RỐI LOẠN CHỨC NĂNG TRONG BỆNH TIM
I. ĐẠI CƢƠNG
Ngƣời mắc bệnh tim thƣờng tìm đến thầy thuốc vì một số triệu chứng do rối loạn chức
năng của tim khi suy. Trong các rối loạn đó có những triệu chứng có giá trị chỉ điểm
nhƣng cũng có vài triệu chứng không đặc hiệu cho bệnh tim.
Một số ngƣời có những triệu chứng này cứ tƣởng là mình thực sự bị bệnh tim nên lo lắng
và cứ đi khám bệnh luôn. Vì thế ta cần phân biệt:
- Các triệu chứng đặc hiệu.
- Các triệu chứng không đặc hiệu.
Để đánh giá đúng mức giá trị từng loại triệu chứng, giúp ích cho chẩn đoán và điều trị, ta
cần nhắc lại những nét chính về sinh lý của tim:
1. Bình thƣờng tim có nhiệm vụ:
a. Lƣu thông máu trong cơ thể: máu từ tim trái ra ngoại vi và từ ngoại vi về tim phải để
lên phổi rồi trở về tim trái, sự lƣu thông đó đảm bảo nhu cầu của cơ thể về cung cấp oxy
từ oxyhemoglobin và thải trừ khí cacbonic từ cacboxyhemoglobin.
b. Tim có liên quan chặt chẽ với phổi qua hệ thống tiểu tuần hoàn để thực hiện viêc cung
cấp oxy và thải tiết CO2.
c. Sự dinh dƣỡng của cơ tim đƣợc bảo đảm nhờ hệ thống động mạch vành.
d. Sự điều hoà nhịp tim do hai hệ thống thần kinh: trung ƣơng và nội tâm.
2. Trong trƣờng hợp bệnh lý:
Tim bị suy không đảm bảo đƣợc nhiệm vụ nữa, nên:
a. Sự lƣu thông máu bị rối loạn: máu ứ lại ở hệ thống tiểu tuần hoàn, cụ thể là ở phổi nên
ngƣời bệnh khó thở và ho ra máu. Đồng thời máu ứ ở gan, làm gan to ra, ứ ở ngoại biên
làm thoát dịch ra khoảng gian bào, gây nên phù.
b. Sự thải tiết CO2 không đƣợc đảm bảo, lƣợng hemoglobin khử tăng lên gây ra xanh tím.
c. Tim phải làm việc nhiều hơn, đập nhanh hơn để cố gắng đảm bảo nhu cầu, cho nên
ngƣời bệnh hồi hộp đánh trống ngực, cũng có thể do thần kinh tim bị rối loạn gây ra triệu
chứng này.
d. Cơ tim không đƣợc nuôi dƣỡng tốt, do bệnh tim mạch hoặc bệnh toàn thân, ví dụ bệnh
xơ vữa động mạch vành bị tắc hoặc bị co thắt gây ra cơn đau tim.
e. Màng ngoài tim cũng nhƣ màng trong tim bị viêm có thể gây ra những triệu chứng đau
nhói vùng tim.
II- CÁC TRIỆU CHỨNG CHỦ QUAN TRONG BỆNH TIM
A- TRIỆU CHỨNG ĐẶC HIỆU
1. Khó thở:
Khó thở trong bệnh tim là một triệu chứng phổ biến có giá trị chẩn đoán và tiên lƣợng
bệnh. Ta có thể chia khó thở ra làm ba loại:
- Khó thở khi gắng sức.
- Khó thở thƣờng xuyên.
- Khó thở xuất hiện từng cơn.
a. Khó thở khi gắng sức, ngƣời bệnh thấy:
- Khó thở khi lên dốc, lên cầu thang, kh đi nhanh hoặc làm việc nặng.
- Khi nghỉ ngơi thì không khó thở nữa.
- Nhƣng dần dần sẽ dẫn tới giai đoạn khó thở thƣờng xuyên.
b. Khó thở thƣờng xuyên. Xảy ra sau một thời gian bị khó thở khi gắng sức. Ở giai đoạn
này, ngƣời bệnh không làm việc gì nặng, nằm cũng khó thở (khó thở do tƣ thế) cho nên
ngƣời bệnh thƣờng mất ngủ hoặc phải ngồi ngả lƣng mà ngủ. Khó thở thƣờng xuyên
chứng tỏ tim đã bị suy nặng.
c. Khó thở xuất hiện từng cơn. Gặp trong các trƣờng hợp.
