Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
17/03/2013 08:03 # 1
tanphuong85
Cấp độ: 37 - Kỹ năng: 38

Kinh nghiệm: 142/370 (38%)
Kĩ năng: 98/380 (26%)
Ngày gia nhập: 19/01/2010
Bài gởi: 6802
Được cảm ơn: 7128
Khoá luận tốt nghiệp: Hình tượng người lính trong thơ Phạm Tiến Duật


 

MỞ ĐẦU

 

1. Lí do chọn đề tài

Phạm Tiến Duật (1942 - 2007) khởi đầu sự nghiệp sáng tác bằng những bài thơ viết trên tuyến đường mòn vận tải Trường Sơn 559, con đường huyền thoại trong cuộc chiến tranh chống Mỹ của dân tộc. Và cũng từ đó đời lính và đời thơ gần như song hành nhau, hiện thực là chất liệu viết nên thơ còn thơ luôn là nguồn sức mạnh tinh thần giúp ông có thêm ý chí chiến đấu. Phải khẳng định rằng với những bài thơ sôi nổi, trẻ trung hừng hực, có chút “tinh nghịch” nhưng cũng rất sâu sắc Phạm Tiến Duật đã thể hiện sự “sáng tạo của thơ trữ tình Việt Nam trên hành trình đ i tì m cái đẹp từ trong các sự kiện và in đậm chất sử thi của một thế kỷ đầy biến động” [13, tr 56]. Thơ ông làm chúng ta như  sống lại không khí của những năm tháng hào hùng, gian khổ nhưng hết sức lạc quan của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước; gieo vào lòng người đọc niềm tin ở những phẩm chất tốt đẹp, và ý chí vững bền của con người Việt Nam trước những thử thách lịch sử…Nhiều bài thơ nổi tiếng của nhà thơ Trường Sơn đã để lại như Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Nhớ, Lửa đèn, Gửi em cô thanh niên xung phong... có lẽ sẽ còn in đậm trong ký ức lịch sử; bồi đắp  cho thế hệ sau lòng yêu nước, tự hào dân tộc và khắc họa rõ nét chân dung người lính trong cuộc kháng chiến trường chinh chống Mỹ.  

Là một sinh viên ngành Văn học, rất đỗi yêu thơ Phạm Tiến Duật, và đặc biệt là những bài thơ viết về người lính, đề tài khóa luận “Hình tượng người lính trong thơ Phạm Tiến Duật” sẽ là cơ hội để tôi có điều kiện tìm hiểu sâu hơn và nghiên cứu có hệ thống hơn về những vấn đề mà mình đã hết sức đam mê.  

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Phạm Tiến Duật làm thơ từ đầu những năm 60 của thế kỉ XX, nhưng phải  đến khi đoạt giải nhất trong cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức vào năm 1969 -1970, ông mới thực sự ghi được tên tuổi của mình vào làng thơ Việt Nam. Bắt đầu từ đây, nhiều nhà phê bình, nghiên cứu văn học đã quan tâm đánh giá thơ ông.

Một trong những bài viết đầu tiên về thơ P hạm T iến Duật là Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ (Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 10, 1970 của Nhị Ca). Nhị Ca cho rằng chùm thơ được giải bốn bài của Phạm Tiến Duật thực sự gây được ấn tượng với độc giả về một phong cách thơ "rất lạ", lạ từ chất liệu, thi liệu đến giọng điệu và khẳng định đây là một hồn thơ "được nuôi dưỡng bằng chất liệu sống thực, tươi trẻ thở hết không khí mặt trận dữ dội và tự tin, có thời gian ngẫm nghĩ về cuộc chiến đấu quyết liệt, dũng cảm". Bên cạnh đó Nhị Ca cũng rất quan tâm đến v iệc tạo dựng câu thơ, một trong những yếu tố làm nên sự mới mẻ của Phạm T iến Duật so với các nhà thơ cũng đã có ý kiến nhận xét khá xác đáng về những thành công cũng như hạn chế qua việc phân tích một số bài thơ tiêu biểu của tập Vầng trăng quầng lửa.

Nhà văn Nguyễn Minh Châu (trên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 7, 1972) có bài Người viết trẻ giữa cánh rừng già cho rằng: "Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật đã làm xôn xao đời sống thơ ca vốn có. Thơ Phạm Tiến Duật đã cổ vũ cho cuộc chiến đấu theo cách riêng của mình và đã đón nhận được sự quan tâm đặc biệt từ nhiều phía"

Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Ngọc Thiện với bài viết Chỗ mạnh và chỗ yếu trong thơ Phạm Tiến Duật (in trên Tạp chí Văn học, số 4, 1974) đã khẳng định: "hồn thơ Phạm Tiến Duật phóng khoáng, rộng mở, cái đẹp của cuộc sống chiến đấu đi vào thơ ông tự nhiên và rất thật". Tác giả bài viết cho rằng, thơ Phạm Tiến Duật "là tiếng nói khoẻ khoắn, đôn hậu, bắt nguồn trực tiếp từ cuộc sống chiến đấu sôi nổi mà hào hùng của dân tộc". Bên cạnh ngợi ca, Nguyễn Ngọc Thiện cũng phê phán một số bài thơ có tư tưởng lệch lạc làm yếu sức mạnh của cộng đồng như Qua một mảnh trời thành phố Vinh, Vòng trắng ...

Từ góc nhìn vận động và phát triển của thơ ca dân tộc, nhà thơ, nhà phê bình Vũ Quần Phương  trong bài Một đóng góp của dòng thơ quân đội vào nền thơ Việt Nam (trong Tạp chí Văn học, số 6, 1979) đã chỉ ra sự kế thừa những kinh nghiệm của thơ ca dân gian trong thơ Phạm Tiến Duật, điều đó khiến cho thơ Phạm Tiến Duật "đầy rẫy những chi tiết đời sống đánh Mỹ chính xác, cụ thể như hiện vật trong bảo tàng. ..". Năm năm sau (1985), Vũ Quần Phương phát triển bài viết thành bài nghiên cứu tác giả Phạm Tiến Duật trong cuốn Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nộ i, 1985), xem Phạm Tiến Duật là một nhà thơ trẻ tiêu biểu của nền thơ trữ tình cách mạng.

Năm 1986, Đỗ Trung Lai cũng có một bài viết rất công phu với nhan đề Nhà thơ Việt Nam hiện đại (Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nộ i, 1985) đã đánh giá, tổng kết giai đoạn sáng tác trong chiến tranh của Phạm T iến Duật. Nhà văn đã khẳng đ ịnh vai trò của thực tiễn c hiến tranh đối với sáng tác của Phạm Tiến Duật.

Một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về thơ Phạm T iến Duật là của Trần Đăng Xuyền trong cuốn Lịch sử văn học Việt Nam, tập III (Nxb Đại học Sư phạm I, 2002). Tác giả công trình đã giới thiệu tiểu sử, con người nhà thơ. Ông cho rằng "vùng thẩm Mỹ" của thơ Phạm T iến Duật là rừng Trường Sơn. Tác giả đặc biệt quan tâm đến phong cách thơ Phạm Tiến Duật là tính chất trẻ trung, giọng thơ ngang tàng, sự xô bồ, rậm rạp mà khái quát của chi tiết, ngôn ngữ sinh hoạt ùa vào trong thơ. Cũng như nhiều nhà nghiên cứu khác, tác giả Trần Đăng Suyền vẫn mong đợi một sự đổi mới của nhà thơ Phạm Tiến Duật để thơ ông có thể đến được, hoà nhập với cuộc sống mới.

Bài nghiên cứu mới nhất gần đây về Phạm T iến Duật của Vũ Văn Sỹ, in trước ngày mất của nhà thơ với nhan đề Phạm Tiến Duật, người "chứa được Trường Sơn nhiều nhất"... (trong Tạp chí Nhà văn, số 12, 2007). Tác giả bài viết đánh giá cao vị trí của Phạm Tiến Duật trong hành trình thơ trữ tình cách mạng. Ông cho rằng "Thơ Phạm Tiến Duật đã lưu lại trong lịch sử văn học dấu mốc của thơ trữ tình Việt Nam trên hành trình đi tìm cái đẹp trên các sự kiện và biến cố in đậm chất sử thi của một thế kỉ đầy biến động".

Cùng với những bài viết trên, có thể kể đến các bài của Thiếu Mai, Mai Hương, Hồ Phương, Hoàng  Kim Ngọc... đăng tải trên các báo và tạp chí. Phạm Tiến Duật cũng từng được nhắc đến và giới thiệu trong các công trình tiểu luận và nghiên cứu như Dọc đường văn học (Nxb Văn học, 1996); Nhà văn Việt Nam thế kỉ XX, tập III (Nxb Hội nhà văn, 2000); Từ điển tác giả văn học Việt Nam thế kỉ XX (Nxb Hội nhà văn, 2003). Hầu hết các cuốn sách đều tập trung phân tích, nghiên cứu những giá trị mới mẻ mà nhà thơ Phạm Tiến Duật đưa lại.

Nhìn chung, các bài viết và các công trình nghiên cứu về Phạm T iến Duật đều cho rằng, đó là một hiện tượng lạ của thơ ca Việt Nam. Sự xuất hiện của Phạm Tiến Duật trên thi đàn đã làm cho thơ ca của thế hệ trẻ thời chống Mỹ có vị trí và có cá tính.

Tuy nhiên, nghiên cứu thơ Phạm Tiến Duật ở vấn đề hình tượng người lính là một vấn đề chưa được triển khai một cách hệ thống. Đề tài khóa luận của chúng tôi hy vọng là chút đóng góp nhằm khẳng định thêm ở nhà thơ này một phương diện thành công.

3. Mục tiêu nghiên cứu

Khóa luận với đề tài Hình tượng người lính trong thơ Phạm Tiến Duậttập trung khảo sát phân tích về hình tượng lính từ chân dung đến bản chất. Qua phân tích, chúng tôi sẽ rút ra nhận xét cụ thể đi đến khẳng định về một thành công của Phạm Tiến Duật trong phương diện sáng tạo hình tượng nghệ thuật.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài này tập trung nghiên cứu về hình tượng người lính của nhà thơ Phạm Tiến Duật. Trong khuôn khổ của một khóa luận tốt nghiệp, chúng tôi chỉ giới hạn phạm vi khảo sát chủ yếu ở các tập thơ:

- Vầng trăng và quầng lửa (1970)

- Thơ một chặng đường (1971)

- Ở hai đầu núi (1981)

 

 

 

 

5. Phương pháp nghiên cứu            

            Trong quá trình triển khai vấn đề nghiên cứu chúng tôi đã vấn dụng, kết hợp rất nhiều phương pháp khác nhau. Tuy nhiên một số phương pháp sau được sử dụng thường xuyên như:

- Phương pháp hệ thống

- Phương pháp phân tích

- Phương pháp liệt kê

- Phương pháp so sánh

6. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, nội dung khóa luận được triển khai thành 2 chương, cụ thể như sau:

Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÍ LUẬN

1.1. Hình tượng văn học

1.2. Thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

1.2.1. Sơ lược về một số hình tượng trong thơ 

1.2.2. Hình tượng người lính trong thơ Việt Nam kháng chiến chống Mỹ

Chương 2. HÌNH TƯỢNG NGƯỜI  LÍNH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT, TỪ CHÂN DUNG ĐẾN BẢN CHẤT

2.1.….Từ chân dung…..

2.1.1. Là những con người vô cùng anh dũng

2.1.2. Là những con người với khát vọng sống và tình yêu thiết tha

2.1.3. Là những con người  “dẫn đường” chan chứa lý tưởng cách mạng

2.2….Đến bản chất….

            2.2.1. Là hình ảnh của một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống  Mỹ

            2.2.2. Là hiện thân của khát vọng và ý chí mãnh liệt của dân tộc


CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ LÍ LUẬN

 

1.1. Hình tượng và hình tượng văn học

            Tất cả những sự vật và hiện tượng của đời sống được phản ánh một cách sáng tạo và nghệ thuật trong tác phẩm đều có thể là những hình tượng giúp thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả. Mỗi tác phẩm nghệ thuật đều có hệ thống hình tượng nghệ thuật riêng. Thông qua hệ thống hình tượng, người đọc dễ dàng nhận ra phong cách tác giả, nhận ra sự khác biệt giữa tác giả với tác giả, tác giả với thời đại.

            Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì “Hình tượng nghệ thuật chính là các khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện lại một cách sáng tạo trong những tác phẩm nghệ thuật. Giá trị trực quan độc lập là đặc điểm quan trọng của hình tượng nghệ thuật. Bằng chất liệu cụ thể, nó làm cho người ta có thể ngắm nghía, thưởng ngoạn, tưởng tượng. Đó có thể là một đồ vật, một phong cảnh thiên nhiên hay một sự kiện xã hội được cảm nhận”[6, tr 141]. Hình tượng nghệ thuật có thể tồn tại qua chất liệu vật chất nhưng giá trị của nó bao giờ cũng ở phương diện tinh thần. Người đọc không chỉ thưởng thức cuộc đời thực” trong tác phẩm mà còn cảm nhận được sự suy tư, lòng trắc ẩn và cả nụ cười ẩn trong cuộc đời thực ấy. Hình tượng nghệ thuật thể hiện tập trung các giá trị nhân học và thẩm mỹ của nghệ thuật.

Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học lấy ngôn từ làm chất liệu để xây dựng hình tượng. Hình tượng nghệ thuật là hình tượng ngôn từ. Thông qua hình tượng ngôn từ, tác phẩm đem đến cho người đọc “Không phải là bức tranh đời sống đứng yên mà luôn luôn sống động, lung linh, huyền ảo, vừa vô hình vừa hữu hình, cụ thể đấy mà mơ hồ đấy như mặt trăng đáy nước, bóng người trong gương, như không gian vốn ba chiều nay thu lại trong không gian hai chiều của hội hoạ, như một mái chèo trên hai thước chiếu sân khấu mà tác giả đã vẫy vùng trước đại dương”[6, tr 143].

Như vậy, từ những khẳng định về hình tượng nghệ thuật và hình tượng văn học của các nhà nghiên cứu trên chúng tôi thống nhất quan điểm hình tượng thơ chính là: “bức tranh sinh động và tương đối hoàn chỉnh về cuộc sống được xây dựng bằng một hệ thống các đơn vị ngôn ngữ vần điệu với trí tưởng tượng sáng tạo và cách đánh giá của nhà nghệ sĩ” [4, tr  44]. Trí tưởng tượng cho phép các nghệ sĩ từ cái nhìn hiện thực có thể vươn tới những cái gì cao đẹp, sinh động hơn cái vốn có của cuộc sống hiện thực.

                       …Ôi những cánh đồng quê chảy máu

                       Dây thép gai đâm nát trời chiều

                                               (Đất nước – Nguyễn Đình Thi)

Đó là những hình ảnh rất thực của cuộc sống người dân Việt Nam trong vòng kiểm soát của quân thù nhưng bằng cảm quan nghệ thuật, bằng nhận thức của một tâm hồn yêu nước thiết tha, Nguyễn Đình Thi đã nâng nó lên thành những hình tượng sống động: hình tượng đất nước Việt Nam trong nô lệ đau thương và tang tóc.

Tóm lại, từ những phân tích trên có thể hiểu hình tượng thơ “chính là mối quan hệ giữa các bộ phận của câu thơ, của đoạn thơ trong cách tổ chức những câu thơ, đoạn thơ để phản ánh đối tượng với những rung động tình cảm và cách đánh giá của nhà nghệ sĩ theo cách riêng của họ. Xem xét mối quan hệ đó phải đặc biệt chú ý đến khả năng phát hiện, khả năng sáng tạo của người làm thơ trong việc tìm tòi những kiểu cấu trúc mới trên con đường phản ánh hiện thực. Đặc biệt cần chú ý khả năng tiềm tàng và khả năng hiện thực của ngôn ngữ” [4, 114]

1.2. Thơ Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ

            1.2.1. Sơ lược về một số hình tượng trong thơ kháng Mỹ

Thơ kháng Mỹ thực sự là một kho tàng chứa đựng rất nhiều hình tượng, ngoài hình tượng điển hình là hình tượng người lính còn có các hình tượng khác, đó có thể là hình tượng người phụ nữ, hình tượng nhân dân, hình tượng đất nước…

Với hình tượng Tổ quốc, các nhà thơ đã mải miết, say mê để viết ra những vần thơ đi vào lòng người, để độc giả phải thốt lên “đất nước bao giờ đẹp thế này chăng”.
Sau Cách mạng tháng Tám, Tổ quốc được nhận thức sâu sắc hơn nhờ sự kế thừa và phát triển có tính biện chứng của thơ ca truyền thống. Có thể nói chưa bao giờ trong thơ ca hình tượng Tổ quốc lại được nhận thức một cách đầy đủ, đa diện vừa mang tính khái quát vừa rất cụ thể: Tổ quốc tôi chưa đẹp thế bao giờ, Xanh núi xanh sông xanh đồng xanh biển,  Xanh trời xanh của những giấc mơ  (Chế Lan Viên). Thơ chống Mỹ thoát khỏi hệ thống ước lệ khuôn sáo, các tác giả đã đưa Tổ quốc về với nhân dân, với cây tre, cây trúc, miếng trầu bà ăn, cái kèo, cái cột trong ngôi nhà ta ở, bình dị thân quen và vô cùng dân dã, sống động, đời thường:

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi,

        Đất nước có từ trong cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể,

           Đất nước bắt đầu từ những miếng trầu bây giờ bà ăn

(Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm).

 Bằng cảm xúc chân thành trong chiều sâu suy nghĩ, các thế hệ nhà thơ đã thể hiện rất đa dạng trên nhiều phương diện về lịch sử, văn hóa, địa lý vóc dáng của một hình hài Tổ quốc.

Hiểu được ý nghĩa sâu xa của hai tiếng Tổ quốc, thơ nữ cũng bộc lộ một cách nhìn của mình vừa đa dạng, thành tâm, giản dị mà vẫn không kém phần thiêng liêng cao cả. Bằng những cảm xúc chân thành, tha thiết, nồng cháy trong chiều sâu suy nghĩ, các chị đã biểu hiện thật phong phú nhiều bình diện trong cách diễn đạt về hình tượng Tổ quốc. Tổ quốc ấy là con đường và dãy Trường Sơn với những ngày đánh giặc. Tổ quốc hiện hình trong nỗi nhớ về Trường Sơn mà thơ các chị biểu hiện với những nét đặc sắc riêng đậm chất nữ tính:

Trường Sơn đông Trường Sơn tây

Bên nắng đốt bên mưa quay

Em giang tay, em xòe tay

Chẳng thể nào  xua tan mây”

(Sợi nhớ sợi thương - Thuý Bắc)

Con đường Trường Sơn, con đường với những kỳ tích lịch sử, con đường cách mạng đã nhập thân vào đời sống của một dân tộc gan góc. Con đường này có ý nghĩa sinh tử với vận mệnh của dân tộc. Trong thơ chống Mỹ, Trường Sơn là chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là ý chí kiên cường bất khuất, là nghị lực can trường.

Bên cạnh đất nước là hình tượng nhân dân, đó cũng là một đề tài để các nhà thơ khai thác với nguồn cảm hứng không bao giờ cạn. Trong văn học chống Mỹ nói chung và thơ ca nói riêng, nhân vật anh hùng đã trở thành nhân vật  số đông. Trong Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm đã từng viết:

Có biết bao người con gái, con trai

Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Gin dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra đất nước

Họ là những con người bình dị, đến khi mất rồ i có thể không ai còn nhớ đến họ. Nhưng đ iều đó không quan trọng, đ iều quan trọng là sự sống còn của đất nước này. Đó là ý chí, là quyết tâm không gì lay chuyển được. Sức mạnh từ ngàn đời đã dồn nén, tích tụ và thăng hoa vào thời kỳ kháng chiến chống Mỹ.

Bên cạnh các hình tượng trên ta còn bắt gặp hình ảnh người phụ nữ hiện hữu trong nhiều tác phẩm từ cổ chí kim, đặc biệt hình ảnh người phụ nữ Việt Nam trong thơ kháng Mỹ. Hình ảnh bà mẹ nghèo chính là hình ảnh “đất nước nghèo” với áo vải bạc màu. Phẩm chất ấy, thể hiện một lý tưởng thẩm mỹ, đấy là sự trong sạch, quý giá là vẻ đẹp trong đau khổ, trong kiêu hãnh, tự hào. Ý niệm đó đã trở thành phổ quát trong thơ giai đoạn này: Trần Vàng Sao yêu đất nước qua tấm áo rách, nỗi xót xa của mẹ:

Tôi yêu đất nước này xót xa,

 Tôi yêu mẹ tôi áo rách”.

Chế Lan Viên cảm nhận qua nước mắt, qua mảnh đất khô cằn:

Vâng, tôi yêu những nơi đá cộc, cây cằn,

            Tổ quốc như bà mẹ nghèo thì thầm cùng tôi qua nước mắt.

Vẻ đẹp và niềm kiêu hãnh của người phụ nữ Việt Nam anh hùng trong thơ Tố Hữu, đấy là tinh thần bất khuất, kiên trung. Con người ý chí khí phách đạp mọi trở ngại để vươn đến đạo lý truyền thống, đến với các giá trị vĩnh cửu và thiêng liêng:

 Sức đâu như ngọn sóng trào

     Má già đứng dậy ngó vào thằng Tây,

Má thét lớn: Tụi bây đồ chó

                                          Cướp nước tao, cắt cổ dân tao.

(Bà má Hậu Giang - Tố Hữu).

Hình ảnh O du kích nhỏ đã làm nên dáng đứng, tầm vóc, sức mạnh của dân tộc:

O du kích nhỏ giương cao súng

Thằng Mỹ lênh khênh bước cúi đầu

Ra thế to gan hơn béo bụng

Anh hùng đâu cứ phải mày râu”

(Tấm ảnh – Tố Hữu)

Biểu tượng cao đẹp, vĩ đại, hào hùng nhất, đấy là hình ảnh chị Lý, người con gái anh hùng Việt Nam. Bằng một cảm quan lãng mạn cách mạng, một tấm lòng tôn kính, xót thương vô hạn, tác giả đã khắc họa thành công hình ảnh người con gái Việt Nam bất khuất, kiên trung:

Điện giật, dùi đâm, dao cắt, lửa nung

Không giết được em người con gái anh hùng,

Ôi trái tim em, trái tim vĩ đại,

Còn một giọt máu tươi còn đập mãi,

Không phải cho em, cho lẽ phải trên đời,

Cho quê hương em. Cho cả loài người”

(Người con gái Việt Nam).

Tính chất sử thi, siêu nhiên qua cách cảm nhận và thể hiện của tác giả càng làm tăng thêm ý chí bất khuất, vẻ đẹp kỳ vĩ, thiêng liêng và huyền bí của người con gái Việt Nam anh hùng.

Quan phân tích có thể thấy, thơ Việt Nam trong kháng Mĩ đã xây dựng nên biết bao hình tượng đẹp. Tuy nhiên trong cuộc trường chinh cứu nước, hình tượng được các nhà thơ quan tâm hơn cả vẫn là hình tượng người lính, bởi họ chính  là hiện thân của nhân dân, của đất nước, của cách mạng.

            1.2.2. Hình tượng người lính trong thơ Vệt Nam thời kỳ kháng Mỹ

Như đã đề cập ở nội dung trên, văn học Việt Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước có một vị trí quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc. Đây là thời kì văn học phát triển rực rỡ trên nhiều thể loại để hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình: Làm cuốn "biên niên văn học" về cuộc chiến tranh ái quốc vĩ đại của dân tộc. Trong sự phát triển đó, về nội dung thơ ám ảnh bạn đọc ở rất nhiều hình tượng như người mẹ, người chị, người yêu bé nhỏ với đức hy sinh cao cả; là những em bé giao liên mưu trí, dũng cảm…Tuy nhiên, chiếm tỉ lệ nhiều hơn cả và để lại ấn tượng khó quên cho người đọc vẫn hình tượng người lính được khắc họa từ nhiều góc độ, tạo nên sự đa dạng về hình ảnh lẫn tính cách.

