Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
02/11/2010 18:11 # 1
no name
Cấp độ: 8 - Kỹ năng: 10

Kinh nghiệm: 33/80 (41%)
Kĩ năng: 15/100 (15%)
Ngày gia nhập: 26/03/2010
Bài gởi: 313
Được cảm ơn: 465
[ Đề Cương] Thuế GTGT


 

ĐỀ CƯƠNG GIỚI THIỆU

LUẬT tHUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG

 

Luật thuế giá trị gia tăng đầu tiên được thông qua ngày 10 tháng 5 năm 1997 tại kỳ họp thứ 11 Quốc hội khoá IX và có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 1999. Việc ban hành Luật thuế giá trị gia tăng để thay thế cho Luật thuế doanh thu theo Chương trình cải cách thuế bước II đã được Bộ chính trị, Quốc hội và Chính phủ thông qua. Trong quá trình triển khai thực hiện, Luật thuế giá trị gia tăng được sửa đổi, bổ sung nhiều lần nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam (Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005). Luật thuế giá trị gia tăng sau 9 năm thực hiện đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế - xã hội của đất nước và đã đạt được những mục tiêu đề ra của cải cách thuế bước II. Tuy nhiên, trước bối cảnh nền kinh tế đang tiếp tục chuyển đổi mạnh mẽ, hội nhập ngày càng sâu hơn, rộng hơn, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và các Luật sửa đổi, bổ sung Luật thuế giá trị gia tăng (sau đây gọi tắt là Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung) vẫn còn bộc lộ một số vấn đề cần phải xem xét để tiếp tục hoàn thiện. Theo đó, tại kỳ họp khoá XII, kỳ họp thứ 3, ngày 03 tháng 6 năm 2008 Quốc hội đã thông qua Luật thuế giá trị gia tăng (sửa đổi).

I.  SỰ CẦN THIẾT BAN HÀNH LUẬT

Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997, trong quá trình triển khai thực hiện đã được sửa đổi, bổ sung vào những năm đầu nhằm tháo gỡ kịp thời những vướng mắc phát sinh, phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của nước ta. Luật thuế giá trị gia tăng đã đi vào cuộc sống, tác động tích cực đến nhiều mặt kinh tế, xã hội của đất nước và đạt được mục tiêu đề ra. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, Luật thuế giá trị gia tăng còn bộc lộ một số hạn chế cần được tiếp tục hoàn thiện để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong tình hình mới:

Thứ nhất, về diện hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng :

Luật quy định 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng . Quy định này là phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước ta thời gian qua, tuy nhiên trong quá trình thực hiện và cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, một số hàng hoá, dịch vụ nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế giá trị gia tăng sẽ không còn  phù hợp, gây bất lợi cho sản xuất kinh doanh, bởi vì doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng sẽ không được tính thuế giá trị gia tăng cho người mua, như vậy, toàn bộ số thuế giá trị gia tăng đã trả khi mua các yếu tố đầu vào phục vụ cho sản xuất kinh doanh sẽ không được khấu trừ mà phải tính vào giá thành sản phẩm, từ đó làm tăng chi phí, giảm khả năng cạnh tranh của những hàng hoá, dịch vụ này trên thị trường trong nước và quốc tế. Do đó, cần rà soát để chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng  và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh.

Để phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế giá trị gia tăng  quy định một số dịch vụ tài chính cụ thể thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng nên trong thực tiễn thi hành, cùng với quá trình hội nhập và sự phát triển của thị trường tài chính đã xuất hiện ngày càng nhiều các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ,... (gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn. Vì vậy, các dịch vụ tài chính mới này cần được bổ sung vào Luật để đảm bảo cơ sở pháp lý trong quá trình thực hiện và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Thứ hai, về thuế suất thuế giá trị gia tăng:  

Năm 1997, khi ban hành Luật thuế giá trị gia tăng , mức thuế suất 5% là mức thuế suất ưu đãi, được áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, trước những khó khăn của nền kinh tế, Luật thuế giá trị gia tăng đã được sửa đổi, bổ sung nhiều lần để đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong từng thời kỳ, theo đó, diện áp dụng mức thuế suất 5% cũng được mở rộng và chưa theo đúng nguyên tắc nêu trên. Từ đó dẫn đến doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất này không những không phải nộp thuế mà còn được hoàn thuế từ ngân sách Nhà nước, do đó, cần thiết rà soát lại diện áp dụng mức thuế suất 5% để phù hợp với thực tiễn.

Luật thuế giá trị gia tăng vừa quy định chi tiết danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 5%, vừa quy định chi tiết danh mục hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10%. Trong thực tế, nhiều hàng hoá, dịch vụ mới phát sinh nhưng chưa có trong danh mục; mặt khác, tiêu chí phân định ranh giới áp dụng mức thuế suất chưa rõ ràng: vừa theo tên hàng hoá, dịch vụ, vừa theo công dụng hàng hoá, dịch vụ, vừa theo tính chất của hàng hoá, dịch vụ, dẫn đến việc áp dụng mức thuế suất không thống nhất, nảy sinh vướng mắc trong quá trình thực hiện. Ví dụ, sản phẩm cơ khí tiêu dùng áp dụng mức thuế suất 10%, sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất áp dụng mức thuế suất 5%, trên thực tế có những sản phẩm cơ khí không thể phân định được rõ ràng là dùng cho tiêu dùng hay dùng cho sản xuất.