Phù phổi cấp. Loại thở này có thể xuất hiện ở một ngƣời có bệnh tim rồi bây giờ bị
suy tim đột ngột, cũng có thể là một tai biến xảy ra tức thời ở một ngƣời trƣớc đó bị bệnh
tim nhƣng không thể hiện ra các rối loạn chức năng gì, hoặc cũng có thể xảy ra ở một
ngƣời hoàn toàn không có bệnh tim. Ví dụ: ngộ độc bởi hơi độc, tai biến khi dùng
adrenalin tiêm mạch máu, tai biến trong bệnh viêm thận, bệnh thần kinh, v.v...
+ Hoàn cảnh xuất hiện: cơn phù phổi cấp thƣờng xảy ra ban đêm hoặc xảy ra khi có một
điều kiện thuận lợi cho bệnh phát sinh nhƣ: gắng sức, bị thêm một bệnh nhiễm khuẩn
khác, khi bị lạnh, v.v...
+ Triệu chứng: ngƣời bệnh thấy ngứa cổ họng, ho khan từng cơn và sau đó chừng 15
- Tức ngực, khó thở dữ dội, ngƣời bệnh phải ngồi mà thở, sau đó bị xanh tím và:
+ Khạc ra rất nhiều đờm bọt hồng.
+ Thần kinh bị kích động, hốt hoảng.
Nếu khám sẽ thấy:
+ Tim đập rất nhanh.
+ Hai phổi có nhiều rên nhỏ hạt, lúc đầu là rên nổ ở hai đáy phổi, các rên cứ tăng nhiều
nhƣ nƣớc triều dâng dần lên đến mức cả hai phế trƣờng toàn rên ẩm.
+ Xét nghiệm đờm có nhiều protein và xét nghiệm nƣớc tiểu cũng có protein thoáng qua.
Đây là một trƣờng hợp cấp cứu nội khoa, cần phải xử trí ngay, nếu chậm ngƣời bệnh sẽ
Cơn hen tim: cũng là một loại khó thở cấp gặp ở các ngƣời bị bệnh tim. Hoàn cảnh
xuất hiện cũng giống nhƣ trong phù phổi cấp.
Triệu chứng:
- Ngƣời bệnh thở hổn hển, có cảm giác nhƣ thiếu khí phải ngồi dậy để thở.
- Mặt, môi xanh tím.
- Tim đập rất nhanh.
- Khám phổi thấy nhiều rên khô (rên rít và rên ngáy) giống nhƣ trong cơn hen phế quản.
Từ trạng thái này ngƣời bệnh có thể qua khỏi do điều trị, nhƣng cũng có thể nặng hơn và
dẫn tới cơn phù phổi cấp.
Khó thở cấp trong nhồi máu phổi:
- Hoàn cảnh xuất hiện: đây là một biến chứng tắc động mạch phổi xảy ra do cục máu
đông tại chỗ hoặc cục máu ở nơi khác do dòng máu chạy tới làm tắc động mạch phổi.
Biến chứng này thƣờng gặp:
+ Ở những ngƣời bị bệnh tim, đặc biệt là bệnh van hai lá có suy tim.
+ Những ngƣời bị viêm tĩnh mạch.
+ Những ngƣời vừa mới bị sẩy, đẻ hoặc sau khi mổ tuần đầu.
- Triệu chứng:
+ Đau dữ dội ở ngực nhƣ xé ngực, có ngƣời bệnh ngã xuống chết ngay.
+ Khó thở, thở nhanh.
+ Sau 24 đến 48 giờ, ngƣời bệnh sốt, khạc đờm ra lẫn máu.
- Khám thấy ở vùng ngực đau:
+ Một ổ rên nổ khu trú, có thể thấy hội chứng đông đặc. Cũng có thể: Phản ứng tiết dịch
màng phổi nhiều (thanh dịch hay có máu) làm cho ta không nghe đƣợc rên nổ nữa, mà
chỉ thấy hội chứng tràn dịch màng phổi.
