trong khu phức hợp điện Kremlin, công trình do Marco Friazin khởi công năm 1487.

Thánh đường Kremlin

Số liệu thực tế:
Diện tích: 24ha
Tường:
Dài: 2.235m
Cao: 8-19m
Tháp: 20
Tháp vuông Ivan Đại đế: cao 81m
Việc xây dựng lại thánh đường chính của Moscow, "Đức mẹ yên giấc ngàn thu", khởi công vào đầu thập niên 1470 với sự hỗ trợ của Đại hoàng tử Ivan III và Metropolitan Philip, người đứng đầu giáo hội Chính thống Nga. Các thợ xây dựng địa phương chứng tỏ không đủ khả năng đảm nhận một công trình đồ sộ và phức tạp như thế, khi một phần tường bị đổ, Ivan nhờ đến sự giúp đỡ của kiến trúc sư kiêm kỹ sư người Ý Aristotle Fioravanti, đến Moscow năm 1475. Ông được lệnh phải lập mô hình công tình xây dựng Thánh đường Đức mẹ yên giấc ngàn thu ở Vladimir. Trong khi thiết kế của ông kết hợp với một số đặc điểm thuộc phong cách Nga - Byzantine (nhất là mái cupôn đồ sộ ở giữa, và các mái cupôn nhỏ hơn ở các góc), kiến trúc sư cũng đưa ra nhiều sáng kiến về kết cấu: cột bằng gỗ sồi vững chắc làm chân móng, thanh kéo bằng sắt để đỡ mái vòm và gạch cứng (thay cho đá) để xây mái vòm và tường dưới mái cupôn.


Điện Kremlin nhìn bên kia sông, từ hướng Tây Nam (Ảnh: studyrussian)
Bên ngoài bằng đá vôi phản ánh tỷ lệ hoàn hảo của các bộ phận nhô ra khỏi phần chính đều cạnh trong sơ đồ, và phần bên trong xây dựng bằng cột tròn thay cho các trụ bổ tường đồ sộ - nhẹ hơn và tạo nhiều không gian hơn tất cả nhà thờ khác ở vùng Moscow. Trong cùng thời kỳ người ta cũng chứng kiến việc thi công các nhà thờ nhỏ hơn theo phong cách truyền thống của Nga như Nhà thờ Đức của Robe (1484 - 1488) và Thánh đường truyền tin (1848 - 1489).
Toàn bộ các thánh đường Kremlin đều do Ivan III đặt hàng, kể cả Thánh đường Tổng lãnh thiên thần Michael, do Aleviz Novy xây dựng vào năm 1505 - 1508. Công trình thể hiện những đặc điểm Ý ngôn cuồng nhất của "Thời kỳ Ý" ở Kremlin, và vẫn tượng trưng cho sự trở về các hình thức cổ truyền hơn của các nhà thờ nội tiếp ngang của Nga. Motif "vỏ sò" - một đặc điểm của thành Venice ít lâu sau trở thành phổ biến trong các kiến trúc sư vùng Moscow - tạo ra sự nhấn mạnh dứt khoát đến cách vách bên ngoài, được chia thành một dãy các khối đắp nổi trang trí hình bậc thang, vòm và trụ bổ tường. Hình vẽ trên tường trong nội thất được tiến hành vào thế kỷ 17 và bao gồm, ngoài các chủ đề tôn giáo ra còn có tranh chân dung của các nhà cầm quyền Nga, kể cả những nhà cầm quyền mai táng trong thánh đường từ thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 17.



Điện Kremlin về đêm (Ảnh: bestofrussia)


Công trình tưởng niệm sau cùng và cũng là đỉnh điểm trong việc tái thiết điện Kremlin là Tháp chuông Ivan Đại đế, khởi công như Thánh đường Tổng lãnh thiên thần vào năm 1505 và hoàn công năm 1508. Hầu như người ta không biết gì về kiến trúc sư xây dựng Tháp chuông, Bon Friazin. Thế nhưng rõ ràng ông là một kỹ sư lỗi lạc, không chỉ vì tháp chuông cao 60m chia thành 2 tầng vẫn đứng vững sau bao trận hỏa hoạn và thiên tai vốn theo định kỳ thường tàn phá phần lớn điện Kremlin, Tháp chuông vẫn không suy suyển sau vụ Pháp gài chất nổ vào năm 1812 cho thấy đủ sức để nâng cao 2 công trình kế cận. Tháp chuông, độ cao tăng thêm 21m trong triều đại của Boris Godunov, gối lên tường gạch chắc chắn dày 5m ở phần chân và 2,5m ở tầng thứ 2. Tường của tầng thứ nhất được gia cố bằng dầm sắt đặt trong khối xây.
Bổ sung đáng kể nhất trong thế kỷ 17 ở điện Kremlin là Nhà thờ 12 Thánh tông đồ, do Thượng phụ Nikon đặt hàng như là một phần trong Cung điện Tổ phụ trong khu phức hợp Kremlin. Nhà thờ đồ sộ này ban đầu dành để thờ phụng Thánh tông đồ Phillip, nhưng ẩn ý là tỏ lòng tôn kính Metropolitan Phillip, người được phong thánh tử đạo do phản đối khủng bố của Ivan IV. Thiết kế và lập chi tiết nhà thờ gạch đồ sộ này, xây dựng năm 1652 - 1656, lấy từ mô hình các nhà thờ xây bằng đá vôi vào thế kỷ 12 ở Vladimir. Nikon dự định trở về hình dạng tượng trưng chính xác trong thiết kế nhà thờ.


Điện Kremlin thời Nga hoàng

Trong nửa đầu thế kỷ 18, các nhà cầm quyền ở Nga đều bận tâm với việc xây dựng kinh đô mới St Petersburg. Nhưng dưới thời Catherine Đại đế trị vì, điện Kremlin một lần nữa trở thành đối tượng chú ý của nhà vua. Catherine tài trợ kế hoạch tái thiết toàn bộ khu phức hợp, kể cả tường thành, theo phong cách Tân cổ điển. May thay, những kế hoạch này không đi đến đâu. Ngay tức khắc, Catherine đặt hàng cho một kiến trúc sư tài ba ở Moscow theo trường phái Tân cổ Matvei Kazakov thiết kế một trong những công trình mang tầm cỡ quốc gia quan trọng nhất trong triều đại của Nữ hoàng - Thượng viện trong điện Kremlin. Sau cuộc cải cách hệ thống pháp lý năm 1763, Moscow là thủ đô thứ hai, được chỉ định là trụ sở của 2 trong số những cơ quan pháp lý tối cao của đế quốc.


(Ảnh: bestofrussia)


Thiết kế bậc thầy của Kazakov khai thác một không gian rộng lớn nhưng bất tiện nhét vào góc Đông Bắc của khu Kremlin để tạo ra một công trình hình tam giác 4 tầng. Sơ đồ rất cân đối, với 2 cánh bên trong tạo ra lối đi thuận tiện hơn giữa các cạnh của hình tam giác và hình thành 3 khoảng sân. Ở đỉnh của một trong các cạnh này là đặc điểm nổi bật của toàn bộ kết cấu - gian phòng lớn hình tròn có thể nhìn thấy từ giữa bức tường phía Đông của điện Kremlin. Gian phòng lớn hình tròn là không gian hội họp chính để Thượng viện hay Tòa dân sự tối cao làm việc phù hợp với chức năng của nó. Quay tròn bên ngoài là dãy cột Doric, nội thất hoàn thiện thật tráng lệ bằng cột Corinthian và phù điêu gồm các nhân vật ngụ ngôn của Gavrill Zamaraev. Phần phía trên bao gồm các chân dung lớn trát vữa của hoàng thân Nga và Nga hoàng theo hình thức cổ điển hóa.

Trong thế kỷ 19, Nicholas I đưa ra sáng kiến tái thiết điện Kremlin lớn (1839 - 1849), đã bị xuống cấp nghiêm trọng trong thời gian Pháp chiếm đóng năm 1812 và sau đó được sửa chữa. Trong thiết kế của mình, kiến trúc sư Konstantin Ton xây dựng một mặt tiền bề thế cho điện Kremlin cao hơn sông Moscow, và tạo ra sự kết nối đầy phong cách nghệ thuật với điện Terem, Cung điện nhiều mặt và Thánh đường Truyền tin bên trong. Đối với thiết kế nội thất của điện, Ton cộng tác với kiến trúc sư cung đình Friedrich Richter, kết hợp các motif Tân cổ điển, Baroque, Gothic và Nga Trung cổ. Ton cũng thiết kế công trình Công binh xưởng kế cận (1844 - 1851), với phong cách mang tính lịch sử của mình nhằm phản ánh chức năng công trình như một bảo tàng viện để giữ một số di tích lịch sử thiêng liêng nhất của nước Nga.