Thứ ba, về điều kiện được khấu trừ, được hoàn thuế

Khấu trừ, hoàn thuế là việc doanh nghiệp được trừ hoặc được hoàn lại số thuế đã trả khi mua hàng hoá, dịch vụ phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Đây là một nội dung cơ bản, đặc thù riêng có, thể hiện tính ưu việt của thuế giá trị gia tăng, từ đó đã khắc phục việc thu trùng của thuế doanh thu trước đây, khuyến khích xuất khẩu.

Luật thuế giá trị gia tăng  năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định căn cứ khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào là hoá đơn giá trị gia tăng  mua hàng hoá, dịch vụ. Thực tiễn quản lý thuế thời gian qua cho thấy quy định nêu trên chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, dễ bị lợi dụng khấu trừ khống hoặc hoàn thuế khống thông qua việc sử dụng hoá đơn ghi chép không trung thực với thực tế giao dịch và các loại hoá đơn bất hợp pháp khác để gian lận trong khấu trừ, làm giảm số thuế giá trị gia tăng  phải nộp hoặc tăng số thuế giá trị gia tăng được hoàn khống rút tiền ngân sách, gây bất bình đẳng về nghĩa vụ thuế giữa các đối tượng nộp thuế, ảnh hưởng đến môi trường đầu tư. Trong thời gian vừa qua đã xuất hiện một loại tội phạm kinh tế mới - tội phạm mua, bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp để chiếm đoạt tiền thuế giá trị gia tăng của Nhà nước như một số đối tượng đã lợi dụng sự thông thoáng của Luật doanh nghiệp và quy định về điều kiện được khấu trừ thuế, được hoàn thuế nêu trên để thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích mua, bán hoá đơn kiếm lời bất chính (doanh nghiệp ma)....Để ngăn chặn tình trạng này, thời gian qua các cơ quan quản lý nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật, cơ quan thuế đã phối hợp để tăng cường các biện pháp quản lý, như: phối hợp trong việc cung cấp thông tin, điều tra, xử lý các vụ vi phạm,…; riêng cơ quan thuế đã áp dụng nhiều biện pháp quản lý hóa đơn, như yêu cầu doanh nghiệp đóng dấu, mã số thuế trên hoá đơn, kiểm tra đối chiếu hoá đơn giữa doanh nghiệp bán với các doanh nghiệp mua và ngược lại, gây tốn kém nhiều thời gian và chi phí, nhưng mới chỉ hạn chế được phần nào mà chưa thể chặn đứng được tình trạng gian lận nêu trên.

Thứ tư, về hình thức văn bản

Thuế giá trị gia tăng được thể hiện tại 3 văn bản Luật khác nhau là Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2003, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng năm 2005. Mặt khác, năm 2006, Luật quản lý thuế (đã được Quốc hội thông qua, có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2007) đã quy định các nội dung về quản lý thuế như đăng ký, kê khai, nộp thuế, xử lý vi phạm để thay thế cho các quy định về quản lý thuế trong các luật, pháp lệnh thuế đã được ban hành trước đây, trong đó có Luật thuế giá trị gia tăng. Với nhiều văn bản Luật cùng quy định về thuế GTGT nên chưa tạo thuận lợi cho việc tra cứu, áp dụng pháp luật.

 II. QUAN ĐIỂM CHỈ ĐẠO VIỆC XÂY DỰNG LUẬT

Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 được xây dựng dựa trên các nguyên tắc, quan điểm chỉ đạo như sau:

1. Đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với thông lệ quốc tế và đáp ứng yêu cầu hội nhập của Việt Nam trong những năm tới;

2. Đảm bảo cho chính sách thuế đơn giản, rõ ràng, minh bạch, khắc phục những hạn chế của Luật hiện hành, nhất là trong việc kê khai khấu trừ, hoàn thuế GTGT đầu vào, góp phần thúc đẩy cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả công tác quản lý thu thuế, tính tuân thủ pháp luật về thuế và đồng bộ với Luật quản lý thuế;

3. Từng bước thực hiện chương trình cải cách thuế; không gây biến động cho sản xuất, kinh doanh;

4.  Luật hoá những nội dung đã thực hiện ổn định sau 9 năm thi hành; trên cơ sở đó, đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước

 III. NHỮNG NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA LUẬT

1. Về kết cấu

Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008 gồm 4 Chương và 16 Điều. Như vậy, so với Luật thuế giá trị gia tăng  năm 1997 (gồm 7 Chương và 30 Điều) thì Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã giảm 14 Điều, tập trung vào các nội dung về thủ tục quản lý thuế (đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế, nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan thuế, quyền ấn định thuế, các quy định về xử lý vi phạm về thuế, khen thưởng, quyền và trách nhiệm của đối tượng nộp thuế trong khiếu nại về thuế, trách nhiệm và quyền hạn của cơ quan thuế trong việc giải quyết khiếu nại về thuế) và một số Điều về tổ chức thực hiện do đã được quy định tại Luật quản lý thuế năm 2006.

Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008 có bố cục như sau:

Chương I: Những quy định chung.

Chương này có 5 Điều (từ Điều 1 đến Điều 5) quy định những vấn đề chung nhất mang tính nguyên tắc gồm phạm vi điều chỉnh, khái niệm về thuế giá trị gia tăng, đối tượng chịu thuế, người nộp thuế, đối tượng không chịu thuế.