+ Tim đập nhanh
+ Soi Xquang có thể thấy hình mờ tam giác, trong trƣờng hợp điển hình, nhƣng thƣờng
thì hình mờ này bờ không rõ rệt, hình này tồn tại từ 3 đến 6 tuần dù đƣợc điều trị.
d. Bệnh sinh của khó thở trong bệnh tim:
Bệnh sinh của các cơn khó thở cấp và cơn hen tim: chủ yếu là do vai trò của hiện
tƣợng xung huyết phổi, xung huyết phổi cản trở hô hấp vì:
- Ngăn cản sự khuếch tán oxy nên máu kém bão hoà oxy.
- Tổ chức phổi xung huyết kém đàn hồi, căng ra khó, thu lại cũng hạn chế, do thở nóng
nhƣ vậy nên ngƣời bệnh bị suy hô hấp, thiếu oxy và ứ lại khí cacbonic gây khó thở.
- Ngƣời ta đã chứng minh vao trò của xung huyết phổi trong cơn khó thở cấp, vì hâu nhƣ
loại khó thở này chỉ gặp ở những ngƣời bị bệnh tăng huyết áp, bệnh lỏ động mạch chủ,
bệnh van hai lá, động mạch vành và các trƣờng hợp suy thất trái. Nhiều tác giả đã khảo
sát về huyết động trong các trƣờng hợp đó thấy khối lƣợng máu qua phổi tăng lên, đồng
thời dung tích sống giảm xuống.
Trong lâm sàng cũng thấy rõ biểu hiện xung huyết phổi trong cơn khó thở: các rên ở phổi
xuất hiện nhiều dần, tiếng thứ hai của tim ở ổ động mạch phổi mạnh lên, có khi mạnh
hơn cả tiếng thứ hai ở ổ động mạch chủ ngay trong những ngƣời bệnh cao huyết áp.
Trong giấc ngủ, có sự tăng cƣờng của hoạt động thần kinh phế vị, gây xung huyết phổi,
co thắt cơ trơn nên dễ làm cho cơn hen tim xuất hiện.
) Trong cơn phù phổi cấp: Cũng do yếu tố xung huyết tiểu tuần hoàn, áp lực mao mạch
phổi tăng vƣợt áp lực keo của huyết tƣơng, cho nên phù phổi cấp hay xuất hiện ở các
ngƣời bệnh suy thất trái hay nhĩ trái, vì các trƣờng hợp này có xung huyết phổi và cao áp
mao mạch phổi, máu ứ trệ lâu, gây tổn hại thành mao mạch, dễ để huyết tƣơng thăm qua
rồi vì một nguyên do thuận lợi, đột nhiêm giảm lƣu lƣợng tim trái mà tim phải còn khoẻ
thì phù phổi cấp xuất hiện vì tim phải tống một lƣợng máu khá nhiều mà tim trái, vì yếu
không tiêu lƣợng máu ấy đi kịp. Ví dụ khi truyền một lƣợng lớn huyết thanh, khi gắng
sức, khi có thai giai đoạn sắp đẻ, khi sản phụ mới đẻ hoặc khi ăn nhiều muối. Chính vì
thế nên trong phù phổi cấp, ngƣời ta chích máu hoặc buộc garo để làm giảm lƣu lƣợng
máu tĩnh mạch trở về tim.
) Trong suy tim phải: do ứ máu ở ngoại vi, làm giảm áp lực riêng phần suy và tăng áp
lực CO2 trong tĩnh mạch, thiếu oxy ở xoang cảnh và trung tâm thở, sẽ gây khó thở. Cũng
do ứ máu, dẫn tới tràn dịch màng phổi, màng bụng làm cản trở hoạt động của phổi, của
cơ hoành và gây khó thở.
Các yếu tố thể dịch và huyết động trong khó thở.
- Vai trò lƣu lƣợng máu: có kiến thức cho rằng do lƣu lƣợng máu trong suy tim giảm nên
trung tâm hô hấp bị thiếu nuôi dƣỡng gây khó thở.
- Vai trò Oxy và CO2: ở ngƣời suy tim có hiện tƣợng thiếu oxy trong mô vì áp lực riêng
phần oxy trong tĩnh mạch hạ xuống trong khi áp lực CO2 trong tĩnh mạch tăng lên, buộc
cơ thể thích nghi bằng thông khí nhanh nên khó thở.