Điện Kremlin của nước Nga Xô viết
Với sự dời thủ độ về Moscow năm 1918 của nước Nga Xô viết, điện Kremlin một lần nữa trở thành địa điểm quyền lực ở Nga. Tuy nhiên, điều này chứng tỏ có một chút may mắn pha trộn khi một số công trình tưởng niệm đáng kính nhất đang bị phá hủy để có mặt bằng xây dựng các cơ quan chính phủ. Chỉ sau khi Joseph Stalin mất, điện Kremlin thêm một lần nữa được mở cửa đón khách tham quam.
Bổ sung đáng kể nhất dưới thời Xô viết đối với toàn bộ là Tòa nhà Quốc hội (1956 - 1961) do Mikhail Posokhin và nhiều người khác thiết kế, có dáng vẻ như một phòng hòa nhạc hiện đại, với phác thảo hình chữ nhật phủ đá khoa cương biểu hiện bằng các tháp hẹp và thân cột nhiều tầng gồm các kính tấm. Đặc điểm duy nhất mang dáng vẻ dịu dàng của công trình là không có sự tương phản với các công trình lịch sử khác trong khu phức hợp, vẫn được xem là ngôi đền văn hóa quan trọng nhất ở Nga.
Sưu tầm

   
Lâu đài Neuschwanstein


Thời đỉêm xây dựng: 1869 - 1886
Địa điểm: Dãy Alps, bang Bavaria, Đức

Lâu đài Neuschwanstein nằm trên vách đá lởm chởm vươn cao khỏi cánh rừng chân núi dãy Alps thuộc bang Bavaria là một trong những hình ảnh trữ tình quen thuộc nhất trên thế giới. Điều khiến lâu đài này khác hẳn đa số các lâu đài và cung điện khác là sự xây dựng không phải phô trương uy quyền hay của cải, mà chỉ là tư dinh của chủ nhân Ludwig II và một ít người tùy tùng.
Thân phụ của Ludwig là Maximilian II đã xây dựng lâu đài Hohenschwangau gần đó năm 1837 để làm nơi ở mùa hè. Mang phong cách Gothic, vì lúc đầu thế kỷ 19 phong cách có phần nào được chọn theo sách lịch sử mẫu. Nơi đây Ludwig trưởng thành, và cũng nơi đây trong phòng âm nhạc, lần đầu tiên ông được giới thiệu với nhà soạn nhạc Richard Wagner, với các vở opera tạo ấn tượng khó phai ở vị hoàng tử trẻ.
Cuối cầu thang của tháp phía Bắc, tượng rồng cúi mình đón chào những người lên đến đỉnh tháp. Do người kế vị Riedel - Julius Hofmann thiết kế, công đoạn này là một trong những phần sau cùng của tòa lâu đài xây hoàn tất vào năm 1884.
Ludwig làm vua khi 18 tuổi không học hành chính thức, nhanh chóng nhận thấy mình bất hòa với các bộ trưởng trong chính phủ. Khi ông nhận thấy mình không có thiên hướng hay tài năng trong hoạt động chính trị, ông ngày càng rời xa thực tế thường nhật để lánh mình trong thế giới truyền thuyết và hoang đường.
Vào thời điểm ấy, địa điểm xây dựng lâu đài ngổn ngang các đống gạch vụn của lâu đài trước đó và trong lá thư gửi Wagner đề năm 1868, Ludwig viết: "Ta dự định xây dựng một tòa lâu đài theo phong cách thật sự của những hiệp sĩ Đức cổ đại trên đống đổ nát của lâu đài cũ... nơi đây Thánh thần sẽ đến thăm và chung sống với chúng ta trên đỉnh cao dốc đứng, thoáng mát với làn gió nhẹ thiên đàng". Lâu đài trở thành một tư dinh nơi nhiều anh hùng trong vở kịch âm nhạc của Wagner không chỉ ra mắt trong cuộc trình diễn mà còn luôn hiện diện như những nhân vật điển hình.

Thiết kế và phong cách

Phác họa lâu đài Neuschwanstein ban đầu của nhà thiết kế sân khấu Christian Jank trong Nhà hát cung đình Munic trong năm 1868 cũng đủ thích hợp. Sau đó những phác họa này được Edouard Riedel chuyển thành các bản vẽ kiến trúc khả thi vào năm sau. Địa điểm cũng tạo ra nhiều vấn đề đáng kể, vì cao hơn mặt đường hiện hữu đến 200m nằm trên vỉa đất trồi khô cằn. Sau cùng người ta phát hiện một con suối và bơm nước lên lâu đài đến ngày nay vẫn còn. Riedel đảm nhận công việc cho đến năm 1872, sau đó đến phiên 2 kiến trúc sư khác cho đến khi nhà vua đã hoàn tất, mặc dù các phần nội thất khác vẫn còn dang dở.
Phong cách chính là trường phái kiến trúc giữa cổ điển và Gothic Đức thế kỷ 13, mặc dù được hiểu theo cách tùy tiện. Một số đặc điểm lấy từ các công trình hiện có, nhưng nói chung là một thành phần độc đáo, tháp cao đồ sộ bất thường của lâu đài với các mái hình nón tạo ấn tượng khó quên xen lẫn rừng cây và dãy núi phía xa. Ngạc nhiên nho nhỏ là vào ban đêm nhà vua sẽ đi lên chiếc cầu ở cạnh phía Bắc để thưởng thức cảnh tòa lâu đài thắp sáng bằng chúc đài treo và vô số ánh nến lung linh tựa thể trong truyện cổ tích.
Bên ngoài lâu đài cũng tạo ấn tượng bằng cách bố trí các yếu tố khác nhau và tường đá đồ sộ được làm dịu đi bằng chi tiết trang trí rất nhỏ. Vì thế khách tham quan hoàn toàn không ngờ trước sự phong phú và phức tạp của các sơ đồ trang trí nội thất - thật khó nhận ra bất cứ một bề mặt nào không có một số hình dạng trang trí hình ảnh và ứng dụng. Phòng ngủ của Ludwig vô cùng lộng lẫy, một hiệu quả dạt được do sử dụng phong cách Gothic, với các panel bằng gỗ sồi chạm khắc và tranh vữ của A.Spiess minh họa truyền thuyết Tristan và Isolde. Phòng khách dành cho truyện thần thoại Lohengrin, Hiệp sĩ Ngỗng (Neuschwanstein có nghĩa là "Ngỗng đá mới") do Hauschild mô tả trên thảm thêu.
Hai phòng lớn nhất trong lâu đài là Phòng Ngai vàng và Phòng ca sĩ. Phòng Ngai vàng có các vòm Byzantine cầu kỳ bao quanh, đáng tiếc cho ngai vàng, đặt trong tiêu điểm của căn phòng lại không được thi công. Phòng Ca sĩ phỏng theo nguyên bản Wartburg, có phần trần nhà được nâng lên cùng với nhiều panel chèn đầy các motif trang trí theo ký hiệu hoàng đạo. Những phòng này giúp cho Ludwig xa lánh vai trò lịch sử như Lohengrin chẳng hạn, giữa cảnh quan bao quanh trong đó "trí tưởng tượng là mô hình để tạo ra thực tại" - sau đó Walt Disney thể hiện hình ảnh lâu đài nhìn từ phía Bắc làm biểu tượng của Disneyland.

Số liệu thực tế:

Diện tích: 5.935 m2
Độ cao: 965 m
Số phòng hoàn chỉnh (trong số 228 phòng trong đồ án): 15
Chi phí (lúc Ludwig mất): 6.180.047 mark


Thật không may, câu truyện của Ludwig không có hậu. Năm 1880 người ta ước tính chi phí hàng năm khoảng 900.000 mark mới hoàn tất lâu đài trong năm 1893. Vào lúc này Ludwig khởi công xây thêm 2 lâu đài khác, nhu cầu xây dựng 3 lâu dài cùng lúc đã vượt giới hạn khả năng kinh tế của ông, vì ông phải trả công xây dựng từ khoản trợ cấp bằng báu vật cho một vị vua chứ không lấy từ công quỹ. Có thể chính lý do này mà thần dân trong nước thường xem ông là một người lập dị dễ thương, nhưng chính phủ của ông ngày càng không đồng tình với hành vi ảo tưởng thấy rõ của ông, họ dàn cảnh để một ủy ban gồm các thầy thuốc chuyên khoa tâm thần (thực tế không hề khám Ludwig) tuyên bố nhà vua mắc bệnh tâm thần, để bổ nhiệm người cậu 60 tuổi của ông làm Nhiếp chính.
Ludwig vô cùng đau khổ, sau cùng phải chấp nhận thoái vị, và bị trục xuất khỏi lâu đài Neuschwanstein. Ba ngày sau, vào ngày 13/06/1886, người ta phát hiện nhà vua bị chết đuối cùng với thầy thuốc của ông trong hồ Starnberg. Trái với nguyện vọng của nhà vua, lâu đài mở cửa cho khách tham quan trong 3 tuần sau khi ông mất, tạo ra sự trớ trêu đời đời đối với Ludwig - nhà vua thích sống riêng tư nhất trong lịch sử đã biến nước Đức thành nơi thu hút nhiều du khách nhất.