 Chương II: Căn cứ và phương pháp tính thuế

Chương này có 6 Điều (từ Điều 6 đến Điều 11) quy định  những vấn đề liên quan đến căn cứ tính thuế, giá tính thuế, thuế suất, phương pháp tính thuế, phương pháp khấu trừ thuế, phương pháp tính trực tiếp trên giá trị gia tăng.

Chương III: Khấu trừ, hoàn thuế

Chương này có 3 Điều (từ Điều 12 đến Điều 14) quy định  những vấn đề liên quan đến khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, các trường hợp hoàn thuế, hoá đơn chứng từ.

Chương IV: Điều khoản thi hành

Chương này có 2 Điều (Điều 15 và Điều 16) quy định hiệu lực thi hành của Luật là từ ngày 01 tháng 01 năm 2009 và trách nhiệm quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành của Chính phủ.

2. Một số nội dung cơ bản của Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008

2.1. Về phạm vi điều chỉnh:

Điều 1 Luật thuế giá trị gia tăng  quy định về đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ và phương pháp tính thuế, khấu trừ và hoàn thuế giá trị gia tăng. Đây là điều mới được quy định so với Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997. Trong đó, Luật đưa ra phạm vi điều chỉnh tương đối rõ ràng, tập trung vào các quy định về chính sách thuế giá trị gia tăng, các quy định về thủ tục quản lý thuế giá trị gia tăng do đã được quy định thống nhất tại Luật quản lý thuế năm 2006 như các sắc thuế khác nên không đưa vào quy định tại Luật.

2.2. Về người nộp thuế

Luật quy định người nộp thuế giá trị gia tăng là tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng (gọi chung là cơ sở kinh doanh) và tổ chức, cá nhân nhập khẩu hàng hoá chịu thuế giá trị gia tăng (gọi chung là người nhập khẩu). So với Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 thì khái niệm “người nộp thuế” đã được thay thế cho khái niệm “đối tượng nộp thuế” để thống nhất với quy định của Luật Quản lý thuế và phù hợp với xu hướng của quản lý thuế hiện đại.

2.3. Về đối tượng chịu thuế

Đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng theo quy định tại Điều 3 của Luật là hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở Việt Nam, trừ các đối tượng không chịu thuế quy định tại Điều 5 của Luật.

2.4. Về đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng  

So với 28 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia quy định tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung thì tại Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008, đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng đã được rà soát, sửa đổi, bổ sung, chuyển sang đối tượng chịu thuế nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng và tạo thuận lợi hơn cho cơ sở sản xuất, kinh doanh. Theo đó, quy định 25 nhóm hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế. Một số nội dung sửa đổi cơ bản như sau:

2.4.1. Đối với nhóm hàng hoá là máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí đốt; tàu bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, thuê của nước ngoài sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và để cho thuê:

Tại Khoản 4 Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định: Thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tạo tài sản cố định của doanh nghiệp; Thiết bị, máy móc, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp vào hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; máy bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuê của nước ngoài thuộc loại trong nước chưa sản xuất được dùng cho sản xuất, kinh doanh; thiết bị, máy móc, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm thăm dò, phát triển mỏ dầu khí”; Tại thời điểm khi ban hành Luật thuế giá trị gia tăng  năm 1997 thì quy định này là phù hợp với điều kiện của nước ta. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đã có nhiều dự án đầu tư có công nghệ mới vào sản xuất máy móc, thiết bị, vật tư thay thế hàng nhập khẩu. Trên thực tế việc xác định máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư loại trong nước chưa sản xuất được để làm căn cứ xác định đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng  ở khâu nhập khẩu thường không kịp thời. Để đảm bảo công bằng, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước chú trọng đầu tư vào hoạt động nghiên cứu - phát triển, sản xuất ra những máy móc, thiết bị, vật tư mới cung cấp cho nền kinh tế và từng bước chiếm lĩnh thị trường trong, ngoài nước, về nguyên tắc cần thiết chuyển nhóm hàng hoá này sang đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng . Mặc dù vậy, đối với hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ vẫn cần phải có cơ chế khuyến khích, hỗ trợ thông qua không thu thuế giá trị gia tăng  khâu nhập khẩu đối với nhóm hàng hoá nêu trên sử dụng trực tiếp cho hoạt động này. Đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò phát triển mỏ dầu khí do sử dụng máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng có giá trị lớn, trong nước chưa có khả năng sản xuất được, trong khi sản phẩm đầu ra là dầu thô xuất khẩu thuộc đối tượng không chịu thuế, doanh nghiệp không được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng  đầu vào nên cần thiết tiếp tục duy trì ở diện không chịu thuế.

Vì vậy, tại khoản 17, Điều 5 Luật Thuế giá trị gia tăng  năm 2008 đã đưa ra nội dung sửa đổi như sau:

“ Máy móc, thiết bị, vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để sử dụng trực tiếp cho hoạt động nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ; máy móc, thiết bị, phụ tùng thay thế, phương tiện vận tải chuyên dùng và vật tư thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu để tiến hành hoạt động tìm kiếm, thăm dò, phát triển mỏ dầu, khí đốt; tàu bay, dàn khoan, tàu thuỷ thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập khẩu tạo tài sản cố định của doanh nghiệp, thuê của nước ngoài sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và để cho thuê.”