- Trong tƣ thế nằm ngƣời bị bệnh tim thƣờng khó thở vì ở trong tƣ thế này khối lƣợng
máu ở phần dƣới cơ thể dồn lên làm xung huyết phổi, máu lại khó lƣu thông do ứ trệ
ngoại vi nên khó thở.
2. Ho ra máu:
Trong các bệnh tim, ho ra máu thƣờng xảy ra trong ba trƣờng hợp:
- Hẹp van hai lá, trƣờng hợp này thƣờng gặp nhất.
- Tác động mạch phổi gây nhồi máu phổi.
- Trƣờng hợp suy tim trái (phù phổi cấp).
a. Cơ chế:
Trong bệnh hẹp van hai lá, do sự cản trở của dòng máu từ nhĩ trái về thất trái, máu ứ
lại ở phổi làm áp lực mao mạch phổi tăng lên, có thể làm vỡ các mao mạch và ngƣời
bệnh bị ho ra máu.
Trong trƣờng hợp tắc động mạch phổi, vì các mạch tắc gây hƣ hại nội mạc của mạch,
đồng thời có những hiện tƣợng phản ứng xung quanh gây giãn mạch, thoát huyết quản và
dễ bị viêm nhiễm làm hƣ hại các mô nên ngƣời bệnh khạc ra máu lẫn những mảnh mô bị
huỵ hoại.
Trong các trƣờng hợp phù phổi cấp, cơ chế ho ra máu cũng tƣơng tự nhƣ trong hẹp
van hai lá, ở đây cũng có yếu tố xung huyết phổi và tăng thâm tính mao mạch phổi,
nhƣng thƣờng xảy ra khi lƣu lƣợng tuần hoàn phía tim phải vẫn nhiều nhƣ lúc bình
thƣờng, hoặc tăng hơn do yếu tố bên ngoài (ví dụ truyền nhiều dịch vào chẳng hạn) nên
huyết tƣơng tràn ngập phế nang, ngƣời bệnh khạc ra rất nhiều bọt hồng.
b. Đặc tính của ho ra máu trong bệnh tim:
Trong trƣờng hợp phù phổi cấp, ngƣời bệnh sùi ra bọt hồng là chính nên dễ phân biệt và
cũng khó lầm.
Còn các trƣờng hợp hẹp van lá nhồi máu phổi thì máu ra thƣờng ít, lẫn với đờm; muốn
phân định xem ho ra máu thuộc nguyên nhân bệnh tim hay bệnh phổi ta cần kết hợp thêm
khám tim phổi ngƣời bệnh, cần lƣu ý xem có tổn thƣơng van hai lá không, dựa vào bệnh
cảnh cấp tính, đau ngực dữ dội và khó thở là những triệu chứng của nhồi máu phổi, đồng
thời cần xem hình ảnh Xquang phổi, vì trong đa số trƣờn hợp nếu có tổn thƣơng ở các
đỉnh phổi và phế trƣờng thể hiện bởi hình mờ không đồng đều hoặc hình hang thì nghĩ
nhiều đến lao phổi và phải thử đờm nhiều lần tìm vi khuẩn lao, một số ít trƣờng hợp khác
bị ho ra máu là ung thƣ phổi và giãn phế quản thì phải có diễn biến từ trƣớc và có thể
chẩn đoán và sinh thiết hạch thấy tế bào ung thƣ (trƣờng hợp ung thƣ), thấy hình giãn phế
quản khi chụp phế quản có chất cản quang (trƣờng hợp giãn phế quản).
3. Xanh tím. Màu sắc da và niêm mạc ngƣời bệnh bị tím có thể ở mức độ:
- Tím ít: chỉ tím môi, móng tay, móng chân, có khi chỉ xuất hiện khi ngƣời bệnh làm việc
nặng kèm với khó thở hoặc khi em bé khóc.
- Tím nhiều: Dễ phát hiện: thầy thuốc, ngƣời nhà ngƣời bệnh và bản thân ngƣời bệnh
cũng thấy. Thƣờng là tím ở môi, lƣỡi, đầu ngón tay, ngón chân. Xanh tím xuất hiện khi
lƣợng Hemoglobin khử trong máu mao mạch có trên 5g trong 100ml máu (hậu quả của
sự rối loạn thải tiết khí cacbonic từ cacboxyhemoglobin).