Phòng Ca sĩ lấy cảm hứng theo nguyên bản ở Wartburg, đến lượt nó lại truyền cảm hứng cho tác phẩm Tannhausor của Wagner (Ảnh: rainfall)


   
Thánh đường St Mark



Thời điểm xây dựng: Từ năm 1063 - 1071
Địa điểm: Venice, Ý

Venice được xây dựng như một nơi an toàn giữa phá nước vào năm 813. Thi thể của Thánh sử Mark bị lấy cắp vì lòng ngoan đạo từ Alexandria, Ai Cập rồi mang về thành phố 828. Trước đây có một nhà thờ được xây dựng để tỏ lòng tôn kính người nhưng đã bị hỏa hoạn thiêu rụi vào năm 976. Nhà thờ hiện nay tiếp giáp với Cung điện của Doge ngày xưa, khởi công xây dựng năm 1063 và được cung hiến năm 1094.
Đây chính là một công trình độc đáo ở Tây Âu, một phần do hình dáng kiến trúc và phần khác là do sự phong phú phi thường trong trang trí vật liệu khảm. Cả hai đặc điểm là do thực tế Venice, một đế quốc thương mại được hình thành bằng sức mạnh hải quân, nhìn về phương Đông, hướng về Constantinople chứ không hướng về phương Tây. Mô hình xây dựng nhà thờ là nhà thờ Các thánh tông đồ thánh thiện xưa hơn rất nhiều của Justinian ở Constainople đã bị tàn phá sau khi Tổ Nhĩ Kỳ xâm lăng.
Giống như nhà thờ hoàng đế, nhà thờ St Mark có sơ đồ hình thánh giá Hy Lạp: 4 nhánh dài bằng nhau hình thành gian giữa nhà thờ, cánh ngang và thánh đường với các mái bát úp phía trên các nhánh và chỗ đường giao nhau. Thánh đường kết thúc trong gian nhà con bán nguyệt cuối nhà thờ và quanh gian giữa và cánh ngang, bên ngoài các mái bát úp là các lối đi. Để nâng cao, nhà thờ St Mark có 2 tầng, ban đầu có những hành lang nằm phía trên lối đi nhưng về sau tháo dỡ những hành lang này, lối đi cũng làm thành 2 tầng, mặc dù lối đi lót ván có lan can nằm ở tầng trên phía dãy liên vòm liên kết với cột. Kết quả là liên kết kiểu lồng phức hợp các khoảng không gian với các cảnh nhìn huyền bí thoáng hiện giữa các cột cẩm thạch.
Quanh gian giữa nhà thờ, ở phía Bắc, Đông và Tây, nhưng không hợp nhất vào gian giữa nhà thờ, đại sảnh La Ma một tầng phía trên che phủ bằng một loạt các mái bát úp nhỏ hơn. Vật liệu khảm trong những mái bát úp này được bố trí thành các vòng tròn đồng tâm như kể một mạch chuyện liên tục. Nhỏ về quy mô và vừa đủ chiêm ngưỡng rõ ràng, vật liệu khảm là một trong những công đoạn khiến nhiều người phải say mê so với toàn bộ nhà thờ. Sự tạo thành Chim cá là một ví dụ cho thấy óc sáng tạo phát huy ở mức vô cùng tự do.

Xây dựng
Nhà thờ St Mark thực ra xây dựng bằng gạch, nhưng mỗi bề mặt đều được ốp đá cẩm thạch hay vật liệu khảm cầu kỳ, sao cho tác dụng tổng thể là tạo ra sự phong phú cực độ. Nhìn từ góc độ kỹ thuật kết cấu, nhà thờ không mang tính cách tân, và không thể sánh với quy mô hay tính dám nghĩ dám làm của nhà thờ Hagia Sophia ở Constainople. Tầng đất chính toàn là bùn của Venice vốn không ổn định, thậm chí khi được gia cố bằng móng bè hay đóng cừ gỗ, thảm họa đang đe dọa - mối nguy cơ ngày nay biểu hiện rõ trên sàn nhà không đều.
Nhà thờ hoàn tất năm 1071 về cơ bản giống như nhà thờ ngày nay. Mặt tiền phía Tây vẫn còn nguyên năm mái cổng sâu, xếp thành hàng với đá cẩm thạch và được các panel khảm hình bán nguyệt phủ lên, hợp với tầng trên bằng các cửa nhỏ hình bán nguyệt, chỉ có cửa nhỏ ở giữa là còn kính. Những ô cửa nhỏ này được che phủ bằng loại điểm trang trí kiểu Gothic gần đây, theo nhận xét của John Ruskin chúng giống như bọt biển.

Số liệu thực tế: Tổng chiều dài: 76m
Chiều rộng hành lang nằm ngang: 61m
Chiều rộng đại sảnh La Mã: 47m
Mái bát úp chính:
- Đường kính: 13m
- Chiều cao nội thất: 29m
- Chiều cao ngoại thất: 40m.

Trang trí
Trong hàng ngàn năm, công trình tích lũy nhiều tác phẩm nghệ thuật, một số tác phẩm như trang trí trên đá cẩm thạch và vật liệu khảm, là bộ phận không thể thiếu đối với công trình. Các tác phẩm khác như Pala d'Oro (bàn thờ vàng) và Ngựa đồng, đều tập hợp từ nơi khác.
Công trình khảm sau cùng cũng theo phong cách Byzantine nhưng là tác phẩm của thợ thủ công Ý theo truyền thống Ravenna vào thế kỷ thứ 6, hình thành một sơ đồ phức tạp giáo lý Cơ Đốc, từ sự tạo thành cho đến ngày tận thế. Công trình khảm khởi công ngay sau khi công trình xây dựng nhà thờ hoàn tất, và công đoạn khảm này tiếp tục kéo dài đến thế kỷ 12, 13. Ở tầng trệt, mặt ngoài các vách đều ốp đá cẩm thạch, phần lớn sử dụng vật liệu của La Mã cổ đại cướp đoạt từ nhiều địa điểm ở châu Âu. Ở tầng trên, nhiều đĩa màu đỏ hay xanh lục cho thấy các cột cổ điển đã được cắt lớp để tạo thành panel theo mẫu.

Từ cửa chính Tây, khách tham quan đi vào cổng vào có nhiều cột hay đại sảnh La Mã, nơi đây vật liệu khảm ở mái bát úp lấy từ kinh Cựu Ước: sự Tạo thành, Adam và Eve, sự Sa ngã, Cain, Abel, Noah và Đại hồng thủy, tháp Babel, câu truyện về Moses và Joseph và sau cùng là câu truyện về Moses và xuất Ai Cập.
Bên trong nhà thờ lấy từ kinh Tân Ước - cuộc đời của chúa Jésus, chúa chịu đóng đinh và Lễ thăng thiên, sách Tông đồ công vụ, kết thúc bằng Ngày tận thế. Đời sống của các Tông đồ, nhất là cuộc đời của thánh Mark, đều thể hiện khá chi tiết. Không phải chi tiết nào cũng làm từ thời Trung cổ. Trong thời kỳ Phục hưng, nhiều nơi trên mái vòm và vách đều được phục chế theo thiết kế của những họa sỹ hàng đầu ở Venice, trong đó có Tintoretto.

Trong số những báu vật có được từ thời Trung cổ, 2 trong những báu vật đáng kể nhất là Pala d'Oro (Bàn thờ vàng) và Ngựa đồng. Bàn thờ vàng do các họa sĩ đến từ Constainople chế tác vào năm 975 nhưng có nhiều thay đổi và bổ sung. Màn che bàn thờ có nhiều hình ảnh vẽ trên men nhiều màu sắc và được khảm đá quý. Sáu phong cảnh lớn dọc theo phần đỉnh thể hiện câu truyện Khổ nạn của chúa Jésus và cái chết của Đức mẹ Maria đồng trinh, với tổng lãnh thiên thần Michael ở giữa. Các panel khác thể hiện cuộc đời của chúa Jésus và nhiều hàng các thánh.