Đó là  những con người đầy nhiệt huyết luôn khao khát được cầm súng trực tiếp chiến đấu bằng một cảm xúc chân thành, trong sáng nhất:

Ôi ta thèm được cầm khẩu súng

Đi giữa đoàn quân cùng với bạn bè

 Nm chờ giặc trên quê hương anh dũng Ta  cay nồng mùi lá rụng bờ tre.

(Gi Bến Tre - Lê Anh Xuân)

Những người lính luôn hành quân với một niềm vui háo hức, hăm hở, đầy tin tưởng: "Đường nào vui bằng đường ra trận tuyến", "Ta náo nức như suối về sông biển" (Lưu Quang Vũ). Cái nhìn lãng mạn, lí tưởng hoá, thi vị hoá cũng rất đậm trong thơ Lê Anh Xuân ở chặng đường này:

Em đẹp lắm như mùa xuân bừng dậy

ng trên vai cũng đẹp như em

Em ơi! Sao tóc em thơm vậy

Hay là em vừa đi qua vườn sầu riêng

Ta yêu giọng em cười trong trẻo

Ngt ngào như nước dừa xiêm

Yêu dáng em đi qua cầu tre lắt lẻo

Du dàng như những nàng tiên.

 Đời sống thực của người lính được thể hiện chân  thực  trong  thơ  Phạm  Tiến  Duật,  Nguyễn  Đức  Mậu,  Hoàng  Nhuận Cầm....Chưa bao giờ hình ảnh thế hệ trẻ sống, chiến đấu giữa chiến trường lại được thơ tập trung khắc hoạ đạt được tính chân thực cao như thơ trẻ chống Mỹ. Đó là những người lính lái xe, chiến sỹ công binh, anh bộ đội coi kho, cô thanh niên xung phong, cô gái giao liên:

...  Đi qua hầu hết tuổi thanh xuân

Để lại trong rừng những gì quý nhất

Mt mọi thứ để nhân dân không mất

(Đi trong rừng - Phạm Tiến Duật)

 Chứa đựng nhiều chi tiết chân thực, tươi ròng sức sống, thể hiện được nhiều gương mặt trẻ trung, tinh nghịch mà kiên cường, anh dũng, thơ Phạm Tiến Duật được coi như "một góc bảo tàng tươi sống" về Trường Sơn (Đỗ Trung Lai) trong những năm tháng chống Mỹ.

Hơn ai hết, những người lính thờ i kỳ chống Mỹ  cũng là những người thấm thía sự hi sinh gian khổ tột cùng của đời sống chiến tranh. Đây là kỷ niệm ngày sinh nhật của người lính trẻ qua những vần thơ đầy suy tư của Thanh Thảo:

Bui sáng ấy tôi bước vào tuổi 25

Ở đường dây 559 - trạm 73

Ngày sinh nhật bắt đầu bằng cơn sốt

Cổ đắng khô ngồi thở trên đỉnh dốc

 Bn mở bi đông nhường hớp nước cuối cùng

 Hp nước cuối cùng giữa cơn sốt đầu tiên

                                      Ny sinh nhật tuổi 25 mình được sống

                     (Khúc năm – Thanh Thảo

          Phải là người nếm trải cơn đói cồn cào, cái đói quay quắt của người lính, Hữu Thỉnh mới thấu hiểu tại sao người lính lại quý đến nhường ấy từ “con tép chết bom từ bến ngược trôi về”, từng “hạt thóc gầy”, “mót cuối bìa rừng”; mới thấm thía cái thực tế đầy xót xa: “Tiểu đoàn thồ chẳng có gì thồ cả” – “Cứ đói ròng con gái hóa con trai”. Phải từng sống ở ngã ba Chân Vạc, nơi được mệnh danh là “túi bom” của Quảng Trị, Hữu Thỉnh mới ghi được hình ảnh:

                   Nồi cơm chiến trường phải đội tấn bom

                   Hạt sống vãi cùng hạt khét

                                                (Ngã ba Chân Vạc)

Các nhà thơ thời kỳ chống Mỹ dùng bút pháp hiện thực để miêu tả cụ thể chi tiết hơn căn bệnh đặc trưng của chiến trường- bệnh sốt rét. Chỉ nhìn những "dấu chân qua trảng cỏ", Thanh Thảo rưng rưng cảm động, bùi ngùi hình dung ra những người đồng đội của mình: "Những người sốt rét đang cơn - Dấu chân bấm xuống đường trơn có nhoè?". Hữu Thỉnh trong trường ca “Đường tới thành phốnhiều lần nói đến "cơn sốt rét rừng run bắn". Trong thơ Nguyễn Đức Mậu, căn bệnh sốt rét cứ trở đi trở lại. Nó bám riết tuổi thanh xuân của người lính: "Nơi thuốc súng trộn vào áo lính - Cơn sốt rét rừng đi dọc tuổi thanh xuân " (Trường ca sư đoàn). Nhà thơ như "vật vã" cùng với người lính trong những trận sốt rét ác liệt giữa giữa rừng sâu khi "cơn sốt rét ngấm vào tận cùng cơ thể ".

Những người lính nhận thức rất rõ tính chất dữ dội, ác liệt, sự gian khổ trong chiến tranh. Tuy nhiên, đời sống chiến trường dù có gian khổ, ác liệt, tàn khốc đến đâu cũng chỉ là cái phông, cái nền để làm nổi bật chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm súng.

Hình ảnh những người lính trẻ trong những trang thơ của thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ cứu nước thật khó lẫn được. Trong hành trang ra trận của họ có cả tiếng ve kêu:

Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu

Du hòn bi lăn hết vòng tuổi nhỏ

Trong những ba lô kia ai bảo là không có

Mt hai ba giọng hát chú ve kim?

              (Vào mặt trận lúc mùa ve đang kêu - Hoàng Nhuận Cầm)

Và trong lửa đạn khốc liệt, những người lính ấy vẫn hướng tới cuộc sống thanh bình, hướng tới những điều bình dị nhất của tuổi trẻ:

- Vừa tiu nghỉu tiếng bom rung

Đã nghe nhỏng nhảnh chim rừng tán nhau

(Tiếng chim sau trận B52 -  Nguyễn Duy)

 

- Giữa một vùng lửa cháy bom rơi

Tt cả lộ nguyên hình trần trụi

 Cây xấu hổ với màu xanh bối rối

Tự dấu mình trong lá khép lim dim

(Cây xấu hổ- Anh Ngọc)

 Viết về thế hệ trẻ cầm súng, các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ tập trung làm nổi bật hình ảnh của những con người mang trong mình dòng máu tươi trẻ của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, trẻ trung và rất đỗi yêu đời trong hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ, ác liệt. Có nói đến cảnh đạn bom dữ dội, nhưng thơ trẻ không gây cảm giác hãi hùng, ghê rợn, bởi vì thơ trẻ chỉ cốt ghi lại chân dung của thế hệ mình. Đọc thơ của Phạm Tiến Duật, Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Duy.... người đọc sẽ thấy rất rõ điều này. Hình ảnh người lính qua thơ của các nhà thơ trẻ không chỉ là những con người bình tĩnh, can trường, dũng cảm mà còn là những con người có đời sống tinh thần, đời sống nội tâm phong phú. Đời sống nội tâm ấy được thể hiện qua những tình cảm, suy nghĩ về tình đồng đội, tình cảm với quê hương, với người mẹ và những người thân thiết ở hậu phương. Có thể nói rằng, bằng chính máu thịt của tâm hồn mình, các nhà thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã dựng lên một cách cụ thể và sinh động bức chân dung tinh thần của cả một thế hệ trẻ cầm súng: "cả thế hệ dàn hàng - gánh đất nước trên vai" (Bằng Việt).

Đến với thơ ca vào năm tháng kháng chiến chống Mỹ hào hùng, Phạm Tiến Duật cũng tạc vào thơ mình những hình tượng con người tiêu b iểu của thời đại. Đó là bộ đội, là thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Những nhân vật ấy đã theo ông đi hết một chặng đường khói lửa và sau này còn thuỷ chung trong thơ ông cho đến tận những năm tháng cuối cùng của cuộc đời nhà thơ.

 


CHƯƠNG 2

HÌNH TƯỢNG NGƯỜI LÍNH TRONG THƠ PHẠM TIẾN DUẬT - TỪ CHÂN DUNG ĐẾN BẢN CHẤT

 

Phạm Tiến Duật đến với đề tài người lính bằng  sự  trải nghiệm của người trong cuộc. Do đó, những cảm nhận của ông về người lính vừa gần gũi, vừa chân thực, vừa sâu sắc. Ông viết về người chiến sỹ như viết về bản thân mình. Nếu anh bộ  đội trong thơ Tố Hữu mang sức mạnh thần thoại, có khả năng lay trời chuyển đất:

Anh đi xuôi ngược tung hoành

Bưc dài như gió lay thành chuyển non

Mái chèo một chiếc xuồng con

Mà sông nước dậy sóng cồn đại dương.

(Bài ca xuân 68)

Hay Lê Anh Xuân lại nhìn anh giải phóng quân bằng sự khâm phục bởi vẻ đẹp phi thường :

Chẳng để lại gì cho anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng

Vit Nam tạc vào thế kỷ.

                                             (Dáng đứng Việt Nam)

Thì trong thơ Phạm Tiến Duật, người lính không chỉ là con người lý tưởng, con người có hành động cao đẹp mà còn là con người của đời thường với đời sống nộ i tâm phong phú. Hình tượng người lính  là hình tượng trung tâm trong thơ kháng chiến của Phạm T iến Duật (kể cả những tác phẩm viết sau 1975) nói riêng và thơ trẻ chống Mỹ nói chung. Có thể nói rằng, Phạm Tiến Duật đã góp một tiếng thơ chân thực, sâu sắc trong việc hoàn thiện bức chân dung về người chiến sỹ trong chiến tranh.

Đọc thơ Phạm Tiến Duật, cái in sâu trong lòng người đọc đó là vẻ đẹp của người chiến sỹ trong chiến tranh. Người lính ấy trước hết nhận thức sâu sắc về trách nhiệm của họ đối với đất nước. Phần lớn những người lính này còn rất trẻ, nhưng tuổi đời của họ không ngăn cản ý thức trách nhiệm với Tổ quốc.  Họ đã cùng lên đường gánh vác nhiệm vụ chung, cả một thế hệ cầm súng, một thế hệ dàn hàng "gánh đất nước trên vai". Đến với chiến trường, nơi khốc liệt của chiến tranh, bom rơi, đạn nổ nhưng họ hiểu vì sao họ phải chiến đấu. Đất nước này còn đến mai sau phụ thuộc vào chính thế hệ những người cầm súng ấy. Vì thế, họ chấp nhận sự mất mát, hy s inh. Hy sinh tuổi thanh xuân, hy s inh cả tính mạng của mình, nhưng họ biết sự hy sinh của mình không vô ích :

Mưi năm sống xa phố, xa làng

               Tám năm sống trong núi, trong hang

        Tt cả riêng chung

Tt cả cho miền Nam, tất cả ...

(Tiếng cười của đồng chí coi kho- Phạm Tiến Duật)

Nhận thức được trách nhiệm của mình, người lính trong thơ Phạm T iến Duật sẵn sàng dâng hiến tuổ i thanh xuân, "Để lại trong rừng những gì quý nhất, mất mọi thứ để nhân dân không mất " (Đi trong rừng). Họ chiến đấu để hướng tới một ngày mai thanh bình, để lứa đôi được dắt tay nhau đến những "miền quê yên ả" để được thắp đèn "chơi trăng ngoài thềm". Nhưng để thực hiện được ước mơ chân chính và giản dị ấy, các thế hệ người Việt Nam đã phải đánh đổi bằng máu và nước mắt, bằng hạnh phúc của  mỗi cá nhân. Những gian khổ, hy sinh mà họ phải chịu đựng là có thật, hiện hữu từng ngày, từng giờ.