Xanh tím trong bệnh tim mạch xảy ra trong các trƣờng hợp sau:
- Các bệnh tim bẩm sinh có luồng máu thông từ tim phải sang tim trái nên máu tĩnh mạch
qua trộn vào máu động mạch.
- Khi suy tim do tuần hoàn bị cản trở.
- Một số trƣờng hợp tím khu trú do các bệnh của mạch máu.
4. Phù:
a. Cơ chế: Trong giai đoạn suy tim có nhiều yếu tố phối hợp gây nên phù.
- Do máu ứ đọng ở ngoại vi nên huyết áp tĩnh mạch cao lên (thƣờng là trên 17cm nƣớc).
- Áp lực keo của máu giảm xuống.
- Đồng thời có rối loạn thẩm tính của mao mạch.
- Và sự thải tiết muối không thực hiện đƣợc đầy đủ, muối ứ lại trong cơ thể.
b. Tính chất phù trong bệnh tim:
- Phù lúc đầu khu trú ở chi dƣới, dần dần về sau xuất hiện ở bụng, ngực, và toàn thân
hoặc ứ trong các ổ màng bụng, màng phổi.
- Da và niêm mạc có thể hơi tím vì tỵ lệ bão hoà oxy giảm trong máu.
- Có kèm theo các triệu chứng của suy tim nhƣ khó thở, gan to, tĩnh mạch cổ nổi,v.v...
- Nếu phù mới hình thành thì có thể điều trị cho hết phù nhƣng nếu diễn biến lâu hoặc
không đƣợc điều trị cho đầy đủ, bệnh cảnh suy tim sẽ dẫn theo hiện tƣợng tăng chất
andosteron trong máu, vì thế Na+ lại bị giữ trong cơ thể, ngƣời bệnh càng phù và suy tim
không hồi phục đƣợc.
5. Đau vùng trƣớc tim:
Đau vùng trƣớc tim là một triệu chứng làm cho ngƣời bệnh và cả thầy thuốc chú trọng
đến hệ tuần hoàn, nhƣng không phải cứ có đau vùng tim là nhất thiết phải có bệnh tim.
Trƣớc một trƣờng hợp đau vùng trƣớc tim ta cần nói thêm:
- Tuổi: cần biết tuổi ngƣời bệnh vì có những trƣờng hợp đau trƣớc tim chủ yếu xuất hiện
ở ngƣời đứng tuổi.
- Hoàn cảnh xuất hiện đau: Ví dụ: đau đột ngột hoặc sau khi gắng sức khi bị lạnh,v.v...
- Vị trí, cƣờng độ và hƣớng lan của đau: Ví dụ: đau ở mỏm tim hay sau xƣơng ức, đau dữ
dội hay chỉ lâm râm, đau đóng khung ở một chỗ trƣớc tim, hay còn lan lên vai, ra cánh
tay,v.v...
- Thời gian đau: Đau vài chục giây, vài phút hay kéo dài?. Những tính chất đó đều giúp
ích để chẩn đoán và phân loại đau:
a. Phân loại đau vùng trƣớc tim:
Ta chia làm hai loại:
- Đau từng cơn.
- Đau thƣờng xuyên.
Đau từng cơn. Điển hình nhất là cơn đau tim:
- Cơn đau tim hay xuất hiện ở ngƣời có tuổi (ngoài 40 tuổi).
- Hoàn cảnh xuất hiện: ngƣời bệnh hay bị đau lúc gắng sức (nhƣ đi lên cầu thang, lên
dốc, chạy nhanh), khi bị luồng gió lạnh, khi xúc cảm, đôi khi xuất hiện đau sau khi ăn
một bữa thịnh soạn, có khi xuất hiện cơn đau tim sau khi cơ tim đập nhanh.
- Vị trí đau và hƣớng lan: Đau sau xƣơng ức lan lên vai trái, xuống phía trong cánh tay và
cẳng tay rồi lan sang hai ngón tay thứ tƣ và thứ năm.
- Cƣờng độ đau: ngƣời bệnh đau dữ dội nhƣ dao đâm, có cảm gíc nhƣ có một vật rất nặng
đè ép lên lồng ngực, bóp nghẹt trái tim lại, đồng thời ngƣời bệnh hốt hoảng, lo lắng có
cảm tƣởng là sắp chết.