Ngựa đồng là một phần trong số chiến lợi phẩm do quân Thập tự cướp đoạt ở Constainople vào năm 1204 - một tình tiết đáng hổ thẹn của cuộc Thập tự chinh lần thứ 4. Tướng ngựa đồng vẫn còn sừng sững phía trên mái cổng phía Tây (hay đã đặt trên đó nhưng ngày nay mang xuống và thay bằng bản sao). Vẫn còn nhiều tranh cãi về niên đại cũng như nguồn gốc xuất xứ của những con ngựa đồng này.

Phải mất nhiều ngày mới chiêm ngưỡng tất cả kỳ công trong nhà thờ St Mark. Một số hiện nay đưa vào viện bảo tàng nằm bên ngoài cánh nang. Thật ra, toàn bộ nhà thờ đã là viện bảo tàng, nhưng là viện bảo tàng vẫn lưu giữ chức năng và ý nghĩa nguyên thủy, mang phong vị độc đáo của quá khứ, một công trình tưởng niệm khiến cho đọa lẫn đời đều cảm thấy tự hào.


 
 



 
 
Nhà hát Opéra, Paris

Thời điểm xây dựng: 1861 - 1875
Địa điểm: Paris, Pháp

Nhà hát Opéra - ngày nay đổi thành tên Palais Garnier để tỏ lòng tôn kính kiến trúc sư thiết kế nhà hát - là một trong những tòa nhà nổi bật nhất ở Paris. Lúc Napoléon III và Nam nước Haussmann quy hoạch tại thành phố năm 1852, cùng với các đại lộ thênh thang và tầm nhìn theo chiều dài thẳng tắp, họ đã đặt một giải đáp cho tòa nhà chính ở những điểm thống nhất với thiết kế tổng thể. Nhà hát Opéra nằm trên một hòn đảo là nơi hợp lưu của các con đường chính tỏa nhánh, là một điểm như thế.



Mô hình mặt cắt bóc vỏ nhà hát Opéra, trong Bảo tàng viện Orsay:
Thính phòng khiến cả công chúng lẫn người trình diễn đều ca ngợi,
lưu ý tỷ lệ ấn tượng và bố trí cầu thang lớn của Garnier ở giữa.


Việc chọn kiến trúc sư bằng cuộc đấu thầu công khai, tổ chức vào năm 1860, tiếp nhận nặc danh. Khi trọng tài ra quyết định ai là người được chọn, đúng ra chính họ cũng ngạc nhiên, hóa ra là một thanh niên hầu như không ai biết đến - Charles Garnier 33 tuổi, tốt nghiệp trường École des Beaux-Arts và Viện hàn lâm Pháp ở Rome. Anh chưa có kinh nghiệm, nhưng theo bản năng nắm được yêu cầu: Công trình phải thực hiện chức năng hữu hiệu xét theo quan điểm của khán giả lẫn người trình diễn, đồng thời thể hiện sự phong phú và thích thú ở mỗi đêm diễn trong nhà hát Opéra.

Khái niệm

Như một xuất phát điểm, Garnier chọn nhà hát được thán phục nhiều nhất ở châu Âu, Grand Théâtre ở Bordeaux của Victor Louis. Công trình Tân cổ điển nguy nga này, khởi công năm 1773, thuộc về công trình đầu tiên biến nhà hát thành một công trình tưởng niệm quan trọng của quần chúng. Khách tham quan trước tiên bước qua một sảnh lớn vào với cầu thang dẫn đến các tầng trên có ghế ngồi và tạo khoảng không gian đi lại khoảng khoát trong giờ giải lao. Thính phòng được phủ trần nhà dạng mái bát úp tựa lên một vòng tròn cột. Garnier hoàn toàn phỏng theo sơ đồ này nhưng thể hiện bằng phong cách Baroque mới, chứ không phải bằng "ngôn ngữ" Tân cổ điển.



Nhà hát Opéra nằm trên một hòn đảo là nơi hợp lưu của
các con đường chính tỏa nhánh (Ảnh: westminster)


Cầu thang của ông thậm chí lớn hơn và đầy ắp các đường cong sang trọng, càng bước lên gần đến chỗ ngồi, khán giả có cảm giác càng ấn tượng hơn với cách trang trí phong phú hơn. Tầng lan can bằng đá cẩm thạch đa sắc, cột tượng phụ nữ, cột và cầu thang tạo ra cảnh tượng làm khoái chí, nhất là lúc mỗi tầng trong số 4 tầng đều đầy ắp khán giả trong mỗi đêm diễn. Trong thính phòng, Garnier cải tiến tầm nhìn bằng cách tập trung vào các cột đỡ đứng thành từng đôi ở các góc hơn là đứng theo vòng tròn.
Tiện nghi ở hậu trường cũng được sắp xếp hợp lý, với một sân khấu tập diễn ở phía sau, tạo nét cân đối cho toàn bộ công trình. Hoàng đế được dành một lối vào riêng ở một bên (một phần vì lý do an ninh suýt bị ám sát khi bước vào nhà hát Opéra cũ), trong khi bên kia có một bảo tàng viện nho nhỏ. Vẻ đồ sộ bên ngoài của toàn bộ nhà hát quả thật mang đến sự thỏa mãn về tính hợp lý và tính thẩm mỹ.

Số liệu thực tế:

Diện tích: 11.237m2
Chiều dài: 97m
Chiều rộng (tối đa): 125m
Chiều cao (tính từ móng đàn lyre của thần Apollo); 73,6m
Cầu thang lớn: cao 30m
Thính phòng: cao 20m, sâu: 32m, rộng: 31m (tối đa), 2.200 chỗ ngồi
Chúc đài treo: 8 tấn

Trang trí nội thất
Trong nội thất, cách bố trí và vật liệu phục vụ cho các mục đích khác nhau, trong khi tác dụng toàn bộ của nỗ lực trang trí hoa mỹ tạo cảm giác mạnh trong khắp nhà hát. Trước Garnier, đá cẩm thạch và chất liệu khảm không phải là loại vật liệu quen thuộc của người dân Paris. Garnier lùng kiếm khắp châu Âu, thậm chí đào lại các mỏ đá thời xa xưa để lấy vật liệu quý ông cần. Một khi đã có đủ số đá cẩm thạch, ông thuyết phục số nghệ nhân điêu khắc của mình tái tạo hình ảnh của khẩu thần công cổ điển và các cột tượng phụ nữ và tượng bán thân, kết hợp nhiều loại đá cẩm thạch có màu sắc khác nhau trong cùng tác phẩm sao cho hiệu ứng đa sắc không bị phai nhòa theo thời gian.
Mặc dù trang trí qua nhiều, Garnier phải tiến hành thương thảo nhiều hợp đồng và nghĩ ra kỹ thuật mới để kiểm soát chi phí. Vật liệu khảm không được khảm trực tiếp bằng tay theo kiểu truyền thống mà phải sắp xếp "úp mặt" xuống giấy bồi, sau đó phủ một lớp vữa mỏng, rồi mới đặt vào trong panel.




ác phẩm điêu khắc The Dance tuyệt vời của Jean-Baptiste Carpeaux bị nhiều người xúc phạm vào thời ấy, nhưng Garnier hoàn toàn có lý khi ủng hộ điêu khắc gia của ông (Tượng ban đầu hiện nay đặt trong Viện bảo tàng Orsay).


Nghiên cứu của Garnier cho thấy chỉ có một vài bề mặt trang trí bắt được ánh sáng cần thiết để làm nổi bật màu vàng mạ, trong khi các bề mặt khác đơn giản chỉ sơn theo tông màu vàng hắt bóng. Thay vì phủ lên các tượng trang trí bằng lớp đồng đắt tiền, Garnier sử dụng quá trình điện phân cần ít vật liệu hơn nhiều.
Phần lớn tài năng của ông nằm ở việc quyết định quy mô, mặt cắt ngang, bảng màu và chủ đề ông muốn đối với một bề mặt hay tác phẩm điêu khắc, sau đó ông để cho họa sĩ ông đã tuyển được chọn ý tưởng của riêng mình. Lúc đó cả hai đều quyết định thành phần sau cùng. Trong khi Garnier lịch lãm và có sức thuyết phục, ông chỉ có một vài cơ hội và chọn những họa sỹ và phục tá có năng lực nhất, những người đã từng học cùng trường Beaux-Arts và Prix de Rome như ông. Việc ông chọn Jean Baptiste Carpeaux thực hiện tác phẩm điêu khắc mang tên The Dance chứng minh rõ khả năng tự tin của ông trong tư cách nhà thiết kế. Đề xuất sau cùng của Carpeaux tài năng và bướng bỉnh đã gạt bỏ ý tưởng ban đầu của Garnier và thậm chí còn tạo ra nhiều tai tiếng khi phát hiện, Garnier kiên quyết bảo vệ điêu khắc gia nổi tiếng và lịch sử khẳng định sức thuyết phục của ông.