Trong thơ Phạm Tiến Duật, anh bộ đội đã trở thành những con người lý tưởng của thời đại. Họ đại d iện cho giai cấp, cho cộng đồng, trực tiếp làm nhiệm vụ mà sứ mệnh lịch sử dân tộc đã trao vào tay họ. Chân dung anh bộ đội luôn hiện diện ngời sáng, nổi bật trong thơ Trường Sơn, biểu trưng cho sức mạnh của dân tộc. Làm nên đ iều kỳ lạ ấy chính là "mấy chục vạn người con" đã gắn bó, sống chết với Trường Sơn, đã bền chí, bền gan chiến đấu giữa Trường Sơn "lính gặp lính trùng trùng như rừng thẳm" (Đi trong rừng). Phạm Tiến Duật đã đến với những con người anh hùng của thời đại từ nhiều phương diện, nhiều góc độ. Có khi họ là những tập thể, cũng có khi là những cá nhân; chiến sỹ đang chiến đấu hay trong lúc nghỉ ngơi... Nhưng dù ở đâu người chiến sỹ Trường Sơn vẫn ngời sáng phẩm chất anh bộ đội giải phóng. Đọc thơ Phạm T iến Duật, hình ảnh anh  bộ đội lái xe, những người lính công binh, những anh pháo thủ, người lính coi kho, ...trên tuyến đường Trường Sơn gây ấn tượng thật đặc biệt.

2.1…Từ chân dung…

2.1.1. Là những con người vô cùng anh dũng

Thơ Phạm tiến Duật viết nhiều về người lính, bản thân nhà thơ là người trong cuộc nên ông viết về mình, viết về đồng đội chân thực, hồn nhiên hơn ai hết. Giữa bom réo, bom rơi, chiến trường ngổn ngang cây đổ, giữa tiếng gầm gào của đại bác, trên những con đường "Bụi mù trời mùa hanh, nước trắng khe mùa lũ " (Gửi em cô thanh niên xung phong) những đoàn xe vẫn trùng trùng ra trận. Dù ở hoàn cảnh nào, "Xe vẫn chạy về miền Nam phía trước". Chân dung người chiến sỹ lái xe mưu trí, dũng cảm, đối diện với quân thù luôn làm xúc động lòng người:

Ta bật đèn pha ô tô trong chớp loè ánh đạn

Ri tắt đèn xe quay

Đánh lạc hướng giặc rồi ta lại lái xe đ i

(La đèn – Phạm Tiến Duật)

Những câu thơ gần với câu văn xuôi như kể lại một câu chuyện rất đỗi bình thường và với những người chiến sỹ ấy đó cũng là chuyện bình thường thật vì nó diễn ra hàng ngày, hàng giờ. Gian lao nối tiếp gian lao, nguy hiểm chồng chất nguy hiểm, nhưng họ vẫn vượt qua. Họ có thể rất khác nhau về tính nết, cá tính  nhưng họ có một điểm rất chung: cùng chung mục đích, cùng chung lý tưởng. Những điểm chung ấy đã giúp họ vượt qua được những giới hạn đời thường để họ trở thành một khối đoàn kết, trở thành sức mạnh vô song.

Ý chí và nhận thức của họ được chuyển hoá vào những hành động cụ thể:

Bỗng nhiên bên rừng bom nổ

       Chiếc xe bùng cháy bất ngờ

       Chúng tôi lao vào dập lửa

     Biết nơi cần đạn đang chờ.

(Đng chí lái chính, lái phụ và tôi)

Hành động quyết liệt cứu xe, cứu hàng của những người chiến sỹ, của đồng chí lái chính, lái phụ có cội rễ từ trong tiềm thức. Hành động ấy không hề bị những yếu tố cá nhân nào chi phối, cho dù trước đó họ vừa không đồng tình với nhau về chuyện vừa gặp một cô gái giữa đường. Có lẽ chân dung anh bộ đội lái xe được tác giả tập trung miêu tả, biểu hiện qua bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính. Thơ Phạm Tiến Duật giàu tính tự sự và chất liệu hiện thực. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tiêu biểu. Ông đã đưa một mảng hiện thực của đời sống chiến trường vào trong thơ,  một thứ hiện thực trần trụi, nóng bỏng hơi thở cuộc sống và dường như không cần một chút dụng công nghệ thuật nào:

Không có kính không phải vì xe không có kính

   Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

Không chỉ không có kính, xe không có mui, thùng xe có xước...Tất cả đều thiếu hụt, mất mát.  Qua bài thơ, người đọc thấy một khả năng đặc biệt của Phạm Tiến Duật. Ông không hề miêu tả sự dữ dội, ác liệt, của chiến tranh nhưng sự dữ dội, ác liệt vẫn hiện hữu trước mắt người đọc. Trên cái nền hiện thực ấy, chân dung anh người lính lái xe hiện lên thật rõ nét. Họ là những con người bình thường nhưng rất anh dũng. Dù khó khăn, khốc liệt là vậy nhưng những tiểu đội lái xe độc đáo có một không hai ấy vẫn ung dung trên đường ra mặt trận:

Ung dung buồng lái ta ngồi

Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng.

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

Những người lính lái xe hoàn toàn chủ động trước hoàn cảnh, dù khó khăn đến thế nào họ cũng có thể vượt qua. Chân dung người chiến sỹ lái xe Trường Sơn trở nên vừa lớn lao, vừa gần gũi. Họ hiểu những khó khăn nơi chiến trường là lẽ đương nhiên. Là người trong cuộc, nhà thơ viết về cái khổ không phải để kể khổ mà nói đến như một lẽ thường tình. Xe không có kính thì "Bụi phun tóc trắng như người già", rồi "Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời"... là điều không tránh khỏi. Song, điều quan trọng chính là tinh thần vượt lên gian khổ, khó khăn. Không lên gân, không hô khẩu hiệu, không sử thi hoá người chiến sỹ, chân dung người cầm lái hiện lên thật gần gũi, bình dị. Đọc thơ Phạm Tiến Duật ta thường chú ý tới hình ảnh anh lính lái xe mặc kệ mặt lấm, tóc phủ trắng vì đất bụi "phì phèo châm điếu thuốc" rất ung dung và cũng rất yêu đời, có vẻ hơi bất cần, ngang tàng với những tiếng cười sảng khoái hơn là nhìn ngắm những chiếc  xe không kính. Chiến tranh có thể tàn phá đời sống vật chất nhưng làm sao phá được "lòng dân ta yêu nước thương nhà" (Đất nước - Nguyễn Đình Thi). Tinh thần lạc quan, bình tĩnh, tự tin, nêu cao tinh thần trách nhiệm, gan góc trên đường ra tiền tuyến là đặc điểm nổi bật ở những người chiến sỹ lái xe này. Thêm một nét đẹp nữa ở anh bộ đội lái xe là tình đồng đội, gắn bó. Những khoảng thời gian ngắn ngủi được tụ họp trên đường hành quân: dựng bạt giữa trời, chung bát đũa, mắc võng chông chênh... tất cả làm thành không khí "gia đình". Một gia đình của tiểu đội lái xe. Chính vì vậy, tuy những khó khăn, mất mát dồn dập nhưng đoàn xe vẫn vượt lên, hăm hở lăn bánh ra mặt trận. Tất cả tiến lên miền Nam phía trước. Cuối cùng, sức mạnh của người cầm lái chính là tình cảm yêu thương, là chủ nghĩa anh hùng cách mạng, là ý chí  đấu tranh thống nhất đất nước.

Trên đường Trường Sơn "trùng trùng như rừng thẳm", bên cạnh những người chiến sỹ lái xe còn biết bao những những người lính khác vẫn ngày đêm đối diện với quân thù. Đó là những người lính công binh, lính pháo thủ, lính thông tin và lính coi kho. Như một nhà nhiếp ảnh tài ba, Phạm Tiến Duật đã ghi lại chân dung của họ một cách sinh động. Trong thơ Phạm Tiến Duật, những con người ấy thật đáng yêu. Ông không chỉ có tài trong việc quan sát những biểu hiện bên ngoài, mà quan trọng hơn là những diễn biến về tâm trạng. Đây là bức tranh về những người chiến sỹ trước lúc vào trận đánh:

Rơi từ mây những cánh bướm đen;

   Cu chiến sỹ bên tôi ngồi xuống, đứng lên

                                        St ruột vì nghe nứa nổ;

                                       Ngưi cán bộ già ngồi bên bãi cỏ

                                        Đăm đắm nhìn tàn lá đang rơi.

(Nhng mảnh tàn lá)

Giặc điên cuồng bắn phá, rừng cháy, tàn lá rơi, cái ác hiện hình biến thành chủ nghĩa... tất cả đều tác động đến những người lính. Họ đứng ngồi không yên, họ nóng lòng, sốt ruột được tấn công, được xông lên tiêu diệt kẻ thù. Người lính trẻ nôn nóng không còn bình tĩnh, người lính già ném cái nhìn vào những tàn lá đang rơi. Cuộc sống chiến trường không được P hạm Tiến Duật tô điểm qua cái nhìn lãng mạn hoá mà bình dị và chân thực như nó đã và đang diễn ra.

Trên con đường Trường Sơn ấy, hình tượng người lính công binh trong thơ Phạm Tiến Duật cũng thật đặc sắc:

Nhng đồng chí công binh lầm lì

Mùi bộc phá trộn vào trong tiếng hát

Trên áo giáp lấm đầy đất cát

Lp độp cơn mưa bi sắt đuối tầm

(Vng trăng và những quầng lửa)

Hiện thực máu lửa trên con đường huyết mạch Trường Sơn trong những năm tháng chống Mỹ không làm chùn bước chân của họ. Trái lại, đó chính là môi trường tôi luyện lòng can trường, dũng cảm nơi những người lính. Những người lính công binh đối diện với gian lao, thậm chí là cái chết cận kề, tận mắt chứng kiến cảnh "cơn mưa bi sắt" nhưng họ vẫn vượt lên bằng tinh thần "tiếng hát át tiếng bom". Ở họ có một niềm tin mãnh liệt khiến người đọc phải cảm phục:

Hun hút đường khuya rì rầm rì rầm

Tiếng mạch đất hai miền hoà làm một

Và vầng trăng, vầng trăng đất nước

Mc qua quầng lửa mọc lên cao.

(Vầng trăng và những quầng lửa)

Chiến tranh đi liền với sự khốc liệt. Chiến tranh là thứ lửa khắc nghiệt nhất để thử vàng của lòng người. Khi phải đối diện với sự mất còn, phải tính toán đến lợi ích cá nhân, tập thể, sự sống cái chết, con người mới chứng tỏ hết được sự thật về nhân cách của mình. Ai đã từng đến với chiến trường, đã từng thấy hết những gian khổ, mất mát có lẽ mới hiểu sâu sắc về điều đó. Trong thơ Phạm Tiến Duật, rất nhiều sự thật về chiến trường đã được ông đề cập đến, trong đó có một sự thật cao cả đó là ý chí kiên cường, bất khuất của con người, một tinh thần quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh. Song điều quan trọng hơn, sự thật cao cả vĩ đại ấy lại được diễn tả bằng cảm xúc chân thật, hiền lành:

    Bom giật liên hồi

Lỗ tai chảy máu

    Xông lên phá đường

     Mc cho áo cháy.  

(Nng thân yêu)

Về bài thơ này, Phạm Tiến Duật cho biết: "Hiếm thấy có nơi nào đến mấy chục người tật nguyền giống nhau, đ iếc một tai, lành một tai, nơi ấy là Seng Phan" [5, 66 ]. Thật ra, Ngãng không phải là một cái tên riêng, mà là cái tên chung cho những người lính công binh ở Seng Phan, những người đã bị bom Mỹ làm cho bị điếc. Nhưng cái tai sinh học bị điếc, còn cái tai tinh thần lại vô cùng nhạy cảm. Tinh thần cảnh giác, tinh thần chiến đấu đã đi vào tiềm thức của người chiến sỹ công binh, cho dù chiến tranh có ác liệt đến mấy cũng không làm lay chuyển được họ.

Nhiều người cho rằng, thơ Phạm Tiến Duật có nét gần gũi với thơ dân gian. Sự gần gũi ấy chính ở vẻ đẹp giản dị, hồn nhiên trong hình tượng, ở cảm xúc chân thành của người viết, nhất là khi viết về anh bộ đội.