2.4.2. Đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ là hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim nhựa, phim vi-đi-ô tài liệu; điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản của Nhà nước:

Tại Khoản 10, Khoản 17, Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định: “Hoạt động văn hoá, triển lãm và thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim nhựa, phim vi-đi-ô tài liệu”; “Điều tra, thăm dò địa chất, đo đạc, lập bản đồ thuộc loại điều tra cơ bản của Nhà nước” thuộc đối tượng không chịu thuế giá trị gia tăng . Quy định này là phù hợp với thực tiễn thời gian qua vì các hoạt động này chủ yếu do các đơn vị sự nghiệp thực hiện bằng nguồn kinh phí ngân sách nhà nước. Đến nay, thực hiện chủ trương xã hội hoá, Nhà nước khuyến khích các đơn vị sự nghiệp chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp, thực hiện cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo phương thức Nhà nước đặt hàng, đồng thời khuyến khích và tạo điều kiện để các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia bỏ vốn đầu tư. Việc tiếp tục áp dụng không chịu thuế đối với những hàng hoá, dịch vụ này sẽ không còn phù hợp, không khuyến khích doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, ảnh hưởng đến chủ trương xã hội hoá.

Do đó, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 hai nhóm hàng hoá, dịch vụ nêu trên đã được chuyển vào diện chịu thuế để đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng, doanh nghiệp kinh doanh các hàng hoá, dịch vụ này được khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào, giảm chi phí, từ đó nâng cao hiệu quả kinh doanh. Trường hợp cung cấp hàng hoá, dịch vụ theo phương thức Nhà nước đặt hàng thì Nhà nước bố trí đủ kinh phí để doanh nghiệp nộp thuế.

2.4.3. Đối với nhóm hàng hoá, dịch vụ là vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế:

Tại Khoản 22 Điều 4, Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung quy định: “Vận tải quốc tế; hàng hóa, dịch vụ cung ứng trực tiếp cho vận tải quốc tế” thuộc diện không chịu thuế. Quy định này là phù hợp với thực tiễn thời gian qua do năng lực vận tải quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế. Đến nay, đội tàu vận tải quốc tế của Việt Nam đã phát triển, nếu tiếp tục áp dụng không chịu thuế thì doanh nghiệp không được khấu trừ thuế đầu vào mà phải tính vào chi phí làm tăng giá cước vận tải, từ đó, hạn chế khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vận tải Việt Nam với các hãng vận tải nước ngoài.

Vì vậy, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã chuyển “Vận tải quốc tế” sang đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất 0% (quy định tại khoản 1, Điều 8 của Luật); hàng hoá, dịch vụ cung cấp trực tiếp cho vận tải quốc tế sang đối tượng chịu thuế giá trị gia tăng với thuế suất tương ứng của từng hàng hoá, dịch vụ. 

2.4.4. Đối với nhóm dịch vụ là chuyển nhượng vốn và các dịch vụ tài chính phái sinh:

Để phù hợp với thông lệ quốc tế, Luật thuế giá trị gia tăng  năm 1997 và sửa đổi, bổ sung đã quy định một số dịch vụ tài chính cụ thể thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng . Tuy nhiên, trong thực tiễn thi hành, cùng với quá trình hội nhập và sự phát triển của thị trường tài chính đã xuất hiện nhiều các dịch vụ tài chính mới chưa được quy định trong Luật, như: dịch vụ hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ,...(gọi chung là các dịch vụ tài chính phái sinh) và các giao dịch chuyển nhượng vốn. Vì vậy, tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã có quy định bổ sung Chuyển nhượng vốn và các dịch vụ tài chính phái sinh vào diện không chịu thuế giá trị gia tăng  để đảm bảo bao quát được các dịch vụ mới phát sinh, phù hợp với thông lệ quốc tế. Cụ thể tại khoản 8, Điều 5 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 có quy định:

8. Dịch vụ cấp tín dụng; kinh doanh chứng khoán; chuyển nhượng vốn; dịch vụ tài chính phái sinh, bao gồm hoán đổi lãi suất, hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, bán ngoại tệ và các dịch vụ tài chính phái sinh khác theo quy định của pháp luật”.

Các dịch vụ chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh khi cung cấp ra nước ngoài cũng không được áp dụng thuế suất 0% (quy định tại khoản 1, Điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008).

2.5. Về thuế suất

2.5.1. Mức thuế suất 0%:

Dịch vụ vận tải quốc tế được bổ sung vào đối tượng áp dụng thuế suất 0% để khuyến khích phát triển hoạt động vận tải quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Nội dung sửa đổi được thể hiện tại khoản 1, Điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008:

1. Mức thuế suất 0% áp dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế và hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế giá trị gia tăng quy định tại Điều 5 của Luật này khi xuất khẩu, trừ các trường hợp chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài chính phái sinh; dịch vụ bưu chính, viễn thông; sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên, khoáng sản khai thác chưa qua chế biến quy định tại khoản 23 Điều 5 của Luật này.”