Di sản của Garnier

Garnier hiểu rõ tính độc đáo và hãnh diện về điều này. Khi Nữ hoàng Eugénie phàn nàn bà không thể biết nhà hát xây dựng theo phong cách gì - "có phải theo Henri IV hay Louis XIV hay Louis XV?" - Garnier đáp lại: "Phong cách này theo Napoleon III". Nhận xét của ông phải được xem là nhận thức của chính ông, thứ nhất về tầm quan trọng của sự ủng hộ vững chắc của thân chủ ông, thứ hai về thực tế của nỗ lực tập thể của một đội ngũ gồm nhiều họa sỹ tài năng làm việc dưới sự chỉ đạo của ông.
Nhà hát không phải là một công trình kiến trúc dành cho giới tri thức trầm ngâm suy tưởng, mà là một công trình phục vụ cho sự vui nhộn và tiêu khiển. Kiến trúc như sự tiêu khiển, nhà hát Opéra là một trong những thể hiện đầu tiên một xã hội nouveau-riche đang phát triển, sự thể hiện sở thích có lẽ không được phân tích - tự tin chính mình, sẵn sàng đón nhận bất kỳ một thách thức nào. Sau ngày khánh thành hơn một thế kỷ, phép mầu của Palais Garnier vẫn còn nguyên vẹn.




Mặt tiền đa sắc ban đầu của Garnier, cải thiện đáng kể diện mạo của nhà hát Opéra.
(Ảnh: cybevasion)

--------------------------------------------------------------------------------

 
 
Biệt thự trên thác của KTS FRANK LLOYD WRIGHT


FRANK LLOYD WRIGHT - MỘT KIẾN TRÚC SƯ TÀI NĂNG, NHỮNG THIẾT KẾ CỦA ÔNG LUÔN LÀ MẪU MỰC CHO BẤT CỨ MỘT KIẾN TRÚC SƯ NÀO KHI BƯỚC VÀO NGHỀ THIẾT KẾ......NHẤT LÀ NHỮNG TÁC PHẨM BIỆT THỰ MÀ ÔNG Đã THIẾT KẾ. NHỮNG ĐƯỜNG NÉT PHÓNG KHOÁNG, BAY BỔNG MỀM MẠI NÊN THƠ MÀ CỨ NHƯ BÁM LẤY LÒNG ĐẤT VÀ MỌC LÊN TỪ ĐÓ........TRONG ENTRY NÀY, TRANNHATTHU_KTS SƯU TẦM MỘT SỐ HÌNH ẢNH VỀ NGÔI BIỆT THỰ TRÊN THÁC - MỘT TÁC PHẨM XUẤT SẮC NHẤT CỦA ÔNG........Bản kí hoạ của Right







Một trong những kiệt tác đầu tiên của Frank Lloyd Wright, biệt thự Koffmann - toà nhà trên thác ở Bearun. Thành công của toà nhà là các hiên lớn đã vượt thác, đan chéo một cách hết sức táo bạo trên mặt nước, ở bên trong nhà vẫn nghe đuợc tiếng suối reo, tiếng lá rừng và tiếng gió xào xạc vào trong nội thất....Con người - Kiến trúc - Thiên nhiên là đây.
"Kiến trúc chính là thơ, là nhạc - Kiến trúc sư chính là nhà thơ, nhà soạn nhạc là vậy"
Dù đã xem đi xem lại không biết bao lần nhưng những cảm xúc luôn còn mãi...





























   
Nhà hát Opera Sydney

Nhà hát Opera Sydney - niềm tự hào của đất nước Australia - tọa lạc trên cảng Sydney, kế bên chiếc cầu Cảng nổi tiếng, thuộc bang New South Wales. Đây là một trong những công trình đặc biệt nhất của thế kỷ 20, là một trong những khu biểu diễn nghệ thuật ấn tượng nhất thế giới.


"Những chiếc vỏ sò" nhìn từ trên cao.





Sydney Opera House - niềm kiêu hãnh của người Australia.



Tòa nhà, cùng với cảnh vật xung quanh đã tạo nên một hình ảnh tượng trưng cho đất nước Australia. Đây cũng là nơi thu hút rất nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Với một số người, hình ảnh những chiếc vỏ sò (mái của nhà hát) còn là sự tượng trưng cho những chiếc thuyền buồm qua lại tấp nập nơi đây.



Công trình thế kỷ của Australia vào buổi tối.



Nhà hát Opera Sydney kiêu hãnh bên chiếc cầu Cảng nổi tiếng.



Kế hoạch xây dựng nhà hát được khởi đầu từ những năm cuối thập kỷ 40 của thế kỷ trước khi nhu cầu về một địa điểm thật rộng để dành cho các buổi biểu diễn âm nhạc trở nên cấp bách hơn bao giờ hết. Và cuối cùng, đến năm 1954 thì kế hoạch được thông qua và chiến dịch tìm kiếm thiết kế được bắt đầu.

Một cuộc thi được phát động ngày 13/9/1955 với 233 thiết kế từ 32 quốc gia gửi đến cuộc thi. Tiêu chí được đưa ra rất cụ thể, đó phải có một hội trường lớn với 3.000 chỗ và một hội trường nhỏ hơn 1.200 chỗ. Mỗi không gian phải được thiết kế đáp ứng những mục đích sử dụng khác nhau như opera, hòa nhạc, hợp xướng, các cuộc hội họp lớn, các bài giảng, biểu diễn ballet và các buổi gặp mặt khác. Và cuối cùng, công trình của kiến trúc sư người Đan Mạch, Jorn Utzon, đã được chọn. Năm 1957, ông Utzon đã đến Sydney để bắt tay triển khai dự án.


Những viên gạch màu trắng và màu kem nhập khẩu hoàn toàn.




Phần mái lát gạch rất ấn tượng của nhà hát Opera Sydney.



Và công trình thế kỷ - Nhà hát Opera Sydney - đã chính thức khởi công tháng 3 năm 1959. Dự án được thiết kế theo ba giai đoạn. Giai đoạn 1 (từ 1959 đến 1963) gồm có phần bục của nhà hát. Giai đoạn 2 (từ 1963 đến 1967) dành cho việc xây dựng hệ thống mái hình vỏ sò bên ngoài. Giai đoạn 3 (từ 1967 đến 1973) bao gồm những phần xây dựng cơ bản khác và trang trí nội thất. Nhưng ở nhiều thời điểm, công trình đã không thể diễn ra đúng tiến độ, thậm chí chậm tới 47 tuần (vào đầu năm 1961) vì những khó khăn bất khả kháng liên quan đến thời tiết.

Nhà hát Opera Sydney mang thiết kế hiện đại, với hàng loạt những tấm bê tông đúc sẵn rất lớn hình vỏ sò tạo thành hệ mái rất đặc biệt của nhà hát. Opera House tọa lạc trên diện tích 1,8 ha, có chiều dài tổng 183 m, rộng 120 m. Theo kết cấu, công trình được cố định bởi chân móng gồm 580 tấn bê tông đào sâu 25 m dưới mực nước biển. Hệ thống điện cung cấp riêng cho nơi đây tương đương cho một thị trấn có 25.000 người. Hệ thống cáp truyền tải điện dài tới 645 km.

Phần mái của nhà hát sử dụng tới 1.056 triệu viên gạch trắng bóng và những viên gạch màu kem được sản xuất tại Thụy Điển, mặc dù nhìn từ xa, những viên gạch này đều chỉ có màu trắng. Cho dù sản phẩm có khả năng tự làm sạch, nhưng vẫn có một hệ thống bảo dưỡng và thay thế thường xuyên. Nội thất của nhà hát hầu hết đều sử dụng đá granite màu hồng lấy từ vùng Tarana (bang New South Wales), ngoài ra còn có rất nhiều gỗ tự nhiên và gỗ dán.



Phòng hòa nhạc có sức chứa 3.000 người.



Căn phòng dành cho các buổi biểu diễn Opera.



Giai đoạn làm nội thất gặp nhiều vấn đề nhất, đặc biệt từ sau khi ông Utzon đột ngột rời bỏ công trình, tháng 2/1963, vì có một vài bất đồng với Chính phủ mới của Australia. Ông ra đi một cách cương quyết, thậm chí ngay sau đó còn đóng cửa văn phòng để đi du lịch và không liên hệ với bất kỳ ai. Trước khi làm Nhà hát Opera tại Sydney, Utzon đã thắng 7 trong số 18 các dự án mà ông tham gia đấu thầu, nhưng như đã trở thành một thói quen, chưa một lần, ông được nhìn thấy công trình của mình hoàn thiện. Và lần này cũng vậy.