2.1.2. Là những con người với khát vọng sống và tình yêu thiết tha

Phạm Tiến Duật viết không ngừng nghỉ với đề tài người lính, ông khai thác tất cả các khía cạnh, từ chân dung đến tâm hồn, lúc họ đang chiến đấu và cả lúc họ tạm nghỉ ngơi,ông từng vẽ một bức tranh dân gian về người lính về một buổi chiều trong hầm đại bác. Trong thơ ca viết về anh bộ đội ít có bức tranh nào sinh động đến thế:

Li buồn cười mấy cậu công binh

Thích vỏ đạn, suốt trưa ngồi ngắm,

Thương mấy anh thông tin lận đận

Xin phao bơi đưa máy qua sông.

(Bui chiều ở trong hầm đại bác)

Sau một cuộc tập bắn mấy trăm viên đại bác, ngực còn tức, tai còn ù, vậy mà những chàng pháo thủ, những cậu công binh, những anh lính thông tin dường như không còn quan tâm đến điều đó nữa. Dù hiện thực chiến tranh có khắc nghiệt đến mấy đi chăng nữa thì họ vẫn một lòng tin yêu cuộc sống, sau những buổi tập trận thấm đẫm mồ hôi, đau nhừ cơ bắp họ trở lại những nét riêng tư của cuộc sống đời thường thật đáng yêu, đáng mến. Hình ảnh của họ vì thế không xa lạ, họ không chỉ làm cho  ta ngưỡng mộ mà còn làm cho ta cảm mến tin yêu.

Người lính trong thơ Phạm Tiến Duật không phải là người lính nói chung, ông phân biệt rõ ràng người lính lái xe vơi người lính công binh, lính pháo thủ, lính thông tin và cả hình tượng người lính coi kho trên tuyến đường Trường Sơn, chỉ có điều, dù là lính gì đi chăng nữa thì hình ảnh của họ trong thơ Phạm Tiến Duật cũng làm ám ảnh người đọc:

Đồng chí coi kho ơi.....

Mưi năm sống xa phố, xa làng

Tám năm ở trong núi trong hang

         Tt cả riêng chung...

Dành cho miền Nam tất cả...

(Tiếng cười của đồng chí coi kho)

Đây chỉ là một trong muôn vàn người lính coi kho trên tuyến đường Trường Sơn. Sự hy sinh  thầm lặng của họ đã góp phần không nhỏ vào sự thắng lợi của cuộc chiến tranh cứu quốc vĩ đại. Họ góp phần tạo nên bản giao hưởng Trường Sơn thêm nhiều âm thanh tươi sáng, tràn đầy tinh thần lạc quan:

Đồng chí coi kho cười ha hả chẳng có tiếng cười nào

vang hơn tiếng cười trong hang đá.

(Tiếng cười của đồng chí coi kho)

Anh dũng, kiên cường luôn chiến thắng những khó khăn, gian khổ, sẵn sàng hi sinh cho đất nước, anh bộ đội trong thơ Phạm Tiến Duật còn là những con người chan chứa yêu thương. Trong con người các anh không chỉ có lý tưởng, ý chí chiến đấu mà còn có một tấm lòng đùm bọc, chở che. Có lẽ, hình ảnh làm các anh rung động, thương cảm nhất chính là những em bé mồ côi. Ở bất kỳ nơi nào trên thế gian này, trong chiến tranh, nạn nhân tội nghiệp nhất vẫn là những em bé. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã ghi lại điều đó:

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mt ổ đàn chim dáo dác bay

(Chy Tây)

Trong thơ Phạm Tiến Duật, chiến tranh cũng đẩy các em đến tình cảnh bơ vơ, không cha, không mẹ,  không nhà cửa, không nơi nương tựa, các em chạy thảng thốt trong rừng. Và "Gót chân son em chạy đến tim anh " (Đi theo bước chân của trẻ em Lào). Các em - nạn nhân chiến tranh cần một nơi nương tựa, cần một mái ấm tình thương. Các anh bộ đội Trường Sơn ngày ấy đã đón các em vào lòng. Các anh làm cha, làm mẹ, làm thầy giáo, sẻ chia với các em tất cả những gì mình có, bù đắp những đau thương, mất mát mà các em phải chịu đựng. Hàng ngàn trẻ em Tây Nguyên mồ côi đã được bộ đội cõng về nuôi nấng, dạy dỗ. Một mái ấm tình thương được dựng lên che chở các em:

Đưng về hậu phương xa thật là xa

      Thôi ở lại đây, ống tay các anh cắt ra tha hồ mặc

Lá cây lợp thành nhà, gỗ kê thành bàn học

   Lính quân đoàn thay nhau làm thầy giáo giảng bài.

(Gi các em  bé ở trường  văn hoá Tây Nguyên ngày tc)

Khung cảnh đơn sơ nhưng tấm lòng rộng mở, nồng ấm, các anh đã dành cho các em, thế hệ tương lai tất cả. Bởi vì mục đích của những cuộ c hành quân ra mặt trận cũng là vì "trẻ con mai sau". Cho nên, tình yêu thương của các anh dành cho những em bé, những nạn nhân của chiến tranh xuất phát từ trái tim nhân hậu, sự sẻ chia tự nguyện thật xúc động lòng người:

Nhng chiến sỹ mặc áo hở vai

Mui đốt tím bầm miệng vẫn cười tươi rói

Bom đạn đã coi thường kể gì no đói

Chỉ mong các em mau lớn thành người.

(Gi  các  em  bé trường  văn  hoá  Tây Nguyên  ngày trước)

Chất lãng mạn cũng là một điểm đặc nổi bật trong hình tượng người lính đã được Phạm Tiến Duật thể hiện. Đó là những tâm hồn giàu cảm xúc, đầy ắp nhớ thương. Những vùng làng giữa rừng Trường Sơn không khỏi làm họ xúc động, một tiếng mèo kêu mà "sôi lòng sôi dạ", cái cập kênh trò chơi thuở nhỏ chẳng thể nào quên. Người chiến sỹ lái xe bị thương phải nằm viện mà trằn trọc  nhớ "trăng", nhớ "bến", nhớ "lưng đèo " (Nhớ), hàng cây cũng thành "hàng cây tình tự" (Chuyện hàng cây yêu đương), dù "em" chỉ là"người con gái anh không nhìn rõ mặt" nhưng vẫn "tìm em rất lâu, rất lâu" (Gửi em cô thanh niên xung phong) , nghe em hát dù "nhịp với phách nghe chừng sai cả" nhưng lòng vẫn "thương em, thương em b iết mấy" và còn nữa tuổ i trẻ với tình yêu đôi lứa, với những niềm hạnh phúc giản dị. Mang trong mình trái tim đầy cảm xúc, hình tượng người lính trở thành một trong những hình tượng đẹp nhất trong thơ kháng chiến của Phạm Tiến Duật.

Có thể nói rằng, Phạm T iến Duật đã đem đến cho thơ ca Việt Nam một góc nhìn mới mẻ về người lính. Khi nói về anh hùng, người ta thường nói tới khoảng cách sử thi giữa nhân vật được ngợi ca và tác giả. Tác giả thường lùi xa để chiêm ngưỡng đối tượng miêu tả của mình. Nhưng hình tượng người lính của Phạm Tiến Duật vĩ đại trong chính sự bình dị của đời sống chiến đấu thường nhật. Sự gian khổ, khốc liệt, hi sinh hàng ngày,  hàng giờ diễn ra. Họ vượt qua, chiến đấu, chiến thắng là một điều kỳ diệu, làm ngạc nhiên cả chính những người trong cuộc, những người đã từng đi qua cuộc chiến tranh

Khi viết về người lính, Phạm Tiến Duật đã không quên những cô thanh niên xung phong, đó không những là một hình ảnh đẹp trong chiến tranh mà còn là nguồn cảm hứng bất tận của nhà thơ. Hình tượng những cô thanh niên xung phong luôn trở đi trở lại trong thơ Phạm Tiến Duật ngay cả khi chiến tranh đã kết thúc. Những cô gái ấy cũng là những người lính với khát vọng sống, tình yêu thiết tha và một niềm lạc quan yêu đời như những thiếu nữ mười tám đôi mươi:

Giữa nguy hiểm, đạn bom, giữa khó khăn khốc liệt, họ vẫn không quên mình là con gái. Chất nữ tính của họ làm xao xuyến bao người:

Em là cô bộ đội lái xe

Gic nhằm bắn bốn bề lửa cháy

         Cái buồng lái là buồng con gái

Vn cành hoa mềm mại cài ngang.

(Nim tin có thật)

Đn thanh niên xung phong phá đá sửa đường

   Du hố bom kề bên còn bay mùi khét

 Tóc lá sả đâu đó vẫn bay hương

(La đèn)

Những cô gái ấy đ i vào thơ, vào nhạc, bởi chính cuộc đời họ đã rất nên nhạc, nên thơ. Những cô gái ấy như những "bông hoa không hỏi" để làm "rạo rực" lòng người. Sự xuất hiện của "những người con gái ở rừng", những cô thanh niên xung phong lấp hố bom mở đường khiến những chàng trai không còn lý giải được sự xao động trong cảm xúc của mình:

Có lẽ nào anh lại mê em

Mt cô gái không nhìn rõ mặt

Đi đội thanh niên đi lấp hố bom

Áo em hình như trắng nhất.

(Gi em cô thanh niên xung phong)

Gi em cô thanh niên xung phong có thể xem là bản tình ca, bản anh hùng ca tuyệt vời nhất của Phạm Tiến Duật viết về "những người con gái ở rừng". Bài thơ trải dài trong cảm xúc miên man, trong hành trình đi tìm lời giải đáp cho câu hỏi: "có lẽ nào anh lại mê em, một cô gái không nhìn rõ mặt". Đúng  là chiến tranh - một bối cảnh khác thường, nó khiến cho những điều không thể đều trở thành có thể.

Bản thân mình cũng là một người lính, Phạm Tiến Duật đã nhìn cuộc chiến và những con người trong cuộc bằng cặp  mắt rất trẻ và một trái tim sôi nổi, nồng nàn. Trong con mắt của ông, trong cảm nhận của ông, hiện thực  chiến trường là nơi "đất rất hồng và người rất trẻ". Thơ ông tràn đầy tiếng cười, tiếng hát hồn nhiên:

Bun cười mất ngủ  mấy đêm.

(Lá lạc tiên)

Bun cười cái nón toòng teng trên đầu.

(Cái chao đèn)

Cái miệng em ngoa cho bạn cười giòn

Giọng Hà tĩnh nghe buồn cười đáo để.

(Gi em cô thanh niên xung phong)

       Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

Tiếng cười trêu khúc khích như câu hò.

(Nghe hò đêm bốc vác)

      Đồng chí coi kho cười ha hả.

(Tiếng cười của đồng chí coi kho)

Anh ngồi nghĩ gì em chẳng biết

Cứ hát tràn những câu bâng quơ.

(Cô bộ đội ấy đã đi rồi)

Cái cậu trẻ măng cất lên tiếng hát

Khi biết trong hầm có cô bé đang nghe.

(Vng trăng và những quầng lửa)

Cùng với tiếng hát, tiếng cười thể hiện không khí lạc quan, phấn chấn của cuộc sống chiến trường. Dù ở sắc thái nào, tiếng cười, tiếng hát cũng thể hiện bản lĩnh can trường của những người có đủ tự tin để vượt lên gian khổ, hiểm nguy đang rình rập hàng ngày.

Cũng bằng một tâm hồn trẻ trung, nột niềm tin yêu cuộc sống, Phạm Tiến Duật đến với đồng đội của mình, đến với gian khổ, đến với ác liệt. Cái trẻ trung, yêu đời cứ như trêu, như ghẹo, như thách thức cái sự thật nghiệt ngã mà chính ô ng phải đối mặt với nó :

     Không có kính ừ thì có bụi

Bi phun tóc trắng như người già

           Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc

                                                                 Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha.

(Bài thơ về tiểu đội xe không kính)

2.1.3. Là những con người  “dẫn đường” chan chứa lý tưởng cách mạng

Người lính của Phạm Tiến Duật có lẽ cũng giống như bao người lính khác ở chỗ lý tưởng cách mạng, đã ra chiến trường là một lòng vì độc lập tự do của dân tộc, họ -  những con người đang ở ngoài chiến trận là ngọn lửa thôi thúc những trái tim yêu nước thương nòi cùng đứng lên chống lại giặc Mỹ, họ là những con người dẫn đường cho một thế hệ thanh niên Việt Nam thời kỳ ấy.

