Chào các bác, em là lính mới tập tọe thôi ạ, không phải hạng cao siêu gì. Em thấy đa số anh em khi mua máy Canon EOS xxxD đều thuộc diện lần đầu được sờ đến dòng máy ảnh DSLR. Nên em mạo muội lập topic này để các ACE những người đã cầm máy được một thời gian, tranh thủ chút thì giờ, vào chia sẻ các kinh nghiệm sử dụng máy thì có lẽ sẽ giúp cho các bạn đi sau đỡ tốn thời gian hơn thời gian cho việc làm quen với máy mà tập trung vào việc nâng cao khả năng sáng tác ảnh.
Em xin mở đầu với Cân bằng trắng
I. Cân bằng trắng
Mỗi loại nguồn sáng đều phát ra một màu sắc khác nhau, ví dụ như với mỗi loại nguồn sáng như nến, mặt trời, đèn huỳnh quang đều phát ra các loại màu sắc khác nhau. Và người ta thường gọi đó là „màu ánh sáng“ hay „nhiệt độ màu“ với độ đo là Kelvin (K).
Khi chúng ta nói đến „ánh sáng ấm“ hay „ánh sáng lạnh“ thì có nghĩa chúng ta đang chỉ đến một nhiệt độ màu nhất định nào đó. Các nguồn sáng cho ánh sáng ấm như ánh sáng của nến hay bóng đèn tròn thường rơi vào dải màu từ đỏ đến vàng, và ánh sáng lạnh thường rơi vào màu xanh nước biển đến xanh lá cây (blue-green).
Thông thường, chúng ta khó phân biệt được màu của ánh sáng do sự điều chỉnh của mắt.
Và máy ảnh sẽ dựa vào cân bằng trắng để điều chỉnh với mục đích màu sắc của các đối tượng luôn đúng với màu trong thực tế.
Với máy 500D thì khi thiết lập chức năng cân bằng trắng là AWB (Automatic White Balance) thì máy sẽ tự động tính toán nhiệt độ màu và đưa ra một thông số phù hợp.
Tuy nhiên trong một số điều kiện ánh sáng, AWB không cho ra tính toán đúng, và kết quả là hình ảnh chúng ta thu được không cho màu đúng với thực tế. Do đó chúng ta chọn một trong các tùy chọn và 500D cung cấp:
(Ai bảo 500D không chỉnh được với nhiệt độ K nào, từ 3000K đến 7000K nhé, ka ka)
II. Tùy chỉnh cân bằng trắng
Thông thường thì chúng ta chỉ cần chế độ cân bằng trắng tự động AWB hoặc các chế độ khác có sẵn trên máy là được. Tuy nhiên với một số trường hợp đặc biệt thì các chế độ trên vẫn không cho ra màu đúng với thực tế.
Để khắc phục điểm trên, chúng ta dùng đến Custom WB.
Để tùy chỉnh cân bằng trắng, chúng ta cần một tấm card màu xám (gray) giống như tấm thẻ của vnphoto tặng cho member nhân dịp sinh nhật lần thứ 6 (mà em không có vì không biết).
Đặt tấm card vào nơi mà ánh sáng trùng với ánh sáng mà bạn sẽ chụp ảnh.
1. Chọn một trong các chế độ sau: P, Tv, Av, M, or A-DEP
2. Đặt chế độ cân bằng trắng là tự động (AWB)
3. Đặt chế độ lấy nét bằng tay, và lấy nét vào tấm card
4. Điều chỉnh để cho tấm card nằm trong vùng trung tâm của ảnh (ít nhất phải nằm trong điểm lấy nét trung tâm và 6 điểm lấy nét xung quanh)
5. Đảm bảo độ sáng của ảnh là chính xác (không quá sáng hay quá tối). Tốt nhất chụp ở chế độ P cho nó lành.