Studio của Nhà hát Sydney Opera.



Một trong những căn phòng mang đậm dấu ấn của KTS Jorn Utzon.

Nhiều thay đổi về thiết kế đã được thực hiện, nhất là phần nội thất. Ban đầu chỉ có 2 khán phòng lớn, nhưng cuối cùng thiết kế đã bổ sung thêm 2. Các thiết kế cho sân khấu, chỗ ngồi, hành lang... cũng được yêu cầu làm lại. Rất nhiều các hạng mục mới cũng được bổ sung, và tất nhiên, chi phí bị "đội" lên tới mức không thể tin nổi, tổng cộng khoảng 102 triệu USD, trong khi tính toán ban đầu (năm 1957) chỉ là 7 triệu USD. Cũng vì sự cố Utzon mà công trình hoàn thiện chậm 10 năm - 1973 - thay vì đúng vào ngày quốc khánh 26/1/1963. Buổi lễ khánh thành được tổ chức rất "hoành tráng" với sự có mặt của Nữ hoàng Anh, Elizabeth II, hàng triệu người tham dự, được truyền hình trực tiếp, pháo hoa tưng bừng trên nền nhạc bản giao hưởng số 9 của Beethoven.

Theo Dothi.net





Một số hình ảnh khác của nhà hát opera Sydney





















 
 
Bảo tàng viện Guggenheim, Bilbao
Thời điểm xây dựng: 1991 - 1997
Địa điểm: Bilbao, Tây Ban Nha
Tương phản với việc tạo ra hình thức hợp lý vốn thịnh hành trong công trình kiến trúc phương Tây trong nhiều thế kỷ, bảo tàng viện Guggenhim ở Bibao là kết quả của sự tìm kiếm hình dáng trực quan. Sự kết hợp giữa trực giác với quá trình thiết kế, sản xuất và lắp ráp do máy vi tính kiểm soát đã tạo cho công trình một thành tựu kỹ thuật sáng chói và chứng minh khả năng phong phú của máy vi tính trong thay đổi thiết kế và thi công.



Bảo tàng viện Guggenheim Bilbao mang tính chất bối cảnh lẫn xa lạ.
Công trình điều chỉnh khéo léo với hình thể gay go của địa điểm xây dựng,
tuy nhiên thể tích bao phủ bằng titanium dâng lên cuồn cuộn thì lại không quen thuộc.



Cuộc thi thiết kế Bảo tàng viện Guggenheim, Bilbao với giải thưởng dành cho kiến trúc sư người Los Angeles, Frank O. Gehry. Gehry nổi bật trong thập niên 1980, ban đầu là một loạt các ngôi nhà rất gợi cảm ở California thách thức quy ước ánh sáng, thi công khung gỗ, và sau đó là những công trình công cộng rộng lớn như Trường nghệ thuật Toledo (1989), và đồ án xây dựng Phòng hòa nhạc Disney ở Los Angeles (1989).
Gehry nhận giải Pritzker rất có uy tín trên thế giới năm 1989. Đặt hàng thiết kế một viện bảo tàng vệ tinh cho Guggenheim đặt ở Manhattan trong một công trình nổi tiếng do Frank Lloyd Wright thết kế, là một trong những công trình nghệ thuật đương đại nổi bật - rất lý tưởng đối với kiến trúc sư này vốn thợp tác mật thiết với cả họa sĩ và ngôn ngữ chính thức của riêng họ mang đậm nét công trình điêu khắc.

Bảo thàng viện Guggenheim cùng với những công trình tiện nghi văn hóa mới và hệ thống giao thông công cộng được cải thiện là thành phần quan trọng trong kế hoạch chiến lược để tái tạo thành phố Bilbao. Địa điểm nổi bật, nhưng gay go của viện bảo tàng nằm bên bờ sông Nervion bao quanh là các bãi chứa con-tainer, tuyến đường sắt và đường dốc dẫn lên cầu nâng cao.



Máy tính là yêu tố cần thiết để biến đổi các mô hình cụ thể thành mô hình kỹ thuật số với các bề mặt uốn cong liên tục, sau đó chuyển dữ liệu kỹ thuật số này thành bản vẽ sản xuất và dữ liệu phay kiểm soát số lượng bằng vi tính.

Lập mô hình bằng máy vi tính

Trong khi cấu hình chính thứ của công trình ban đầu phát triển trực giác qua một loạt các mô hinh bằng giấy bồi cắt tay, thô, chính máy vi tính giúp cho sơ đồ mang tính khả thi một cách rất tinh tế và kỹ thuật. Gehry là kiến trúc sư đầu tiên khám phá tiềm năng của phần mềm CATIA - do ngành công nghiệp hàng không vũ trụ của Pháp phát triển. Không như các phần mềm kiến trúc khác, CATIA dựa trên bề mặt hơn là các hình đa giác. Đối với Bilbao, các mô hình giấy bồi của Gehry được số hóa để tạo ra mô hình mặt phẳng uốn cong liên tục ở CATIA. Từ mô hình vi tính này, các bề mặt kiểm soát bên trong và bên ngoài này được nhận dạng sẽ được áp dụng như việc thiết kế các điểm xây dựng.

Số liệu thực tế:

Kết cấu: khung thép giằng
Lớp vỏ bao: Titanium, đá và kính
Diện tích: 24.628m2
Kinh phí: 10.859 triệu peseta (59.205.000$)

Hai lớp kiến trúc hạ tầng xây dựng từ kết cấu thép cơ bản.

Nổi lên từ những bề mặt kiểm soát này, xây dựng một vùng kết cấu. Khung thép giằng, gồm các mặt cắt liên kết kiểu bích mép rộng nằm trên một kết cấu mắt lưới 3m, rất dễ thực hiện. Hầu hết thành phần là những mặt cắt thẳng, và tính co dãn của hình dáng chung đạt được hoàn toàn bằng các mối nối. Giữa khung nhiều mặt của thép sơ cấp và các bề mặt kiểm soát là hai lớp cấu trúc thứ cấp, bên trong và bên ngoài. Các thang nằm ngang làm bằng ống thép, đường kính 60mm tọa ra độ cong theo phương nằm ngang.


Thang là những khung chẻ giạng ra ở cấu trúc sơ cấp ở những cách quãng 3m và kết nối kết cấu với mối nối thông dụng, để điều chỉnh ở mọi hướng. Độ cong theo chiều thẳng đứng được xác định bằng các lớp trong cùng và ngoài cùng của kết cấu thứ cấp, với các khung bằng thép định hình nhẹ uốn nguội ở các điểm 60mm. Tất cả ống và thanh thép đều uốn cong theo một hay nhiều chiều.

Trong khi CATIA có thể định vị và tính kích thước của mỗi thành phần cấu trúc thật chính xác, thì mô hình máy tính vẫn còn là bản vẽ đường khung thép. BOCAD, phần mềm thích hợp phát triển cho thi công cầu đường, sử dụng để chuyển khung thép CATIA thành một mô hình vi tính 3 chiều của kết cấu thép. Từ mô hình này, BOCAD tự động tạo ra bản vẽ sản xuất hai chiều hay dữ liệu phay kiểm soát số lượng bằng vi tính (CNC).

Vì các đầu cắt độc đáo, hai mảnh thép khác trong công trình đều như nhau. Thế nhưng, khi sử dụng BOCAD, kết cấu sơ cấp được sản xuất chính xác đến mức nhu cầu đo đạc thực địa, cắt và hàn hầu như bị loại trừ. Áp dụng thông lệ thi công từ ngành công nghiệp hàng không vũ trụ thêm lần nữa, mỗi thành phần kết cấu đều mã hóa bằng chỉ số mã vạch trong khi sản xuất. Trên công trường, chỉ số mã vạch được quét bằng thiết bị quan sát laser nối kết với CATIA để cho mỗi bộ phận lắp đặt vào đúng vị trí, xác định bằng tọa độ trong mô hình máy tính. Phương pháp này giúp tránh được sự chồng chất các dung sai, hay giới hạn sai sót, và đảm bảo sự chính xác cần thiết để thực hiện những hình học phức tạp.


Trái với lớp bao phủ bằng kim loại mềm và các bề mặt bằng đá uôn cong bằng kỹ thuật phay CNC, kính ở Guggenheim phẳng và các đường cong phức tạp theo ý muốn gần giống như các lắp ráp nhiều mặt.