Người lính ra trận với ý thức sâu sắc, vị trí, sự xuất hiện rất đúng lúc kịp thời của thế hệ mình trong điệp trùng đội ngũ những người cầm súng:

  Ta đi hôm nay đã không là sớm

Đất nước hành quân mấy chục năm rồi

 Ta đến hôm nay cũng không là muộn

Đất nước còn đánh giặc chưa thôi.

(Co những đạo quân tuyên truyền, chào những đạo quân nghệ thuật)

Hiện thực chiến tranh khốc liệt trên đường Trường Sơn không làm nhụt ý chí chiến đấu của người lính mà chỉ có thể làm không khí chiến đấu trở nên khẩn trương hơn, dồn dập hơn, sôi động hơn, hào hùng hơn. Ấy là vì những người lính đã gắn bó sâu sắc, đã sống hết mình, đã hòa nhập với Trường Sơn, đã tận mắt chứng kiến cảnh trong đêm tối “tàn lá đầy trời như mưa tuyết màu đen” (Những mảnh tàn lá).

Cảnh “xe đi trong tầm bom rơi” giữa một vùng rừng “ngổn ngang cây đổ”, đã nhìn thấy “hố bom dày như lỗ hà ăn chân” ở Ngã ba Đồng Lộc.

Ít thấy những trang thơ  của Phạm Tiến Duật không có cảnh khói, lửa, đạn, bom, tiếng rốc két, tiếng mìn, tiếng bộc phá. Tuy nhiên sự khốc liệt ấy chỉ làm nền cho cái bản chất của người ra trận. Ta chỉ thấy họ luôn lạc quan, luôn mang trong mình một vẻ  như ngất ngưỡng, như phớt đời trong Bài thơ tiểu đội xe không kính:  “chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc, nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”

Những con người dẫn đường chan chứa lý tưởng cách mạng khiến ta cảm nhận được họ tham gia vào cuộc chiến bảo vệ đất nước với một tinh thần lạc quan, yêu đời, không hề lo ngại đến cái chết, sự mất mác hy sinh. Cô thanh niên xung phong tinh nghịch với câu nói đùa Thạch Kim, Thạch Nhọn chứ không mảy may nghĩ đến hoàn cảnh sống của cô giữa chiến trường ác liệt’ Giữa mảnh đất “đen xạm khói bom, nham nhở vết thương” vẫn nổi bật lên hình ảnh cô thanh niên xung phong vác hòm đạn tám mươi cân “hình cánh hoa lan trên vai áo trắng ngần- là vết xước đinh hòm vừa mới xé”.

Họ ra chiến trận với gương mặt ngời sáng mà đạn bom hàng ngày không đảo lộn được cái nếp sống yêu đời hằng ngày. Hình ảnh những cô bộ đội lái xe với cành hoa vắt ngang buồng lái cho ta thấy rõ điều đó:

                                                           Em là cô bộ đội lái xe

              Giặc nhắm bắn bốn bề lửa cháy

          Cái buồng lái là buồng con gái

          Với cành hoa mềm mại cài ngang

(Gửi em, cô bộ đội lái xe)

Chính con đường Trường Sơn và những người lính ở đó đã tiếp thêm sức mạnh, dẫn đường cho những người lính khác cái khí thế hiên ngang dũng cảm của họ, chính vì sống giữa nơi bom rơi, đạn nổ liên miên là chuyện bình thường nên họ đã có được cái bản lĩnh của người lính từng trải. Để có thể nghe thấy giữa Seng Phan “cao hơn tiếng bom là khe núi tiếng đàn – tiếng mìn công binh phá đá – tiếng điếu cày rít lên thong thả - tiếng oai nghiêm xe rú máy trên đường” và phát hiện ra một điều rất thật mà cũng rất bất ngờ “Thế đấy, giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ”.

Chính mình cũng là một người lính nên Phạm Tiến Duật cũng là người dẫn đường chan chứa lý tưởng cách mạng, nhà thơ đưa vào thơ mình những chi tiết đời sống rất thực, còn tươi ròng cảm xúc, bám đầy bụi khói chiến trường và trộn lẫn mùi khét lẹt của đạn bom và nổi lên trên đó là cái khí thế ra trận hào hùng của dân tộc qua hình ảnh cuộc hành quân khẩn trương, hối hả của những sư đoàn ùn ùn sung pháo, của những “đoàn xe ngút đầy đạn gạo” tạo nên bản giao hưởng Trường Sơn của dân tộc. Trong bản giao hưởng ấy vẫn thường vang lên tiếng hát, tiếng cười của những người ra trận. Khi là tiếng cười ha hả của những anh lính lái những chiếc xe không kính, khi là tiếng cười ha hả của đồng chí coi kho, khi lại là tiếng cười giòn tan của những cô thanh niên xung phong hồn nhiên dũng cảm, khi là tiếng hò cất lên trong một đêm bốc vác:

Tiếng bom chạm nhau thay cho nhạc dạo

Mỗi câu hò thêm một chuyến xe qua

Sau giọng ngân dài xô một tiếng dô ta

Khi là “tiếng hát trộn với mùi bộc phá” của những đồng chí công binh, tiếng hát ngân dài “nơi tắt lửa” của những đoàn thanh niên xung phong phá đá mở đường, tiếng hát “chòng chành như võng đung đưa” của một cô gái hát trong rừng.

Và cả tiếng nhạc ngân nga trong tâm hồn những người đi chiến đấu:

Nhưng giữa chiến trường nhiều khi thay cho nhạc

Là những tâm hồn có nhạc ở bên trong

Đúng là không khí của một thời tiếng cười, tiếng hò, tiếng hát át tiếng bom!

Có thể nói, những người lính trong thơ Phạm Tiến Duật và cả bản thân nhà thơ luôn lạc quan, yêu đời, dù hiện thực chiến trường có khốc liệt đến đâu đi nữa. Chính họ đã làm nên lý tưởng cách mạng, là những con người dẫn đường ,đã thôi thúc những con người khác cầm sung ra chiến trường để có thể cống hiến cho đất nước trong trạng thái ngạo ngễ trước quân thù.

Phạm Tiến Duật đã vẽ nên chân dung của những người lính, đồng thời cũng là tự họa về bản thân mình với những điểm chung là những con người vô cùng anh dũng,  những con người với khát vọng sống và tình yêu thiết tha  và  là những con người  “dẫn đường” chan chứa lý tưởng cách mạng. Họ có thể là bất cứ ai, đến từ bất cứ nơi đâu nhưng hễ đất nước có giặc là họ sẵn sang hy sinh tuổi trẻ, hy sinh hạnh phúc cá nhân để hòa mình vào dòng chảy của cách mạng, hòa mình vào cuộc chiến bảo vệ độc lập dân tộc với một tinh thần lạc quan, một khí thế hào hùng và một niềm tin chiến thắng!

2.2….Đến bản chất….

2.2.1. Là hình ảnh của một thế hệ thanh niên trong kháng chiến chống Mỹ

Không chỉ riêng Phạm Tiến Duật viết về người lính mà còn rất nhiều nhà thơ khác cũng viết về người lính  chứa đựng nhiều chi tiết chân thực, tươi ròng sức sống, thể hiện được nhiều gương mặt trẻ trung, tinh nghịch mà kiên cường, anh dũng. Sống giữa chiến trường,  những  nhà thơ trẻ đã chứng kiến tận  mắt những cảnh tượng dữ dội, ác liệt của chiến tranh nên có thể nói, họ đã ghi lại một cách đầy đủ về quang cảnh chiến trường Trường Sơn. Có những sự thật trần trụi tưởng chừng như vô lí ở Trường Sơn cũng được các tác giả ghi lại :

Cây lá thiếu màu xanh

Rng hoang thừa tiếng nổ

(Tng ca sư đoàn - Nguyễn Đức Mậu)

Chân dung tinh thần của thế hệ trẻ cầm súng thời kỳ chống Mỹ hiện lên cụ thể, chân thực, phong phú và sâu sắc:

Nhng thằng con trai 18 tuổi

        Nhiu khi bực quá khóc oà

               Phanh ngực áo và mở trần bản chất

  Mm cười trước những lời lời to tát

Nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc.

(Thử nói về hạnh phúc - Thanh Thảo)

Thế hệ chúng con ồn ào, dày dạn

     Sống thì đi mà chết thì nằm

(Đất nước hình tia chớp -  Trn Mạnh Hảo)

Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình

nhưng tuổi 20 làm sao không tiếc?

nhưng ai cũng tiếc tuổi 20

thì còn chi Tổ quốc?

(Những người đi tới biển - Thanh Thảo)

      Sống giữa chiến  trường đầy gian khổ và ác liệt, các nhà thơ vẫn kể bằng một giọng điềm tĩnh, bình thản:

Cnh giếng nước có bom từ trường

 Em không rửa ngủ ngày chân lấm

Ngày em phá nhiều bom nổ chậm

Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà

(Gi em cô thanh niên xung phong - Phạm Tiến Duật)

Đó chính là bản chất của một thế hệ thanh niên thời kháng chiến chống Mỹ và người lính trong thơ phạm Tiến Duật là một đại diện, họ là những con người trẻ trung đầy nhiệt huyết, là hiện thân của lý tưởng cách mạng.

Chỉ cần một Bài thơ Tiểu đội xe không kính ta cũng đã thấy rõ một thế hệ thanh niên Việt Nam, Phạm Tiến Duật quả thật đã rất tài tình khi khắc họa nên hình ảnh người lính lái xe đi vao huyền thoại, anh lính ấy là hình ảnh của tất cả những người lính lái xe trên đường Trường Sơn những năm tháng hào hùng.

Trên những chiếc xe không kính, dưới làn bom đạn của kẻ thù, an toàn của các anh khó mà bảo đảm. Vậy mà thái độ của các anh bình thản tự tin đến không ngờ. Trong tư thế ung dung, trong cái nhìn bao quát cả đất trời còn có cả niềm kiêu hãnh của người làm chủ hoàn cảnh, tự hào ngắm nhìn đón nhận thiên nhiên. Nhịp thơ cân xứng, ý thơ trôi chảy, lời thơ nhẹ nhàng như diễn tả hình ảnh những đoàn xe lăn bánh trên những nẻo đường ra trận. Cái vất vả, gian khổ hiểm nguy được miêu tả bằng những hình ảnh giản dị trung thực đến từng chi tiết:

                                        Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng

                                        Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim

                                        Thấy sao trời và đột ngột cánh chim

                                       Như sa, như ùa vào buồng lái .

Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin, người lái xe không chỉ cảm thấy mà còn nhìn thấy “gió vào xoa mắt đắng ”. Cử chỉ quá đỗi trìu mến, dịu dàng và thân thiện ấy của gió làm đắng những đôi mắt cay xè vì thiếu ngủ. Và hơn thế nữa, nắng mưa gió bụi của Trường Sơn đã trở thành những bạn đồng hành:                              

                        Không có kính ừ thì có bụi
                                      Bụi phun tóc trắng như người già .
                                    …Không có kính ừ thì ướt áo
                                    Mưa phun mưa xối như ngoài trời .
      

Điệp từ  “ừ thì” , “chưa cần”, hình ảnh “phì phèo châm điếu thuốc ”, giọng “cười ha ha” hào sảng làm tôn lên chất bình dị mà anh hùng của những chàng trai trẻ biết biến cái vất vả gian nan thành phút giây thư giãn thoải mái . Qua đó làm sáng lên tinh thần cứng cỏi đầy nghị lực và bất chấp gian khó của những người biết vượt lên hoàn cảnh để làm chủ hoàn cảnh. Có lẽ ai đã từng đến Trường sơn mới thấu hết cái gian nan của người cầm lái. Đường Trường Sơn gập ghềnh, mưa Trường Sơn như trút nước, mùa khô xe chạy bụi mù trời. Bom đạn của quân thù không làm các anh chùn bước thì gió, bụi, mưa sa của thiên nhiên khắc nghiệt nào có đáng kể chi. Trên những chiếc xe không kính, tâm trạng người chiến sĩ lái xe vẫn phơi phới thênh thang:

                        Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới

                        Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.