2.5.2. Mức thuế suất 5%:

Khi ban hành Luật thuế giá trị gia tăng mức thuế suất 5% chỉ áp dụng đối với các hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân hoặc là đầu vào của sản xuất nông nghiệp, như: nước sạch, thuốc chữa bệnh, dụng cụ y tế, giáo cụ phục vụ giảng dạy và học tập; các mặt hàng sản phẩm nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến ở khâu thương mại; phân bón, thuốc trừ sâu và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng, thức ăn gia súc và dịch vụ trực tiếp phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Trong quá trình thực hiện do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á, một số doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh những mặt hàng đang áp dụng mức thuế suất 10% gặp khó khăn về tiêu thụ hàng hoá do sức mua xã hội giảm sút. Để tháo gỡ khó khăn, Chính phủ đã trình Quốc hội điều chỉnh một số hàng hoá, dịch vụ từ mức thuế suất 10% xuống mức 5%, như: xây dựng lắp đặt; que hàn, dây cáp điện dùng cho điện áp từ 600V trở lên; sản phẩm cơ khí là tư liệu sản xuất; khuôn đúc các loại; ván ép nhân tạo; sản phẩm bê tông công nghiệp gồm dầm cầu bê tông, dầm và khung nhà bê tông, cọc bê tông, cột điện bê tông, ống cống tròn bê tông, hộp bê tông các loại, pa-nen và các loại cấu kiện bê tông cốt thép đúc sẵn phi tiêu chuẩn, bê tông thương phẩm; lốp và bộ săm lốp cỡ từ 900-20 trở lên,...). Đến năm 2003, tình hình kinh tế đã phục hồi và phát triển ổn định, theo đề nghị của Chính phủ, Quốc hội đã quyết định đưa một số hàng hoá, dịch vụ ở mức thuế suất 5% trở lại mức thuế suất 10%, như: xây dựng lắp đặt; que hàn, dây cáp điện dùng cho điện áp từ 600V trở lên. Việc điều chỉnh này là từng bước thực hiện Chương trình cải cách thuế và phù hợp với thực tiễn nước ta.

Thực tiễn những năm qua cho thấy: các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá, dịch vụ đã được điều chỉnh thuế suất từ 5% sang 10% có tình hình sản xuất, kinh doanh phát triển, hiệu quả kinh doanh tốt, một số hàng hoá, dịch vụ hiện đang áp dụng thuế suất 5% cũng có kết quả sản xuất, kinh doanh tốt và cần xem xét để chuyển sang mức thuế suất 10%. Việc chuyển trở lại mức thuế suất 10% đối với những hàng hoá, dịch vụ này nhằm đảm bảo tính liên hoàn của thuế giá trị gia tăng, hạn chế các trường hợp phải hoàn thuế do có mức thuế suất đầu vào lớn hơn mức thuế suất đầu ra.

Tuy nhiên, trong điều kiện kinh tế - xã hội nước ta hiện nay cần thiết tiếp tục duy trì mức thuế suất 5% đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất nông nghiệp hoặc hàng hoá, dịch vụ phục vụ nhu cầu thiết yếu của người dân bởi các lý do sau:

Thứ nhất, sản phẩm nông nghiệp do cơ sở trực tiếp sản xuất bán ra thuộc diện không chịu thuế giá trị gia tăng nên không được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng đầu vào, vì vậy, cần tiếp tục duy trì ở mức thuế suất 5% đối với một số hàng hoá, dịch vụ đầu vào phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trong một thời gian nữa để góp phần giảm giá thành, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp trên thị trường;

Thứ hai, trong giai đoạn đầu hội nhập lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo dự báo sẽ bị tác động mạnh, đặc biệt trong điều kiện hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở nước ta chưa cao, thu nhập và mức sống của người dân, nhất là nông dân còn thấp. Mặt khác, theo cam kết với Tổ chức thương mại thế giới (WTO) thì nhiều sản phẩm nông nghiệp được tiếp tục duy trì chính sách bảo hộ trong thời hạn 5 năm kể từ ngày gia nhập WTO;

 Thứ ba, hiện nay mặt bằng giá thế giới một số vật tư nguyên liệu là đầu vào của sản xuất , nhất là đầu vào của sản xuất nông nghiệp tăng mạnh, từ đó ảnh hưởng lớn đến giá thành sản phẩm sản xuất trong nước, đời sống của người dân.

Việc điều chỉnh thuế suất từ mức 5% sang 10% chủ yếu là đối với hàng hoá, dịch vụ là đầu vào của sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp sẽ được kê khai khấu trừ, hoàn thuế đầu vào khi xác định số thuế phải nộp, do đó, không tác động lớn đến hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.

Nội dung sửa đổi được thể hiện tại khoản 2, Điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008, cụ thể như sau:

2. Mức thuế suất 5% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ sau đây:

a) Nước sạch phục vụ sản xuất và sinh hoạt;

b) Phân bón; quặng để sản xuất phân bón; thuốc phòng trừ sâu bệnh và chất kích thích tăng trưởng vật nuôi, cây trồng;

c) Thức ăn gia súc, gia cầm và thức ăn cho vật nuôi khác;

d) Dịch vụ đào đắp, nạo vét kênh, mương, ao hồ phục vụ sản xuất nông nghiệp; nuôi trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây trồng; sơ chế, bảo quản sản phẩm nông nghiệp;