Lớp bao phủ

Thế nhưng mô hình vi tính hoàn toàn loại trừ nhu cầu dữ liệu thực nghiệm. Trong quá trình phát triển thiết kế, mô hình kích thước thật sử dụng để khẳng định giới hạn mà tấm kim loại có thể chịu dựng ở một độ cong nhất định nhưng không oằn, và số dung sai chính xác trong mối nối.
Phần mềm sử dụng để hợp lý hóa các bề mặt của công trình để phù hợp với độ cong tối đa của lớp phủ bằng tấm titanium, hình thành từ các mô hình bằng kích thước thật.

CATIA sau đó được sử dụng để hợp lý hóa các bề mặt kim loại của công trình để phù hợp với các thông số do mô hình tạo ra.

Lớp bao phủ công trình ở Bilbao chỉ có 4 tấm panel tiêu chuẩn và phẳng có kích thước cần bao phủ 80% diện tích bề mặt của lớp vỏ kim loại. Trong khi lớp dưới mạ kẽm căng tuyệt đối, thì gối sơ sài ở bề mặt bên ngoài của lớp vỏ titanium được triển khai có chủ ý để làm dịu bớt diện mạo công trình. Trái lại, tất cả số kính trong công trình đều phẳng và bởi lẽ kính không bị oằn, nên các bề mặt phức tạp có được qua tam giác đạc của các panel hơn là uốn dầm. Do đó, gần 70% các panel lắp kính đều có kích thước đồng nhất.

Mặc dù kết cấu và lớp bao phủ công trình ở Bilbao có thể sản xuất bằng cách sử dụng các máy CNC kết nối với dữ liệu CATIA, hầu hết các nhà thầu phụ đều chọn lọc thay vì sản xuất bằng tay từ nguồn nhân lực có tay nghề cao của mình. Lớp bao phủ đá là thành phần duy nhất trong công trình được cắt bằng robot, một quá trình sản xuất bằng kỹ thuật tinh vi, diễn ra ngay công trường chứ không phải trong các phân xưởng. Trong khi các kiến trúc sư nghĩ khâu cắt đá tiến hành trong xưởng và chở đến công trường ở dạng thành phẩm, thì nhà thầu phụ lắp đặt máy phay ngay công trường.


Phần mềm sử dụng để hợp lý hóa các bề mặt của công trình để phù hợp với độ cong tối đa của lớp phủ bằng tấm titanium, hình thành từ các mô hình bằng kích thước thật.
Khi bảo tàng viện Guggenheim khánh thành vào năm 1997, ngay lập tức trở thành tâm điểm chú ý của thế giới. Bằng cách áp dụng công nghệ của nhiều ngành kỹ thuật khác vào thi công, Bilbao vượt quá giới hạn của những gì trước đây được hiểu là có thể về thẩm mỹ lẫn kỹ thuật. Và bằng cách biến điều phức tạp và độc đáo trở thành kinh tế và sản xuất hàng loạt, thì máy tính phá vỡ quy ước sản xuất công nghiệp, tạo ra tiềm năng cho một công trình kiến trúc nhấn mạnh đến kỹ năng trong thế giới hậu công nghiệp thêm một lần nữa.


Bảo tàng viện Guggenheim, Bilbao

Theo Khoahoc.com

Một số hình ảnh về bảo tàng Guggenheim, Bilbao


















 
 
Toà nhà của BMW
Thành phố Munich từ trước tới nay vẫn được coi thánh đường của BMW, thương hiệu xe hơi đáng mơ ước của nhiều người. Trong nỗ lực thể hiện đẳng cấp và khẳng định danh tiếng của mình, BMW đã quy hoạch lại khu quần thể BMW cạnh sân vận động Olympic nổi tiếng. Cuối năm 2007, thế giới BMW – BMW Welt, một showroom trưng bày và giới thiệu sản phẩm hoành tráng đã được khánh thành bên cạnh nhà máy và bảo tàng mới của BMW. Đây phải chăng là câu trả lời của BMW với “đồng hương” Mercedes Benz về toà bảo tàng lộng lẫy của Mercedes Benz được thành lập tại Stuttgart một năm trước đây?


“Khi vẻ tráng lệ của BMW Welt hiện ra trước mắt, ngay lập tức trong tôi nhen nhóm lên niềm tin mãnh liệt vào nghệ thuật kiến trúc của tương lai” đó là lời nhận xét của phóng viên Nicolai Oursoussoff - Thời báo NewYork - khi lần đầu tiên tới thăm BMW Welt. Đặt cạnh khu nhà máy đồ sộ và toà tháp văn phòng được xây dựng từ những năm 1970, BMW Welt như đang kết nối lại những mảnh vỡ của ngành công nghiệp ô tô thời kỳ hậu chiến, khoác thêm vào đó nhiều cảm xúc và dệt lên một bức tranh lộng lẫy. Với kiến trúc bằng thép uốn lượn mềm mại mang vẻ kỳ ảo của thuỷ ngân lỏng, toà nhà BMW Welt dường như đã đạt tới cảnh giới gần nhất với thuật giả kim.


Với BMW Welt, hãng BMW dường như đã phá tan “giải phân cách” giữa thiết kế ô tô và kiến trúc. Toà nhà BMW Welt với thiết kế năng động của tương lai có lẽ mang đầy đủ tinh thần và phong cách của BMW. Được thiết kế bởi kiến trúc sư tài ba Wolf Prix của công ty kiến trúc theo trường phái thành Viên Coop Himmelb(l)au, BMW Welt (có nghĩa là BMW World) đã gia nhập danh sách các công trình kiến trúc hoành tráng bậc nhất của các hãng xe hơi Đức trong những năm gần đây cùng với nhà máy Zaha Hadid cũng của BMW và bảo tàng của hãng Mercedes-Benz tại Stuttgart.

Dù được thiết kế với mục đích khơi dậy niềm đam mê đối với những tuyệt phẩm xe hơi hay để khẳng định đẳng cấp qua những nét tinh tế của nghệ thuật kiến trúc, các hãng sản xuất ô tô đang có xu hướng xây dựng những toà nhà mang thương hiệu của hãng mình với sự kết hợp giữa những tinh hoa trong nghệ thuật kiến trúc với những thử nghiệm mang tính thực tế. Trong số những công trình kiến trúc nổi tiếng của Đức mới được xây dựng gần đây, BMW Welt chính là thực tế hiển nhiên của của nỗ lực “nâng tầm” thương hiệu đồng thời cũng là một kỳ quan kiến trúc.

Dọc đại sảnh của BMW Welt là các nhà hàng, quầy cafe, cửa hiệu phục vụ các khách hàng tới xem và mua các sản phẩm của BMW. Các khách hàng tới tham quan phòng trưng bày chính để chọn lựa mẫu xe mình ưa thích luôn được mời thưởng thức những cốc cappuccino hấp dẫn và được hướng dẫn tới các quầy nhỏ để thử nghiệm các tính năng của xe qua các mô hình.

Đi xuống một cầu thang lớn, khách hàng sẽ tới khu trưng bày với hàng dãy xe BMW. Tại đây, các mẫu xe BMW đủ loại được trưng bày trên các bục với ánh đèn chiếu rực rỡ. Trong vương quốc BMW Welt, bạn có thể tìm hiểu, khám phá các tính năng ưu việt của từng sản phẩm và đặt riêng cho mình một chiếc BMW theo ý muốn của bạn. Từ model, kiểu dáng, màu sắc xe, loại và màu da ghế ngồi tới các tính năng an toàn, tất cả đều có thể được lựa chọn với máy tính và phần mềm đặc biệt tại BMW Welt.


Một điểm đặc biệt nữa của Thế giới BMW là trong toà nhà có bố trí các đường chạy thử xe để khách hàng có thể thoải mái tự trải nghiệm và tận hưởng cảm giác thoải mái khi ngồi sau vô lăng của một sản phẩm mang thương hiệu BMW. Tại đây, khách hàng còn có thể khám phá nguyên lý hoạt động của hệ thống Xdrive nổi tiếng của BMW, hoặc tìm hiểu quy trình sản xuất một chiếc xe.

Nếu những tiện ích trên chỉ mang đến cho bạn ấn tượng về một showroom trưng bày và giới thiệu sản phẩm thông thường thì kiến trúc của toà nhà sẽ làm hài lòng cả những người khó tính nhất. Đó chính là đẳng cấp BMW, nơi những đường nét kiến trúc hoà quyện với từng nét thiết kế giàu cảm xúc của các mẫu xe được trưng bày nơi đây. Toà nhà toạ lạc tại vị trí giao nhau giữa những đường phố đông đúc bên ngoài khuôn viên sân vận động Olympic, gần trung tâm thành phố. Phía đông toà nhà là trụ sở chính của hãng BMW được thiết kế bởi giáo sư Karl Schwanze, người đã từng dìu dắt kiến trúc sư Prix.