6. Nhấn nút chụp để lưu lại bức ảnh (Bức ảnh này dùng để cân bằng trắng)
7. Mở menu số 2 và chọn Custom WB như trong hình ở dưới
8. Nhấn nút Set, chúng ta sẽ thấy hình chúng ta vừa chụp nằm ở phía bên phải, nếu không phải hình mà chúng ta muốn dung để cân bằng trắng, nhấn nút trái hoặc phải để chọn ảnh đúng (giống như khi duyệt ảnh)
9. Nhấn Set để xác nhận ảnh được chọn sẽ dùng để cân bằng trắng
10. Chọn OK -> Set và Set thêm lần nữa để hoàn tất
Bài này dựa theo cuốn Rebel T1i_500D for Dummies
Đọc thông tin bức ảnh từ Histograms
Giới thiệu
Histograms là một trong các công cụ hữu dụng nhất của nhiếp ảnh kỹ thuật số. Bài viết này sẽ trình bày những thông tin mà histograms có thể mang đến cho người chụp ảnh và làm thế nào để sử dụng các thông tin một cách có hiệu quả. Hầu hết các máy ảnh kỹ thuật số từ P&S đến DSLR đều có chức năng hiển thị biểu đồ Histograms trực tiếp trên màn hình LCD, và thường là hiển thị bên cạnh bức ảnh vừa mới chụp.
Biểu đồ này cho thấy sự phân phối gần như là hoàn hảo của bốn cấp độ ánh sáng, từ tông màu tối phía bên trái đến một đoạn ngắn của tông màu sáng phía bên phải. Điều này phù hợp với hầu hết các chíp cảm biến của máy ảnh kỹ thuật số.
Khi chụp một card đo sáng màu xám (18% gray) histograms sẽ sẽ đưa ra một biểu đồ có đa số giá trị tập trung ở trung tâm.
Histogram của các bức ảnh không nói lên rằng đây là một bức ảnh hoàn hoản, mà đơn giản chỉ là thể hiện sự phân bố của các tông ánh sáng trong phạm vi chíp cảm biến có thể thu nhận được.
Dải ánh sáng
Các chíp cảm biến (Sensor) có khả năng ghi nhận ánh sáng trong một phạm vi nhất định, nếu ánh sáng quá ít thì ảnh sẽ bị đen hoặc ngược lại nếu ánh sáng quá nhiều thì ảnh sẽ toàn là màu trắng (ảnh bị cháy). Một bức ảnh có thể xem được các chủ thể xuất hiện trong đó nếu ánh sáng rơi vào trong phạm vi khoảng 5 f-stop (5 mức độ sáng). Trong thực tế, mắt của chúng ta có thể quan sát trong khoảng 10 f-stop từ mức độ ánh sáng thấp nhất đến ánh sáng cao nhất mà bạn còn có thể nhìn thấy.
Trong một hình chụp ở chế độ 8 bit, có 256 cấp độ sáng, từ màu đen(0) và trắng(255), màu xám có giá trị vào khoảng 128, nằm giữa giá trị đen và trắng. Từ đó có thể thấy, để chụp một bức ảnh để mọi người có thể „nhìn thấy“ các chủ thể trong bức ảnh như người, cây cối, núi non,... thì các chủ thể này phải có mức sáng nằm trong phạm vi này. Tại sao tại sao lại như vậy?
Bởi vì nếu một chủ thể có mức ánh sáng quá thấp hoặc quá cao thì sẽ dẫn đến khả năng ánh sáng đó nằm bên ngoài khả năng cảm ứng chíp cảm biến, nếu gần với 0 (quá đen) thì sẽ không có hình ảnh hoặc rất tối và nhiễu (noise), và nếu gần với 255 (quá sáng) thì sẽ không có gì ngoài một màu trắng.
Histogram
Histogram là một đồ thị đơn giản, thể hiện các cấp độ sáng tìm thấy trong ảnh, từ tối nhất đến sáng nhất. Những giá trị này được vẽ trên đồ thị từ trái (tối nhất) sang phải (sáng nhất). Các trục dọc (chiều cao của các điểm trên biểu đồ) cho thấy có bao nhiêu hình ảnh được tìm thấy ở mỗi cấp độ sáng.