đ) Sản phẩm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản chưa qua chế biến, trừ sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật này;

e) Mủ cao su sơ chế; nhựa thông sơ chế; lưới, dây giềng và sợi để đan lưới đánh cá;

g) Thực phẩm tươi sống; lâm sản chưa qua chế biến, trừ gỗ, măng và sản phẩm quy định tại khoản 1 Điều 5 của Luật này;

h) Đường; phụ phẩm trong sản xuất đường, bao gồm gỉ đường, bã mía, bã bùn;

i) Sản phẩm bằng đay, cói, tre, nứa, lá, rơm, vỏ dừa, sọ dừa, bèo tây và các sản phẩm thủ công khác sản xuất bằng nguyên liệu tận dụng từ nông nghiệp; bông sơ chế; giấy in báo;

k) Máy móc, thiết bị chuyên dùng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm máy cày, máy bừa, máy cấy, máy gieo hạt, máy tuốt lúa, máy gặt, máy gặt đập liên hợp, máy thu hoạch sản phẩm nông nghiệp, máy hoặc bình bơm thuốc trừ sâu;

l) Thiết bị, dụng cụ y tế; bông, băng vệ sinh y tế; thuốc phòng bệnh, chữa bệnh; sản phẩm hóa dược, dược liệu là nguyên liệu sản xuất thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh;

m) Giáo cụ dùng để giảng dạy và học tập, bao gồm các loại mô hình, hình vẽ, bảng, phấn, thước kẻ, com-pa và các loại thiết bị, dụng cụ chuyên dùng cho giảng dạy, nghiên cứu, thí nghiệm khoa học;

n) Hoạt động văn hoá, triển lãm, thể dục, thể thao; biểu diễn nghệ thuật; sản xuất phim; nhập khẩu, phát hành và chiếu phim;

o) Đồ chơi cho trẻ em; sách các loại, trừ sách quy định tại khoản 15 Điều 5 của Luật này;

p) Dịch vụ khoa học, công nghệ theo quy định của Luật khoa học và công nghệ.”

2.5.3. Mức thuế suất 10%:

Để đảm bảo đơn giản, dễ áp dụng, khắc phục được những tồn tại của Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bố sung do ở mức thuế suất nào cũng quy định danh mục hàng hoá, dịch vụ cụ thể, khi phát sinh hàng hoá, dịch vụ mới chưa có tên trong danh mục thì doanh nghiệp lúng túng trong việc áp dụng thuế suất, đề nghị không liệt kê các nhóm hàng hoá, dịch vụ áp dụng mức thuế suất 10% mà sử dụng phương pháp loại trừ, theo đó, hàng hoá, dịch vụ áp dụng thuế suất 10% là các hàng hoá, dịch vụ còn lại không thuộc diện áp dụng các mức thuế suất 0%, 5%.

Nội dung sửa đổi được thể hiện tại khoản 3, Điều 8 Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008, cụ thể như sau: “3. Mức thuế suất 10% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ không quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này.”

 2.6. Về khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào quy định tại Điều 12 Luật thuế giá trị gia tăng  năm 2008

- Bỏ quy định thời hạn tối đa được kê khai thuế giá trị gia tăng đầu vào 3 tháng kể từ tháng phát sinh để phù hợp với nội dung tại khoản 1, Điều 34 Luật quản lý thuế là: “Trước khi cơ quan thuế công bố quyết định kiểm tra thuế, thanh tra thuế tại trụ sở người nộp thuế, người nộp thuế phát hiện hồ sơ khai thuế đã nộp có sai sót gây ảnh hưởng đến số thuế phải nộp thì được khai bổ sung hồ sơ khai thuế”. Quy định này tạo thuận lợi và làm tăng tính tuân thủ của người nộp thuế trong việc kê khai, thực hiện nghĩa vụ thuế.

- Bổ sung quy định thuế đầu vào của tài sản cố định sử dụng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng và không chịu thuế giá trị gia tăng thì được khấu trừ toàn bộ.

Luật thuế giá trị gia tăng hiện hành quy định thuế giá trị gia tăng đầu vào của hàng hoá, dịch vụ mua vào dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế thì được khấu trừ toàn bộ, trường hợp dùng đồng thời cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế và không chịu thuế thì chỉ được khấu trừ số thuế giá trị gia tăng  đầu vào của hàng hoá, dịch vụ dùng cho sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ chịu thuế giá trị gia tăng . Quy định này là chưa hợp lý và thực tế khó thực hiện do không thể xác định được số thuế khấu trừ của tài sản cố định trong trường hợp sử dụng chung. Vì vậy, Luật thuế giá trị gia tăng  đã bổ sung quy định này để khuyến khích đầu tư và đảm bảo phù hợp với thực tiễn.

- Quy định rõ điều kiện khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào tại Luật. Trong đó, bổ sung quy định về điều kiện có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng.

Thanh toán qua ngân hàng là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước. Chính phủ đang triển khai đề án “thanh toán không dùng tiền mặt”. Việc lựa chọn hình thức thanh toán là quyền của doanh nghiệp nhưng để được khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng  từ ngân sách Nhà nước thì doanh nghiệp phải thực hiện điều kiện thanh toán qua ngân hàng. Thực tiễn hiện nay việc thanh toán qua ngân hàng được áp dụng rộng rãi trong quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với Nhà nước; đối với quan hệ mua, bán hàng hoá, dịch vụ giữa doanh nghiệp, Nhà nước với dân cư, thanh toán phổ biến dưới hình thức tiền mặt. Để góp phần thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt, ngăn chặn các hành vi mua bán, sử dụng hoá đơn bất hợp pháp, gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế giá trị gia tăng , chống thất thu ngân sách, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, lành mạnh, cần có quy định điều kiện để được khấu trừ thuế, hoàn thuế phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng trong các quan hệ thanh toán giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với Nhà nước. Theo đó, quy định về điều kiện có chứng từ thanh toán qua ngân hàng đối với hàng hóa, dịch vụ mua vào, trừ hàng hoá, dịch vụ mua từng lần có giá trị dưới hai mươi triệu đồng đã có tính tới tình hình thực tế và khả thi trong quá trình thực hiện.