Vẻ lộng lẫy của toà nhà BMW Welt không quay lưng lại với thế giới này mà tô điểm thêm cho nó. Các kiến trúc sư thành Viên đã dày công lựa chọn những sợi dây đáng được lưu giữ và bảo tồn của lịch sử đương đại để dệt nên một tượng đài chân thực, sống động của nền văn minh hiện đại.

Nhằm mục đích nhấn mạnh cảm hứng về một huyền thoại, đại sảnh chính được thiết kế thành hình vòng cung để không gian hiển hiện dần dần theo những bước đi của khách hàng. Một đường dốc tự động hình xoắn ốc nối liền showroom chính với đường phố. Điểm kết nối những khoảng không khoáng đạt trong toà nhà chính là dòng người và xe trên khắp các tầng. Những khách hàng mới mua xe khoan khoái ngồi sau vô lăng chiếc xe mới bóng nhoáng của mình thong thả xuống phố từ đường dốc tự đồng trước hàng trăm con mắt hiếu kỳ của những người khách bộ hành trên phố. Những dòng chảy này đã tạo sự liên kết vô hình giữa người và xe, giữa thế giới BMW và thế giới bên ngoài.




Lấy cảm hứng từ một công trình tôn giáo thời cổ đại là đền Acropolis, kiến trúc sư danh tiếng người Áo Wolf Prix đã thiết kế nên một thánh đường duy nhất trên thế giới, xứng tầm với thương hiệu BMW.







theo autonet.com.vn

 
 
Tháp Eiffel - Niềm tự hào của người Pháp -


Hơn một trăm năm nay hình ảnh nước Pháp và Thủ đô Paris gắn liền với tháp Eiffel. Người ta không thể hình dung Paris mà lại không có tháp Eiffel.

Được xây dựng năm 1889, để phục vụ triển lãm quốc tế, tháp Eiffel là kỳ đài đã gây ra nhiều tranh luận nhất ở Paris. Không một người dân Paris nào sống vào cuối thế kỷ XIX lại có thể thờ ơ với sự xuất hiện của tháp Eiffel.

Năm 1889, nước Pháp dự định tổ chức triển lãm để kỷ niệm 100 năm Cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1889), qua đó muốn tự khẳng định mình là một cường quốc công nghiệp đồng thời thể hiện tính táo bạo của người Pháp dám khởi đầu một cuộc cách mạng mới trong lịch sử ngành kiến trúc Pháp với việc sử dụng các vật liệu xây dựng sắt, thép, gang... Làm như vậy nước Pháp là người bắt đầu một kỷ nguyên công nghiệp với nền văn minh duy vật lấy máy móc, sắt thép làm biểu tượng.

Thực hiện ý tưởng trên, nước Pháp cho phép xây dựng một tháp bằng sắt, tháp cao 300m ở Quảng trường Tháng Ba (Champ de Mars) bên bờ sông Seine. Trong số 700 đề án thiết kế được gửi đến người ta chỉ giữ lại 3 đề án để xem xét. Cuối cùng đề án của Gustave Eiffel 36 tuổi, kỹ sư, nhà thầu khoán và nhà doanh nghiệp tài ba đã được chấp thuận. Ông đã mua lại và sửa đổi, hiệu chỉnh lại phác thảo của hai kỹ sư Kơslanh và Nughiê là nhân viên trong hãng của ông. Cả cơ nghiệp của cải của mình Eiffel dồn hết vào việc xây dựng một công trình đồ sộ đầy khó khăn, thêm nữa còn vấp phải sự không đồng tình của dư luận. Ý tưởng của Eiffel muốn dựng lên một tháp cao hơn 300 mét bằng sắt thép đã gây tranh luận gay gắt giữa những người muốn duy trì truyền thống và những người có xu hướng tân thời. Trong giới nghệ thuật và văn học, đa số giận dữ vì họ e rằng công trình đồ sọ sắt thép này sẽ là một vết đen trên bầu trời Paris. Trong khi đó thì Eiffel thốt lên hào hứng: Nước Pháp là quốc gia duy nhất có cột cờ cao hơn 300m. Thật vậy, vào thời kỳ đó, tượng đài cao nhất ở Washington cũng còn thấp hơn tháp Eiffel đến 125m.


Ông Gustave Eiffel

Tháp Eiffel được xây dựng trong vòng 25 tháng. Rất nhiều người Paris đến xem xây dựng công trình kỳ quái này, và luôn luôn nghi ngại rằng có một ngày nào đó tháp này có thể đổ xuống đầu họ. Từ năm 1887 đến năm 1889 đã có 300 công nhân giỏi leo trèo lắp ráp 1 triệu rưởi đinh rivê. Đáy tháp chiếm một diện tích 129m. Với chiều cao 300 mét, Tháp được chia thành ba tầng: Từ đỉnh tháp tầm nhìn xa đến 67km. Cứ bảy năm lại phải dùng đến 50 tấn sơn và 40 nghìn giờ lao động để sơn lại tháp.

Khi khởi công xây dựng tháp Eiffel, người ta chỉ cho phép tháp tồn tại trong 20 năm. Năm 1887, nhiều nghệ sĩ và nhà văn đã thảo bản kiến nghị "Phản đối ba trăm" nhằm ngăn chặn việc xây dựng tháp vì nó sẽ làm mất danh giá Paris. Năm 1910, thời cuộc hoàn toàn thay đổi: tháp Eiffel trở thành nguồn cảm hứng của nhiều nhà thơ, nghệ sĩ. Nhà văn Cocteau đã sáng tác vở kịch lấy tên là "Các cặp tân hôn tháp Eiffel". Apollinaire lấy tháp làm biểu tượng cho nhiều bài thơ. Pissarro; Dufy; Utrillo và bao nhiêu họa sĩ khác cũng thường vẽ tháp trên nền trời Paris... Bên cạnh đó kỹ thuật hiện đại tiến triển nhanh và ngay từ năm 1904 người ta đã đặt lên đỉnh tháp một hệ thống ăng ten. Cuối cùng đến năm 1910, người ta quyết định rằng tháp Eiffel tồn tại vĩnh viễn: Tháp phục vụ cho dịch vụ giờ chuẩn quốc tế, với chiều cao của nó, tháp cso thể sử dụng cho việc truyền thông bằng điện thoại vô tuyến vượt đại châu. Năm 1918, Đài phát thanh sử dụng tháp để phát sóng và đến năm 1957, Đài truyền hình đã dựng ăngten lên đỉnh tháp. Sau đó, một phòng thí nghiệm về khí tượng và hàng không cũng đã sử dụng tầng cao nhất của tháp.




Edouard (Eđuác VII) hồi đó là Hoàng tử xứ Galles (Galơ) cùng với gia đình là những người đầu tiên lên đỉnh tháp ngày 10 tháng 6 năm 1889. Người ta có thể lên bằng thang máy hoặc cầu thang (cầu thang chỉ lên được đến tầng 1 và tầng 2), công chúng có thể lên dạo ngắm và tham quan trên sân thượng của cả ba tầng: Ở tầng một qua thiết bị nghe nhìn du khách sẽ được nghe giới thiệu về lịch sử của tháp, ở tầng hai có nhà hàng biểu diễn phục vụ ăn uống vào buổi tối; tầng ba được che kính, du khách có thể ngắm nhìn phong cảnh mọi phía và xem hệ thống cầu thang máy phía cột cờ phía Tây. Ở tầng ba có cửa hàng Jules Verne (Giuylơ Vécnơ) nổi tiếng nhất của tháp, đặc biệt ở chỗ dùng khăn ăn màu xám, đĩa đen, cốc đen chân, hoa hồng đen để trên bàn.

Để ngắm nhìn toàn cảnh Paris, khách tham quan nên chọn ngày nắng đẹp, không nên lên tháp quá sớm vì buổi sáng ở Paris thường có sương mù. Buổi chiều lúc Mặt trời lặn, hoặc ban đêm lên tháp khách tham quan sẽ thấy một cảnh tượng tuyệt vời. Từ năm 1985, tháp được lắp thêm một hệ thống chiếu sáng làm nổi bật vẻ đẹp và những đường nét kiến trúc phức tạp của tháp.

Tháp Eiffel là biểu tượng của nước Pháp và Paris. Ngoài ý nghĩa cách mạng khoa học, kỹ thuật. Tháp Eiffel còn là biểu tượng cách mạng về phương diện chính trị, là niềm tự hào của người dân Pháp và Paris.




Theo Khoahoc.com.vn

Một số hình ảnh về tháp Eiffel


Các kích thước cơ bản




















 
 











 
 

Theo BBC



           Họ cười vì tôi không giống họ.Tôi cười vì họ quá giống nhau.
-----Be Yourself-----

 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024