 Lạ lùng thay, như một khám phá bất chợt của nhà thơ, sự hiểm nguy của những chiếc xe không kính lại trở thành sự tiện lợi bất ngờ khi các chàng lính gặp nhau, bởi họ có thể không cần phải xuống xe mà vẫn có thể bắt tay nhau thể hiện tình thân ái. Công việc vất vả, hiểm nguy nhưng phút nghỉ ngơi của những người lính lại vô cùng giản dị :

                                    Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời

Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy .

Cuộc sống dẫu giản dị, xuềnh xoàng nhưng ấm áp tình cảm. Những người lính không chỉ là đồng chí, đồng đội của nhau mà họ còn là những người cùng trong một gia đình . Bởi vậy sau những phút nghỉ ngơi ngắn ngủi họ lại tiếp tục công việc của mình với niềm tin mãnh liệt vào ngày mai chiến thắng.

Còn có những cô gái thanh niên xung phong hồn nhiên, yêu đời, là đại diện cho cả thế hệ thanh niên xung phong thời chống Mỹ, rất giản dị mà cũng rất thật, họ là những cô gái sẵn sang hy sinh tuổi thanh xuân đem sức mình phục vụ cho tổ quốc, mặc cho bom rơi đạn nổ họ vẫn âm thầm làm công việc của mình:

Cnh giếng nước có bom từ trường

 Em không rửa ngủ ngày chân lấm

Ny em phá nhiều bom nổ chậm

Đêm nằm mơ nói mớ vang nhà.

(Gi em cô thanh niên xung phong)

Bằng một lối kể chuyện rất tự nhiên trong thơ, sự kiện "em" "ngủ ngày chân lấm" gây xúc động lòng  người. Cạnh giếng có bom từ trường, cô gái không dám rửa chân đi ngủ. Ban ngày phá nhiều bom nổ chậm nên ban đêm nỗi sợ hãi lo lắng không bị lý trí kiểm soát làm cô gái "nói mớ vang nhà". Ý tại mà ngôn ngoại. Chất thơ đã đạt đến độ ám gợi, hàm súc. Phạm Tiến Duật lấy một chi tiết nhỏ để nói về sự hi sinh cao cả của các cô gái trẻ một thời đến Trường Sơn không tiếc đời mình. Lời thơ, ý thơ giản dị nhưng chân  dung người con gái Trường Sơn đã lung linh toả sáng trong trang thơ. Có ai ngờ những người con gái vẫn được coi là "chân yếu tay mềm" đã làm nên những điều kỳ diệu. Không b iết có nơi nào trên thế giới này, phụ nữ lại hồn nhiên và anh dũng như ở đất nước Việt Nam thời chống Mỹ. Chính họ đã tiếp sức mạnh, niềm tin để cả dân tộc chiến đấu và chiến thắng:

Em đã qua và em đã sang

Đp lắm đấy giữa ngày đánh Mỹ

Đt nước mình nhiều điều giản dị

Ai chưa tin, rồi cũng phải tin thôi.

(Nim tin có thật)

Quả là đất nước Việt Nam thời chống Mỹ có những cái tưởng chừng như giản dị nhưng lại rất vĩ đại, vĩ đại nhưng lại xuất phát từ những điều hết sức giản dị. Đó chính là tình cảm chân thành với Tổ quốc. Ai có thể tin được những người con gái dám đi phá bom nổ chậm, dám lái xe qua "Nơi túi bom bay mù bụi đỏ" trong cảnh "Giặc nhằm bắn bốn bề lửa cháy". Và trong số những người con gái ấy, không ít người vĩnh viễn nằm lại với cánh rừng già Trường Sơn:

Chuyện kể rằng: Em cô gái mở đường

Để cứu đoạn đường đêm ấy khỏi bị thương

Cho đoàn xe kịp giờ ra trận

Em đã lấy tình yêu Tổ quốc của mình thắp lên ngọn lửa

Đánh lạc hướng thù. Hứng lấy buồng bom.

(Khoảng trời hố bom - Lâm Thị Mỹ Dạ)

Chiến tranh dữ dội là thế. Những người con gái ấy khi bước chân vào chiến trường họ đã hình dung được điều đó. Hành trang trên đường ra mặt trận của họ có thể quên thứ này, thứ kia, nhưng thứ quan trọng nhất thì họ đã đem theo rồi. Đó là tuổi trẻ, trách nhiệm và lòng danh dự.  Cũng giống như anh bộ đội Trường Sơn, những cô thanh niên xung phong thuộc thế hệ những con người ý  thức sâu sắc về trách nhiệm công dân của tuổi trẻ đối với đất nước. Họ không ảo tưởng về chiến trường,  họ hình dung được sự gian khổ của nơi ấy. Nhưng vì tình yêu và trách nhiệm với Tổ quốc họ đã đến và hi sinh cả một thời tươi trẻ của mình.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đi qua hơn ba mươi năm, nhưng mỗi khi nhìn lại, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sức mạnh kỳ diệu của chính mình. Vì sao một dân tộc đói nghèo và lạc hậu lại có thể chiến thắng một đế quốc mạnh tầm cỡ hàng đầu thế giới? Phạm  Tiến Duật cũng nhiều lần đật câu hỏi băn khoăn. Nhưng chính việc tham gia kháng chiến trực tiếp cầm súng, trực tiếp gặp gỡ với những con người yêu nước, ông đã tìm được câu trả lời cho mình. Đó là sức sống bất diệt của những người lính, của một thế hệ thanh niên và đồng thời cũng là của con người Việt Nam. Sức sống ấy đã được chuyển hoá thành sức mạnh vật chất, bằng hành động cụ thể của mỗi con người.

 

            2.2.2. Là hiện thân của khát vọng và ý chí mãnh liệt của dân tộc

Thưc sự, cuộc chiến tranh nhân dân đã đi vào đời sống của mỗi người dân ngày ấy. Tuy nhiên, đối với nghệ thuật thơ ca, việc nắm bắt, lựa chọn và biểu hiện là cả một vấn đề không đơn giản. Phạm T iến Duật đã làm được điều đó. Khi mà thế thế hệ đàn anh của mình đã có hàng loạt nhân vật thơ ca đa dạng với nhiều phong cách tiêu b iểu thì Phạm T iến Duật vẫn tìm được hướng đi cho mình. Ông chọn cho mình một góc nhìn riêng, thâm nhập vào đời sống tinh thần của họ, để tìm hiểu, để đồng cảm, để cất lên tiếng nói về họ. Chính vì vậy, ông đã nhận ra ở những con người "vô danh" ấy những nét đẹp cao quý. Ông hiểu rằng mọi hành động của họ đều xuất phát từ lòng căm thù giặc, từ tình yêu tha thiết với quê hương, làng xóm, từ ý chí quyết tâm đánh giặc. Thậm chí ý thức đánh đuổi giặc ngoại xâm còn như ngự sẵn trong tiềm thức của họ. Những chặng đường mà ông đã qua, những con người mà ông đã gặp, tất cả đều lưu lại bóng dáng trong thơ ông với những tình cảm thiết tha, trìu mến. Cứ như thế, biết bao những người dân yêu nước sẵn sàng hi sinh, sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc mà nhà thơ trẻ Phạm Tiến Duật ngày ấy đã nhận ra. Họ là bộ đội, là thanh niên xung phong, hay họ là những người mẹ sống lặng lẽ nơi quê nhà; họ là người làm ruộng vườn, người buôn bán... họ là bất kỳ ai, nhưng những con người ấy đều có một điểm chung nổi bật, đó là lòng yêu nước. Bằng trái tim nhạy cảm, sắc sảo nhà thơ Phạm Tiến Duật đã phát hiện ra và đưa vào thơ mình những nhân vật tiêu b iểu và đó cũng là những nhân vật của thời đại mình. Họ là những nhân vật chính trong bản anh hùng ca bất diệt trong lịch sử chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam mà ông tạo dựng được. Nhưng điều đáng nói ở đây là, Phạm Tiến Duật không chỉ quan sát, chiêm ngưỡng, ngợi ca các nhân vật anh hùng của thời đại mà ông đã viết về họ bằng cảm xúc chân thực, bằng sự gần gũi, sẻ chia. Chính vì vậy, người anh hùng trong thơ ông không sừng sững như tượng đài bia đá, người anh hùng ấy sống giữa đời thường, đẹp một vẻ đẹp bình dị. Điều đó có lẽ xuất phát từ ý tưởng sáng tạo, từ quan niệm nghệ thuật của Phạm Tiến Duật. Ông không chỉ khắc hoạ chân dung của một cá nhân, ông muố n tạc tượng cho cả một dân tộc. Bởi theo ông, sự chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong lịch sử là sự chiến thắng của tinh thần đoàn kết, là sức mạnh tập thể.

Đọc những tập thơ đầu tay của ông như Vầng trăng quầng lửa, Thơ một chặng đường, ta thấy ở đó hình  ảnh  con  người  trẻ trung, tinh nghịch, hóm hỉnh, lạc quan, đậm chất lính. Trở lại những năm tháng đau thương mà hào hùng của dân tộc, ta mới thấy cái hồn nhiên, lãng mạn, lạc quan vô cùng đáng yêu, đáng trân trọng của con người thời ấy. Nếu không có được những cái đó của con người thời đại thì có lẽ dân tộc ta khó có thể vượt qua được hai cuộc chiến tranh thần thánh chống Pháp và chống Mỹ, cũng chính những đặc điểm đó của người người lính là đặc điểm của cả dân tộc trong cuộc chiến.

Nền thơ chống Mỹ tập trung phản ánh những sự kiện lịch sử, có tính chất toàn dân. Khuynh hướng trữ tình sử thi gắn liền với cảm hứng lãng mạn cách mạng. Chính vì vậy mà người lính xuất hiện với tư cách con người công dân - chiến sĩ mang cảm hứng lịch sử, thời đại, dân tộc. Với tư cách đó, người lính có ý thức cao độ về trách nhiệm trước lịch sử, có tư thế đại diện cho sức mạnh của dân tộc và thời đại.

Đối diện với chiến tranh, với sự sống và cái chết chỉ trong gang tấc, họ vẫn sống giản dị, bình tâm, vẫn ca hát, vẫn xao xuyến trước một nhành hoa, trước vẻ đẹp thanh xuân của một cô gái... Đó là sự hồn nhiên cao đẹp của người anh hùng, trong cái chết vẫn nghĩ về sự sống, trong gian lao vẫn nghĩ  tới ngày mai, tới tương lai, hoà bình.

Phạm Tiến Duật cất tiếng nói về những người lính, về thế hệ của chính mình mình, thế hệ những người tự nguyện, ý thức về trách nhiệm của mình với dân tộc, đất nước, đồng thời cũng là thể hiện ý chí của cả dân tộc:

Ta đi hôm nay không còn là sớm

Đt nước hành quân mấy chục năm rồi

Ta đi hôm nay cũng là chưa muộn

Đt nước còn đánh giặc không thôi.

(Co những đạo quân tuyên truyền, chào những đạo quân nghệ thuật)

Người lính của Phạm Tiến Duật  hiểu rằng lên đường ra trận, chiến đấu vì Tổ quốc, vì nhân dân là một điều nên làm, phải làm, không có gì phải băn khoăn, do dự. Tấm lòng của họ đối với Tổ quốc không bao giờ thay đổi:

Anh đi buổi sáng hôm nay

Đã thay áo khác chẳng thay sắc lòng

Tc sau vẫn một màu hồng

Mt lần ta đã nhuộm cùng nước non

(Thay áo)

Chàng lính trẻ Phạm Tiến Duật ngày ấy cũng là một đại diện dân tộc với niềm tự hào được sống trên đất nước có sức sống mãnh liệt. Sức sống ấy như ngọn lửa được truyền từ đời này sang đời khác :

Trên đất nước đêm đêm

Sáng những ngọn đèn

Mang lửa từ ngàn năm về trước

Ly từ thuở hoang sơ

Giữ qua đời này, đời khác.