- Thời gian đau: thƣờng rất ngắn, từ vài giây đến vài phút. Nếu cơn đau xuất hiện và kéo
dài quá nửa giờ là phải nghĩ đến khả năng tắc động mạch vành.
- Giá trị chẩn đoán: cơn đau tim xuất hiện là một triệu chứng đặc hiệu chứng tỏ ngƣời
bệnh bị thiểu năng động mạch vành, cơ tim bị kém dinh dƣỡng. Nguyên nhân gây thiểu
năng động mạch vành có thể là:
+ Xơ hoá động mạch vành do vữa xơ động mạch vành.
+ Viêm động mạch do giang mai.
+ Hẹp lỗ động mạch chủ.
+ Bệnh thấp
+ Bệnh thiếu máu.
+ Ở nƣớc ta, ít gặp cơn đau tim, ngay ở những ngƣời bị bệnh về động mạch vành cũng ít
có cơn đau. Cũng ở Việt Nam, trong số bệnh nhân tim mạch thì loại bệnh về động mạch
vành chỉ chiếm 3%, còn lại là bệnh tim do thấp chiếm 81% ( theo số liệu báo cáo của
giáo sƣ Đặng Văn Chung ở hội nghị tim mạch toàn Liên Xô lần thứ II (26-30 tháng 06
năm 1973).
+ Đồng thời với đau, ngƣời bệnh còn bị khó thở, ho, sốt.
+ Khám thực thể lấy các triệu chứng của viêm màng tim nhƣ: điện tim to ra, tiếng tim
mờ, tiếng cọ màng tim, dấu hiệu ST chênh lên ở các chuyển đạo trƣớc tim, hoặc dấu hiệu
giảm điện thế trên Điện Tâm Đồ.
Nhồi máu cơ tim: do một vùng của cơ tim không đƣợc dinh dƣỡng (thƣờng ở những
ngƣời nhiều tuổi). Trƣớc khi bị nhồi máu cơ tim, ngƣời bệnh cũng có một giai đoạn bị
cơn đau tim rồi đến một lúc thấy đau nhiều, đau lan rộng kéo dài, ngƣời bệnh rất lo lắng,
khó thở, có cảm giác sắp chết: dùng thuốc giảm đau mạnh nhƣ mocphin cũng không đỡ,
ngửi thuốc giãn động mạch vành nhƣ trinitrin cũng không đỡ (trong cơn đau tim dùng
thuốc này thì đỡ rõ rệt). Sau 2 đến 36 giờ có biến chuyển: ngƣời bệnh sốt, nghe tim thấy
có tiếng cọ màng tim, tiếng ngựa phi, đồng thời huyết áp tối đa tụt xuống.
Trong cơn đau ngƣời bệnh có thể chết cũng có thể qua khỏi những chƣa chắc đã thoát
chết vì dễ tái phát.
Có thể chẩn đoán sớm bệnh này nhờ đo men transaminaza, men lactatdehydrogenaza và
ghi điện tim. Lệnh này ở ta cũng hiếm, theo tài liệu của giáo sƣ Vũ Công Hoè tổng kết
11.657 trƣờng hợp mổ tử thi trong 18 năm, từ 1955 đến 1972 thì nhồi máu cơ tim chỉ
chiếm 0,069% tổng số ngừoi chết từ năm 1955 – 1964 và 0,18% tổng số ngƣời chết từ
năm 1965 đến 1972.
b. Đau vùng trƣớc tim cũng còn gặp trong một số bệnh ngoài tim nhƣ:
- Đau dây thần kinh liên sƣờn:
+ Đau dây thần kinh liên sƣờn từ trƣớc ra sau.
+ Nếu ta ấn ngón tay theo khoảng liên sƣờn, ta sẽ phát hiện các điểm đau là chỗ có nhánh
dây thần kinh liên sƣờn xuyên ra.
- Đau do viêm màng phổi trái, viêm phổi trái. Khám ngƣời bệnh sẽ thấy các triệu chứng
tràn dịch hoặc hội chứng đông đặc phổi trái.