Lưu ý rằng, các máy ảnh kỹ thuật số hiện tại có thể ghi lại hình ảnh ở năm mức sáng (5 f-stop): Rất tối/Tối/Trung bình/Sáng/Rất sáng. Ở mỗi mức sáng (f-stop) có khoảng hơn 50 cấp độ sáng khác nhau.
Màn hình LCD ở trên hiển thị histogram của một hình đã chụp, nó nói lên rằng hầu hết các chủ thể trong ảnh đều nằm trong bóng tối hoặc quá sáng, có một ít thuộc mức sáng trung bình.
Như vậy histogram cho chúng ta biết một ít thông tin về ánh sáng của bức ảnh, giống như đồng hồ cho chúng ta biết bây giờ là mấy giờ, ngay cả khi chúng ta không biết giá trị chính xác của các con số ghi trên mặt đồng hồ, tương tự như vậy, khi bạn „đọc“ histogram thành thạo, bạn có thể đánh giá chất lượng ánh sáng của bức ảnh ngay khi nhìn vào histogram. Điều này đặc biệt đúng khi histogram xuất hiện ngay bên cạnh bức ảnh, nó làm cho histogram mang nhiều ý nghĩa hơn.
Ví dụ
Như đã đề cập ở phía trên, ngoại trừ histogram cho thấy ảnh quá tối hoặc quá sáng, còn lại trong thực tế không có histogram „tồi“, cũng như không có histogram „tốt“. Histogram đơn giản chỉ là một cách trình bày thông tin ánh sáng của bức ảnh, và dựa vào đó bạn có những lựa chọn cho những bức ảnh tiếp theo. Sau đây là một vài ví dụ.
Ở đây chúng ta thấy có 2 bức ảnh chụp ở cùng độ mở ống kính là f/9 và tấm bên trái chụp với tốc độ 1/2000s và tấm bên phải chụp với tốc độ 1/200s. Histogram của tấm bên trái có các giá trị tập trung vào khoảng tối (thiếu sáng) và tấm bên phải tập trung vào khoảng sáng (dư sáng). Trong thực tế của cảnh này, ánh sáng nằm trong khoảng 8 bước sáng (8 mức độ sáng hay 8 f-stop), trong khi các máy ảnh hiện nay chỉ có thể ghi nhận trong phạm vi 5 f-stop, vì vậy với cảnh này bạn có các lựa chọn sau:
-
Sử dụng flash để tăng ánh sáng vùng tiền cảnh
-
Sử dụng kính lọc 2 phần (một nửa sáng, một nửa tối)
-
Chụp nhiều bức ảnh ở nhiều mức sáng khác nhau và ghép chúng lại bằng phần mềm (HDR)
-
Về nhà
Dùng flash trong trường hợp này là không khả thi, vì tiền cảnh quá rộng và xa, flash không thể bao phủ hết. Bộ lọc thì không phải ai cũng đủ tiền để mua, còn về nhà thì lại bỏ qua một cảnh đẹp, do đó giải pháp tối ưu cho trường hợp này có lẽ là chụp 3 hoặc 7 tấm ở các mức độ từ tối đến sáng và ghép lại bằng HDR.
Dưới đây là hình minh họa (Dùng kỹ thuật blend)
Histogram chỉ là một cách trình bày thông tin về ánh sáng của bức ảnh và cho thấy ánh sáng trong bức ảnh có bị vượt ra ngoài phạm vi cảm ứng hay không, ngoài ra không có histogram „xấu“.
Trong hình trên hầu hết chủ thể trong bức ảnh đều tối, histogram thể hiện hàu hết giá trị đều nằm phía bên trái của biều đồ(thiếu sáng) và chỉ có một phần nhỏ nằm trong vùng sáng thể hiện ánh sáng của mặt trăng. Nhưng mức độ tối không vượt ra ngoài phía bên trái của biểu đồ, và vùng tối trong bức ảnh không cần phải làm sáng lên để cho histogram nhìn có vẻ „cân bằng“ vì trong bức hình này, ý tưởng của tác giả muốn nhấn mạnh là mặt trăng.