Nội dung quy định về khấu trừ thuế đầu vào được thể hiện tại Điều 12 của Luật thuế giá trị gia tăng .

2.7. Các nội dung quy định về quản lý thuế

Luật quản lý thuế đã quy định các nội dung về quản lý thuế cho các loại thuế, vì vậy tại Luật Thuế giá trị gia tăng năm 2008 đã bỏ các nội dung quy định về quản lý thuế (như nghĩa vụ, trách nhiệm thực hiện luật thuế giá trị gia tăng ; đăng ký, kê khai, nộp thuế, quyết toán thuế; xử lý vi phạm, khen thưởng; khiếu nại và thời hiệu; Tổ chức thực hiện và các quy định liên quan đến quản lý thuế tại Luật thuế giá trị gia tăng .

2.8. Các nội dung khác

Ngoài các nội dung nêu trên, một số nội dung đang được quy định tại các Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật thuế giá trị gia tăng năm 1997 và sửa đổi, bổ sung (Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2003 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng; Nghị định số 148/2004/NĐ-CP ngày 23 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 7 Nghị định số 158/2003/NĐ-CP ngày 10 tháng 12 năm 2003 quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế giá trị gia tăng; Nghị định số 156/2005/NĐ-CP ngày 15 tháng 12 năm 2005 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung các Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật thuế giá trị gia tăng) đã thực hiện ổn định, đi vào cuộc sống cũng được đưa vào quy định tại Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 để nâng cao cơ sở pháp lý trong thực hiện.

Nội dung bổ sung được thể hiện như sau:

- Tại Điều 5 (khoản 2, khoản 4, khoản 9, khoản 20)

2. Sản phẩm là giống vật nuôi, giống cây trồng, bao gồm trứng giống, con giống, cây giống, hạt giống, tinh dịch, phôi, vật liệu di truyền”.

“4. Sản phẩm muối được sản xuất từ nước biển, muối mỏ tự nhiên, muối tinh, muối i-ốt”

“9. Dịch vụ y tế, dịch vụ thú y, bao gồm dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh, phòng bệnh cho người và vật nuôi”.

“20. Hàng hoá chuyển khẩu, quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; hàng tạm nhập khẩu, tái xuất khẩu; hàng tạm xuất khẩu, tái nhập khẩu; nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất, gia công hàng hoá xuất khẩu theo hợp đồng sản xuất, gia công xuất khẩu ký kết với bên nước ngoài; hàng hoá, dịch vụ được mua bán giữa nước ngoài với các khu phi thuế quan và giữa các khu phi thuế quan với nhau.”.

- Tại Điều 7 quy định về giá tính thuế:

1. Giá tính thuế được quy định như sau:

a) Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán chưa có thuế giá trị gia tăng. Đối với hàng hóa, dịch vụ chịu thuế tiêu thụ đặc biệt là giá bán đã có thuế tiêu thụ đặc biệt nhưng chưa có thuế giá trị gia tăng;

b) Đối với hàng hóa nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập khẩu (nếu có), cộng với thuế tiêu thụ đặc biệt (nếu có). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định theo quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu;

c) Đối với hàng hóa, dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng cho là giá tính thuế giá trị gia tăng của hàng hóa, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời điểm phát sinh các hoạt động này;

d) Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền cho thuê chưa có thuế giá trị gia tăng;

Trường hợp cho thuê theo hình thức trả tiền thuê từng kỳ hoặc trả trước tiền thuê cho một thời hạn thuê thì giá tính thuế là tiền cho thuê trả từng kỳ hoặc trả trước cho thời hạn thuê chưa có thuế giá trị gia tăng;

Trường hợp thuê máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải của nước ngoài loại trong nước chưa sản xuất được để cho thuê lại, giá tính thuế được trừ giá thuê phải trả cho nước ngoài;

đ) Đối với hàng hóa bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo giá bán trả một lần chưa có thuế giá trị gia tăng của hàng hoá đó, không bao gồm khoản lãi trả góp, lãi trả chậm;

e) Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế giá trị gia tăng;

g) Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá trị công trình, hạng mục công trình hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế giá trị gia tăng. Trường hợp xây dựng, lắp đặt không bao thầu nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị thì giá tính thuế là giá trị xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị;

h) Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là giá bán bất động sản chưa có thuế giá trị gia tăng, trừ giá chuyển quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp ngân sách nhà nước;

i) Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá và dịch vụ hưởng hoa hồng là tiền hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế giá trị gia tăng

k) Đối với hàng hoá, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá thanh toán là giá đã có thuế giá trị gia tăng thì giá tính thuế được xác định theo công thức sau:

Giá chưa có thuế

giá trị gia tăng

 

 

=

 

Giá thanh toán

    1 +  thuế suất của hàng hoá, dịch vụ (%)

2. Giá tính thuế đối với hàng hoá, dịch vụ quy định tại khoản 1 Điều này bao gồm cả khoản phụ thu và phí thu thêm mà cơ sở kinh doanh được hưởng.