6. Ngất:
Đó là một trạng thái bệnh xảy ra đột ngột làm ngƣời bệnh bất tỉnh, da tái nhợt, mất trí
giác. Khám ngƣời bệnh lúc đó sẽ thấy tim không đập hoặc đập rất chậm, rất khẽ, ngƣời
bệnh không thở hoặc nhƣ ngƣời ngạt thở. Ngất xảy ra vì máu không đủ trong hành não do
nhiều nguyên nhân: bệnh tim mạch, bệnh hô hấp, thần kinh, nội tiết...
a. Ngất trong các bệnh tim mạch (ngất tim). Do tim ngừng đập, ngƣời bệnh ở trong tình
trạng chết lâm sàng. Ngất có thể gặp trong tất cả các bệnh tim mạch, nhƣng thƣờng gặp
trong các bệnh.
- Blốc nhĩ thất hoàn toàn (hội chứng Stokes – Adams) vì tim đập chậm quá, dƣới 40 lần
mỗi phút nên não thiếu máu.
- Bệnh động mạch vành và cơ tim. Vì kém dinh dƣỡng, cơ tim không đủ sức đẩy nhiều
máu đến cung cấp đủ cho hành não.
- Bệnh hẹp van động mạch chủ. Vì máu từ thất trái ra đại tuần hoàn bị cản trở, giảm lƣu
lƣợng xuống nên não thiếu máu.
- Bệnh hạ huyết áp.
b. Ngất trong các bệnh không do tim mạch.
Ngất trong các bệnh hô hấp: do ngừng hô hấp nhƣ trƣờng hợp gây mê, trƣờng hợp bị
điện giật, chết đuối, viêm tuỵ xám, nhồi máu phổi, ngộ độc hơi độc (oxyt cacbon chẳng
Ngất trong rối loạn thần kinh: Cơ chế do phản xạ, gặp ở những ngƣời dễ cảm xúc,
trong trƣờng hợp chấn thƣơng vùng cảm thụ thần kinh nhƣ: chấn thƣơng thanh quản, dây
phế vị, đám rối dƣơng (đánh quyền anh), chấn thƣơng sọ não, v.v....
Ngất trong các bệnh đƣờng tiêu hoá: đầy hơi, viêm ruột, đặc biệt chảy máu đƣờng tiêu
hoá dễ gây ngất.
Hạ Glucoza huyết tự phát do ụ tuỳ cũng hay ngất.
) Các trƣờng hợp thiếu máu nặng cũng gây ngất.
Trên đây vừa kể triệu chứng của các bệnh tim, trong đó các triệu chứng: Khó thở, ho ra
máu, xanh tím,phù, cơn đau tim, ngất tim, là đặc hiệu cho bệnh tim, còn các triệu chứng
hồi hộp và đánh trống ngực không thật đặc hiệu cho bệnh tim.
B- TRIỆU CHỨNG CHỦ QUAN KHÔNG ĐẶC HIỆU
Hồi hộp và đánh trống ngực: đó là một cảm giác làm cho ngƣời bệnh chú ý và nghĩ tới
bệnh tim rồi nói với thầy thuốc.
Ngƣời bệnh có cảm giác tim đập nhanh và mạnh trong lồng ngực, có khi có cảm giác tim
ngừng lại một lúc nhƣ ngƣời bƣớc hụt chân, sau đó tim lại đập nhanh, đồng thời ngƣời
bệnh có cảm giác tức ngực, khó thở.
Cảm giác này thƣờng xuất hiện khi ngƣời bệnh gắng sức hoặc bị cảm giac mạnh. Hiện
tƣợng này có thể có trong bệnh tim: tất cả các trƣờng hợp suy tim, các rối loạn nhịp tim
nhƣ: nhịp tim nhanh, nhịp ngoại tâm thu, loạn nhịp hoàn toàn. Tuy vậy số ngƣời không bị
bệnh tim mà có triệu chứng hồi hộp lại rất nhiều, phổ biến gặp trong các trƣờng hợp sau:
- Cơ địa dễ xúc động, thần kinh giao cảm hoạt động mạch.
- Dùng nhiều chè, thuốc lá.
- Thiếu máu.
- Bệnh cƣờng tuyến giáp
- Các bệnh về tiêu hoá (chậm tiêu, viêm ruột).
- Các trƣờng hợp nhiễm khuẩn cấp và mạn tính.
https://docs.google.com/file/d/0B46ZvKoONc3-MndpWFF4b1FEZFE/edit?pli=1