Tương tự như vậy, trong bức ảnh trên, hầu hết chủ thể trong bức ảnh đều nằm trong khoảng sáng, và histogram cho thấy các giá trị tập trung về phải bên phải của biểu đồ và mức sáng không vượt ra ngoài phạm vi của biểu đồ. Và đây cũng không phải là bức ảnh tồi.
Xem histogram của ảnh đã chụp với máy 500D
Trong chế độ xem lại các ảnh đã chụp, bạn nhấn nút DISP để ẩn hoặc hiện các thông tin về ảnh trên màn hình. Và hiển thị ảnh cùng với histogram cùng các thông tin khác sẽ có dạng như sau:
Bộ ba F-stop, Shutter speed và ISO
Để hoàn toàn làm chủ máy ảnh, bắt buộc chúng ta phải biết ảnh hưởng của bộ ba F-stop, Shutter speed và ISO đến bức ảnh.
Một bức hình được tạo bởi máy ảnh KTS là do ánh sáng đi qua Lens (Độ mở ống kính f-stop) -> Màn trập(Shutter speed)->Đập vào cảm biến (ISO)->Cảm biến sẽ chuyển các thông tin ánh sáng thành tín hiệu điện tử và truyền đến chip xứ lý ảnh (500D có chíp xử lý là Digic IV) -> Dựa vào các thông số cài đặt như cân bằng trắng, Giảm noise, khử mắt đỏ... Chíp xứ lý sẽ áp dụng các thuật toán xử lý ảnh lên bức ảnh vừa nhận, sau đó ảnh sẽ được lưu vào thẻ nhớ.
1. Độ sáng của ảnh
- Độ mở ống kính càng lớn (giá trị f-stop càng nhỏ)-> Ánh sáng đi vào càng nhiều-> ảnh càng sáng và ngược lại
- Thời gian phơi sáng càng lâu (tốc độ chụp càng chậm) -> càng nhiều ánh sáng đi vào cảm biến -> ảnh càng sáng và ngược lại
- ISO càng lớn -> độ nhạy sáng càng cao -> có thể cảm nhận được nhiều áng sáng -> ảnh càng sáng và và ngược lại
2. Cân bằng sáng cho ảnh
Một ảnh có chất lượng đầu tiên là phải đủ sáng (nếu sáng quá thì ảnh sẽ gây chói mắt và một số vùng trong ảnh sẽ trắng xóa, ngược lại ảnh thiếu sáng sẽ làm cho một số vùng trong ảnh bị tối đen). Thường một ảnh thừa sáng hoặc thiều sáng sẽ làm cho một số chi tiết trong ảnh bị mất (một màu trắng trắng hoặc một màu đen đen). (Các bác chụp hình nghệ thuật chắc chả vào đây làm gì, he he)
Do đó, với một ảnh thiếu sáng thì giải pháp là tăng ISO, giảm f-stop (tăng độ mở ống kính), tăng thời gian phơi sáng(giảm tốc độ chụp). Có thể tăng 3 yếu tố hoặc chỉ 1,2 yếu tố trong 3 cái tùy mục đích người chụp.
Và với một ảnh thừa sáng thì chúng ta làm ngược lại như trên.
Các máy ảnh DSLR hiện nay đều có chức năng đo sáng, thông thường khi bấm một nửa nút chụp máy sẽ lấy nét đồng thời báo cho chúng ta ảnh hiện tại có đủ sáng hay không. (Trên màn hình LCD hoặc kính ngắm có cái thanh ngang được đánh số -2...-1...0...1...2) . Thông thường ảnh đủ sáng thì máy sẽ báo độ sáng là 0.
Khi chụp ở chế độ P, và ISO tự động máy sẽ tính toán cường độ sáng của môi trường và đề xuất một bộ giá trị ISO,shutter speed,f-stop sao cho độ sáng chỉ về giá trị 0. Lúc này bạn có thể điều chỉnh mức sáng của ảnh bằng cách nhấn nút AV +/- và vặn vòng quay -> máy sẽ tính toán và đưa ra một bộ ba ISO,shutter speed,f-stop mới.