(La đèn)

Đây là ngọn lửa của lòng yêu nước, của lòng tự hào dân tộc. Ngọn lửa đó giúp cho người dân đất Việt giữ được bản sắc của riêng mình dù có trải qua bao sóng gió, thăng trầm của lịc h sử.

Mch đất ta dồi dào sức sống

                                                            Nên nhành cây cũng thắp sáng quê hương.

                                                                          (La đèn)

                    Nếu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cảm nhận về vẻ đẹp của đất nước từ chiều sâu văn hoá, lịch sử, từ phong  tục tập quán lâu đời của đất nước:

     Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

     Đt nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể

    Đt nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

    Đt nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

                                                                                        (Mt đường khát vọng)

Chế Lan Viên lại cảm nhận đất nước mình đẹp từ truyền thống đánh giặc và làm thơ:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyn Du viết Kiều đất nước hoá thành văn.

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?)

Còn với Phạm Tiến Duật giữa chiến tranh, ông vẫn lắng nghe những âm thanh rất cụ thể của đời thường để rồi cảm thấy trong đó những tiềm lực dồi dào, mãnh liệt, thúc đẩy những đoàn quân ra trận.  Tiếng đàn vẫn "kể chuyện tình thánh thót " (Đàn tam thập lục thủ đô ta) giữa đạn bom, câu hò, tiếng hát vẫn ngân dài trên bước đường hành quân ra mặt trận:

      Đêm nay trên xe anh đi không ngủ

Nghe câu hò đất nước sinh sôi.

                                                               (Nghe hò đêm bốc vác)

Đất nước sôi sục khí thế chiến đấu, toàn quân, toàn dân lên đường bảo vệ tổ quốc, họ tạo thành một sức mạnh vĩ đại khiến ta không tự hào và khâm phục về đất nước, dân tộc mình:

    Đi giữa rừng sâu

    Câu hỏi lớn như gió rừng thổi mãi

      Rng dân tộc ta những năm tháng ấy

        Đưa lên rừng mấy chục vạn người con

       Không thể nói là không đói không sốt

    Ở giữa rừng sâu hàng chục năm trời

    Nghĩ gì và bằng cách nào rừng ơi

                                              Mà vẫn sống, vẫn ung dung đánh thắng

                                                                          (Đi trong rừng)

Người lính trong trong thơ Phạm Tiến Duật, ngay cả tình yêu, nỗi nhớ cũng mang màu sắc công dân, cũng được sử thi hoá, cái tôi trong cái ta, cái riêng trong cái chung:

Mà lúc nhớ nhau cũng nghĩ về đất nước      

Ngày thắng giặc đang tới gần phía trước

Tình yêu nào không nhắc đến ngày mai.

(Mt giờ và mười phút)

Hoà chung trong cộng đồng, cất tiếng nói của dân tộc, của giai cấp, những người lính là người cảm nhận sâu sắc nhất tội ác của kẻ thù, thứ tội ác đã biến thành chủ nghĩa:

                                   Bên kia đỉnh đồi chúng nó là ai

            Là nguỵ Đông Dương hay là giặc Mỹ

     Khi cái ác đã biến thành chủ nghĩa

Rt nhiều thứ màu đen hiện hình.

(Nhng mảnh tàn lá)

Màu đen tàn khốc của chiến tranh, màu đen của sự huỷ diệt mà kẻ thù gieo rắc trên đất nước này  làm nhức nhối, làm sục sôi, làm đau đớn bao người và sự đau đớn ấy biến thành hành động:

Quân ta bao vây đã dầy như nêm

Cái ác không còn nơi lẩn trốn

Trừ mưa ra, ngày mai bầu trời không có gì rơi xuống

Chỉ có chim bay và bướm bay.

(Nhng mảnh tàn lá)

Đó không chỉ là cảm xúc và hành động của một cá nhân mà là của cả một thế hệ.

Với nhà thơ Tố Hữu, những điển hình xã hội đã đi vào thơ ông bằng cảm hứng thán phục, ngợi ca: anh Trỗi, chị Trần Thị Lý, mẹ Tơm, mẹ Suốt... Với Lê Anh Xuân là anh chiến sỹ giải phóng quân với "dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ". Còn với Phạm Tiến Duật, thơ ông hướng tới những con người đang ngày đêm sống trong bom đạn, sống trong những cánh rừng già. Nhà thơ hướng về họ bằng tình cảm yêu thương, ngưỡng mộ chân thành. Đó là tình cảm đồng đội, tình đồng bào, đồng chí. Trong con mắt, trong cách cảm, cách nghĩ của Phạm Tiến Duật, con người thời đại đã làm được những điều s iêu phàm, dù người trong cuộc cũng khó có thể tin. Nhưng chính những điều tưởng chừng "không thể tin" ấy đã hun đúc thành "niềm tin có thật" vào sức mạnh kỳ diệu của những con người trên đất nước mình:

- Ôi vai em, có phải vai bà Nữ Oa không nhỉ

                                       Du chẳng vá trời cũng đắp được Trường Sơn.

                                                                                  (Nghe hò đêm bốc vác)

- Dng tay cuốc khi em ngoảnh lại

Sẽ giật mình đường ta mới xây

 Đã có độ dài hơn cả độ dài

     Ca đường xá đời xưa để lại.

(Gi em cô thanh niên xung phong)

Bằng những cảm xúc lãng mạn cách mạng về hiện thực trong thơ, Phạm Tiến Duật đã dựng được những tượng đài bất hủ về những người lính với khát vọng ý chí mãnh liệt của dân tộc, họ là những con người rất đỗi giản dị, nhưng lại rất sâu sắc, bởi họ mang bên mình ý chí, khát vọng dân tộc, khát vọng độc lập, tự do!

Bản chất của người lính trong thơ Phạm Tiến Duật cũng là bản chất của lớp lớp thanh niên Việt Nam, lớp lớp con người Việt Nam, họ chính là hiện thân của khát vọng và ý chí mãnh liệt của dân tộc.  Cái bản chất ấy chính là lòng yêu nước thiết tha, sự chân chất, giản dị, mộc mạc của mỗi con người cùng với sự căm thù giặc sâu sắc và dẫu có đối mặt với sự khốc liệt của chiến tranh, đối mặt với sự mất mát, hy sinh, họ vẫn luôn là những con  người có sức sống mãnh liệt như Bác Hồ đã từng nói: dân tộc ta có lòng yêu nước nồng nàn, bình thường, lòng yêu nước đó được cất kỹ trong rương, hòm nhưng khi đất nước có giặc xâm lăng thì lòng yêu nước ấy trở nên mạnh mẽ, nó như một làn sóng ào ạt, dữ dội quét sạch bè lũ cướp nước!

 


KT LUẬN

 

Phạm Tiến Duật thuộc thế hệ các nhà thơ Việt Nam có trang lí lịch mang nét đặc trưng của một thời kỳ “máu lửa”: sinh ra cùng cách mạng, lớn lên được nuôi dưỡng trên ghế của nhà trường xã hội chủ nghĩa và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc.

Hiện thực chiến trường và con đường Trường Sơn huyền thoại mang tên Hồ Chí Minh đã giúp Phạm Tiến Duật tự phát hiện mình, phát hiện chất thơ của thế hệ mình và thuyết phục sự đồng cảm của người đọc bằng những phẩm chất trữ tình tươi trẻ, đầy lãng mạn. Chùm thơ của Phạm T iến Duật được giải nhất trong cuộc thi thơ do báo Văn nghệ tổ chức năm 1969 - 1970 gồm bốn bài: Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Lửa đèn, Nhớ, Gửi em cô thanh niên xung phong đều viết về cuộc sống chiến đấu và sinh hoạt chiến trường của bộ đội và thanh niên xung phong trên đường mòn Hồ Chí Minh. Chùm thơ được giải của này của ông đã để lại trong lịch sử văn học hiện đại một mốc son chói lọi về một thời kỳ thơ Việt Nam - đ i tìm cái đẹp trong các sự kiện, biến cố cách mạng, thấm đẫm chất sử thi hào hùng của một thế kỉ đầy biến động.

Khuynh hướng sáng tác trong thơ Phạm Tiến Duật, nói như nhà nghiên cứu văn học Lê Đình Kỵ, là "khám phá cái đẹp của những con người cùng thời từ trong các diễn biến sôi động của cuộc sống chiến đấu". Tài năng và nhiệt huyết, lí tưởng của Phạm T iến Duật đã gặp được mảnh đất hiện thực màu mỡ và để lại một phong cách thơ rõ nét thông qua hệ thống hình tượng độc đáo về người lính Trường Sơn.

Thơ Phạm Tiến Duật là thơ viết ở chiến trường, lấy cái thực ở chiến trường làm cốt lõi. Nhà thơ không né tránh bất cứ một thứ chất liệu nào, chi tiết nào, miễn là đời sống có nó và nó là cuộc sống mà nhà thơ nếm trải.

Nhiều bài thơ, Phạm Tiến Duật đã xây dựng được hình tượng người lính lái xe, người lính công binh,  những cô gái thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn trở thành những hình tượng mẫu mực  của thơ trữ tình cách mạng: đó là người lính lái xe trên những chiếc xe không kính, người nữ thanh niên xung phong quê ở "Thạch Kim - Thạch Nhọn", những cậu lính trẻ măng giữa bom đạn ác liệt vẫn cất tiếng hát khi b iết bên cạnh hầm mình có cô gái đang nghe... Xây dựng hình tượng nghệ thuật về con người bằng chất liệu thực của đời sống, các thế hệ nhà thơ đi trước đã từng làm. Nhưng Phạm T iến Duật độc đáo ở chỗ, từ những chi tiết bề bộn, những sự kiện rậm rịt của đời sống, ông đã nhìn ra chất thơ ẩn giấu trong đó.

Phạm Tiến Duật đã tạo  được  "thương hiệu"  riêng cho  thơ mình không chỉ là hình tượng những con người chiến đấu trên tuyến đường Trường Sơn mà còn bằng sức hấp dẫn, quyến rũ của ngôn ngữ thơ trẻ trung, tinh nghịch, hóm hỉnh, đôi khi cả sự "kênh kiệu" trữ tình khó lẫn với thơ người khác.

Vẫn có rất nhiều bí ẩn cần khám phá ở những ánh thơ Phạm Tiến Duật. Hy vọng, cùng với thời gian và có điều kiện thuận lợi, đề tài sẽ được phát triển và mở rộng ra nhiều hướng nghiên cứu  khác.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

 

1.      Nhị Ca (1970), Giữa chiến trường nghe tiếng bom rất nhỏ”, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (10), HN.

2.      Nguyễn Minh Châu (1973), Người viết trẻ giữa cánh rừng già “, Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số (7), HN.

3.      Phạm Tiến Duật (1995), Nửa thế kỷ thơ Việt Nam (1945 - 1975) - Sự bừng tỉnh của cảm hứng dân tộc, Văn nghệ, số (45).

4.      Phạm Tiến Duật (1970), Vầng trăng quầng lửa, Nxb Văn học, HN.

5.      Phạm Tiến Duật (1971), Thơ một chặng đường, Nxb QĐND, HN.

6.      Phạm Tiến Duật (1981), Ở hai đầu núi, Nxb Tác phẩm mới, HN.

7.      Phạm Tiến Duật (1983), Vầng trăng và những quầng lửa, Nxb Văn học, HN.

8.      Phạm T iến Duật (1994), Tuyển tập thơ một chặng đường, Nxb QĐND, HN.

9.      Hữu Đạt (1996), Ngôn ngữ thơ Việt Nam, Nxb Giáo dục, HN.

10. Hà Minh Đức (1974), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, HN.

11. Lê Bá Hán - Nguyễn Khắc Phi - Trần Đình Sử (2006), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, HN.

12. Trần Đăng Suyền (2002), Mấy ghi nhận về thế hệ các nhà thơ trẻ thời kì chống Mỹ. Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tạo, Nxb Văn học, HN.

13. Vũ Văn Sỹ (2007), “Phạm Tiến Duật, người "chứa được Trường Sơn nhiều nhất"..., Tạp chí Nhà văn, số (12), HN.

14. Nhiều tác giả (1984), Nhà thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, HN.




 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024