NGÔN NGỮ.
Mặc dù ngôn ngữ không phải hoàn toàn là quá trình nhận thức song nó gắn bó một cách mật thiết với tư duy nên chúng ta đề cập sâu thêm về hiện tượng tâm lí này cũng là nhằm hiểu sâu sắc hơn lĩnh vực nhận thức.
Khái niệm về ngôn ngữ:
Con người có khả năng truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho người khác và sử dụng kinh nghiệm của người khác vào hoạt động của mình nhờ có ngôn ngữ.
Ngôn ngữ là hiện tượng xã hội - lịch sử . Do sống và hoạt động cùng nhau nên con người có nhu cầu giao tiếp.
Nói một cách chung nhất, ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ.
Kí hiệu: Pavlov đã nói ngôn ngữ là tín hiệu của tín hiệu.
Hệ thống: chỉ có ý nghĩa và thực hiện một chức năng nhất định trong hệ thống của mình.
Ngôn ngữ - hệ thống kí hiệu từ ngữ gồm 3 bộ phận:
Ngữ âm
Từ vựng
Ngữ pháp – hệ thống các quy tắc thành lập từ, cấu thành câu (từ pháp và cú pháp), sự phát âm (âm pháp).
Các đơn vị của ngôn ngữ là âm vị, hình vị, từ, câu, ngữ đoạn, văn bản...
Các chức năng của ngôn ngữ:
Chức năng chỉ nghĩa:
Ngôn ngữ để chỉ chính sự vật, hiện tượng, tức là thay thế chúng. Nói một cách khác, ý nghĩa của sự vật, hiện tượng có thể được khách quan hoá lần nữa và có thể di chuyển đi nơi khác, làm cho con người có thể nhận thức được chúng ngay cả khi chúng không xuất hiện trước mặt.
Chức năng chỉ nghĩa còn được gọi là chức năng làm phương tiện tồn tại, truyền đạt và lĩnh hội kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người.
Ngôn ngữ khác hẳn với những tiếng kêu của động vật. Về bản chất, động vật không có ngôn ngữ.
Chức năng thông báo:
Ngôn ngữ được dùng để truyền đạt, tiếp nhận thông tin, để biểu cảm và nhờ đó, điều chỉnh, thúc đẩy hoạt động của con người.
Chức năng thông báo của ngôn ngữ còn được gọi là chức năng giao tiếp.
Chức năng khái quát hoá:
Ngôn ngữ không chỉ một sự vật, hiện tượng riêng rẽ mà cả một loại, lớp có chung một/một số thuộc tính: phạm trù, khái niệm, thuật ngữ... Nhờ vậy nó là phương tiện đắc lực cho hoạt động trí tuệ.
Ngôn ngữ vừa là công cụ tồn tại của hoạt động trí tuệ, vừa là phương tiện lưu lại kết quả của hoạt động này. Do vậy hoạt động trí tuệ không bị gián đoạn, không bị lặp lại và có cơ sở cho sự phát triển tiếp theo.
Chức năng khái quát hoá của ngôn ngữ còn gọi là chức năng nhận thức hay chức năng làm công cụ hoạt động trí tuệ.
Trong 3 chức năng của ngôn ngữ kể trên, chức năng giao tiếp là chức năng cơ bản nhất. Chỉ trong quá trình giao tiếp, con người mới lĩnh hội được tri thức về hiện thực, điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với hoàn cảnh sống. Về thực chất, chức năng nhận thức cũng là quá trình giao tiếp, ở đây là giao tiếp với chính bản thân mình. Còn chức năng chỉ nghĩa chỉ là điều kiện để thực hiện hai chức năng kia.
Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức:
Vai trò của ngôn ngữ đối với nhận thức cảm tính:
Đối với cảm giác: ảnh hưởng mạnh đến ngưỡng cảm giác.
Đối với tri giác: làm cho quá trình tri giác dễ dàng hơn, đặc biệt trong quan sát.
Đối với trí nhớ:
Vai trò của ngôn ngữ trong nhận thức lí tính.
Gắn bó rất mật thiết với tư duy. Ở người trưởng thành, tư duy và ngôn ngữ không tách rời nhau.
Ngôn ngữ là phương tiện để truyền tải tư duy.