Nếu bạn chọn một giá trị ISO cụ thể máy sẽ dựa vào giá trị ISO này để tính toán 2 giá trị còn lại.
Nếu chụp ở chế độ TV và ISO tự động thì máy sẽ dựa vào tốc độ chụp mà bạn đã chọn để tính ra f-stop và ISO sao cho ảnh đủ sáng (AV +/- == 0), nếu bạn cố định giá trị ISO thì chỉ còn f-stop thay đổi.
Như chúng ta đã biết ống kính có một độ mở tối đa và tối thiểu, ví dụ với ống EF 55mm f1.8. Thì độ mở tối đa là f1.8(mở to nhất) mà độ mở tối thiểu là 22. Vấn đề sẽ nảy sinh khi chúng ta chụp với tốc độ chậm (ví dụ 10 giây) trong môi trường nhiều ánh sáng với một ISO cố định => máy sẽ cố gắng khép khẩu (tăng f-stop) sao cho ảnh vửa đủ sáng tuy nhiên nếu ánh sáng quá nhiều thì dù máy đã khép khẩu tối đa thì ảnh vẫn thừa sáng. Giải pháp lúc này là giảm ISO xuống mức thấp nhất, lắp thêm kính lọc giảm sáng hoặc chấp nhận tăng tốc độ chụp lên.
Trong chế độ này, ở cùng một hoàn cảnh, càng tăng tốc độ chụp thì ISO càng tăng và độ mở ống kính càng tăng (f-stop giảm). Lý do là vì tốc độ chụp tăng=> ánh sáng vào ít=>ống kính mở to nhận nhận nhiếu ánh sáng hơn và ISO tăng để có thể cảm nhận ánh sáng tốt hơn. Nhằm đảm bảo cho ảnh đủ sáng
Tương tự như vậy, khi chụp ở chế độ AV, dựa vào f-stop mà chúng ta chọn, máy sẽ tính toán tốc độ chụp và ISO phù hợp.
Vậy M dùng để làm gì khi mà 3 chế độ trên đã là quá đủ? Không phải lúc nào máy cũng đoán được ý đồ của người chụp, do đó trong một số trường hợp người chụp phải điều khiển cả ba thông số trên nhằm ghi lại những bức ảnh theo đúng ý của mình.
3. Ngoài ánh sáng ba yếu tố trên còn ảnh hưởng gì đến bức ảnh
- ISO: ISO càng thấp thì cho ảnh càng mịn, ít nhiễu và ISO cao thì làm cho ảnh có nhiều hạt làm giảm chất lượng của ảnh. Do đó các cụ thường khuyên không nên xem máy ảnh cho phép ISO cao bao nhiêu mà nên xem ở các chế độ ISO cao, ảnh sẽ nhiễu như thế nào.
- F-stop: f-stop càng nhỏ thì độ sâu trường ảnh càng bị thu hẹp => các vật càng xa chủ thể được lấy nét càng mờ (xóa phông). Ngược lại f-stop càng lớn thì độ sâu trường ảnh càng được mở rộng => càng nhiều vật trong ảnh có độ nét cao (Chụp phong cảnh)
- Shutter speed: tốc độ chụp càng nhanh thì chủ thể càng sắc nét, nhất là các chủ thể đang chuyển động (chụp thể thao) ngược lại chụp ở tốc độ chậm hơn thì chủ thể sẽ bị giảm sắc nét và bị nhòe ở những vùng chuyển động (chụp nước chạy, đường xá vào buổi tối). Ngoài ra khi chụp ở tốc độ chậm, ảnh còn thường bị nhòe do máy bị rung khi người chụp cầm bằng tay. Vì vậy khi chụp ở tốc độ thấp, nên kê máy lên một vị trí chắc chắn hoặc dùng chân máy để giữ cho máy đứng yên.
Nguồn: vnphoto.net