3. Giá tính thuế được xác định bằng đồng Việt Nam. Trường hợp người nộp thuế có doanh thu bằng ngoại tệ thì phải quy đổi ra đồng Việt Nam theo tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố tại thời điểm phát sinh doanh thu để xác định giá tính thuế.

- Tại Điều 13 quy định trường hợp hoàn thuế:

1. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế giá trị gia tăng nếu trong ba tháng liên tục trở lên có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.

Trường hợp cơ sở kinh doanh đã đăng ký nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ có dự án đầu tư mới, đang trong giai đoạn đầu tư có số thuế giá trị gia tăng của hàng hoá, dịch vụ mua vào sử dụng cho đầu tư mà chưa được khấu trừ hết và có số thuế còn lại từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng.

2. Cơ sở kinh doanh trong tháng có hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu nếu có số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ từ hai trăm triệu đồng trở lên thì được hoàn thuế giá trị gia tăng theo tháng.

3. Cơ sở kinh doanh nộp thuế giá trị gia tăng theo phương pháp khấu trừ thuế được hoàn thuế giá trị gia tăng khi chuyển đổi sở hữu, chuyển đổi doanh nghiệp, sáp nhập, hợp nhất, chia, tách, giải thể, phá sản, chấm dứt hoạt động có số thuế giá trị gia tăng nộp thừa hoặc số thuế giá trị gia tăng đầu vào chưa được khấu trừ hết.

4. Cơ sở kinh doanh có quyết định hoàn thuế giá trị gia tăng của cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật và trường hợp hoàn thuế giá trị gia tăng theo điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên

Đồng thời, các câu chữ trong dự thảo Luật cũng đã được rà soát, chỉnh sửa lại để đảm bảo rõ ràng, dễ hiểu.

2.9. Về hiệu lực thi hành

Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 01 năm 2009.

PHẦN IV: TỔ CHỨC THỰC HIỆN

Để đảm bảo Luật thuế giá trị gia tăng năm 2008 có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm 2009, một số công việc phải triển khai như sau:

1. Ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật

1.1. Dự kiến Chính phủ sẽ ban hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng để hướng dẫn các Điều 5, 7, 8, 12, 13 và các nội dung cần thiết khác của Luật thuế giá trị gia tăng  theo yêu cầu quản lý.

1.2. Trên cơ sở đó, Bộ Tài chính xây dựng và ban hành Thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật thuế giá trị gia tăng.

 2. Tổ chức tuyên truyền, phổ biến đến cán bộ, nhân dân

Công tác tuyên truyền, phổ biến:

- Tổ chức hội thảo, toạ đàm trong quá trình ban hành văn bản hướng dẫn;

- Biên soạn tài liệu tuyên truyền, phổ biến Luật thuế giá trị gia tăng và các văn bản hướng dẫn trong ngành thuế và cho cán bộ nhân dân; Viết bài, đăng tin trên các báo, đài phát thanh và truyền hình.

- Tổ chức, chỉ đạo hướng dẫn cơ quan thuế địa phương phối hợp với các cơ quan có liên quan để tuyên truyền Luật.

Công tác tuyên truyền, phổ biến Luật thuế giá trị gia tăng đã được thực hiện ngay sau khi Luật thuế giá trị gia tăng được công bố; hiện đang thực hiện trong quá trình xây dựng Nghị định và Thông tư và dự kiến triển khai ngay cả sau khi các văn bản này được ký ban hành.

Công tác tập huấn:

- Tập huấn cho cán bộ công chức ngành thuế;

- Tập huấn cho các cán bộ công chức ngành hải quan;;

- Tổ chức tập huấn cho các doanh nghiệp và tổ chức cá nhân kinh doanh;

- Tổ chức tập huấn cho các đối tượng có liên quan (như Ngân hàng, Kho bạc...) để phối hợp tốt trong việc thực hiện Luật./.

File đính kèm Bạn phải đăng nhập mới thấy link download


                                              

 
Các thành viên đã Thank no name vì Bài viết có ích:
24/03/2011 19:03 # 2
Gaubuon
Cấp độ: 3 - Kỹ năng: 2

Kinh nghiệm: 16/30 (53%)
Kĩ năng: 2/20 (10%)
Ngày gia nhập: 24/04/2010
Bài gởi: 46
Được cảm ơn: 12
Phản hồi: [ Đề Cương] Thuế GTGT


lúc nào thì có sự thay đổi về mức thuế suất?


""--(**gaubuon**)--""

 
12/11/2011 00:11 # 3
batoihd1991
Cấp độ: 1 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 1/10 (10%)
Kĩ năng: 0/10 (0%)
Ngày gia nhập: 12/11/2011
Bài gởi: 1
Được cảm ơn: 0
Phản hồi: [ Đề Cương] Thuế GTGT


 thanks bạn cái nha!
hi...
mình còn nhiều tài liệu cần phải làm nhưng mờ lại hok bít tìm ở đâu.huk2 
mình có câu hỏi này mà tìm mãi hok đủ: " thực trang và vai trò của luật thuế giá trị gia tăng ở việt nam"
ai có thì giúp mình với nha!
thanks trước.^^



 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024