-
Báo cáo kiểm toán
Báo cáo kiểm toán là văn bản được kiểm toán viên phát hành để trình bày ý kiến của mình về thông tin tài chính được kiểm toán.
Báo cáo kiểm toán có vai trò hết sức quan trọng, nó là sản phẩm cuối cùng của công việc kiểm toán và có vai trò hết sức quan trọng:
+ Đối với kiểm toán viên, báo cáo kiểm toán là tài liệu trình bày các kết luận sau cùng về đối tượng được kiểm toán, nên phải kết tinh được toàn bộ công việc mà kiểm toán viên tiến hành. Đồng thời báo cáo kiểm toán là sản phẩm cuối cùng kiểm toán viên cung cấp cho xã hội nên họ phải chịu trách nhiệm về ý kiến của mình.
+ Đối với người sử dụng thông tin thì báo cáo kiểm toán là căn cứ để họ đánh giá các thông tin được trình bày trên báo cáo kiểm toán và đưa ra quyết định kinh tế, do đó báo cáo kiểm toán phải đảm bảo dể hiểu, rõ ràng không gây hiểu lầm.
+ Đối với đơn vị được kiểm toán báo cáo kiểm toán là căn cứ để đánh giá và cải tiến hoạt động của đơn vị nói chung, kiểm soát nội bộ hoặc công tác kế toán tài chính nói riêng.
Để đảm bảo vai trò trên thì báo cáo kiểm toán phải làm rõ các nội dung sau:
1. Nơi gởi
2. Đối tượng kiểm toán
3. Chuẩn mực kế toán và các nguyên tắc được dùng làm chuẩn mực đánh giá trong cuộc kiểm toán
-
Công việc kiểm toán viên đã làm
-
Chuẩn mực kiểm toán được áp dụng
-
Các giới hạn về phạm vi kiểm toán (nếu có)
-
Ý kiến của kiểm toán viên về đối tượng được kiểm toán
-
Nhận xét và biện pháp cải tiến đối với kiểm soát nội bộ (nếu cần thiết)
- Các dạng báo cáo kiểm toán (đối với kiểm toán tài chính )
+ Báo cáo chấp nhận toàn bộ:
Kiểm toán viên đưa ra báo cáo chấp nhận toàn bộ khi kiểm toán viên cho rằng bảng khai tài chính áp dụng hợp lý các nguyên tắc kế toán và không có sự giới hạn nào về phạm vi kiểm toán. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế trình bày các khía cạnh chủ yếu để đưa ra ý kiến chấp nhận toàn bộ đó là:
a- Các thông tin tài chính được lập ra bằng cách sử dụng chế độ kế toán có thể chấp nhận được và chế độ kế toán này áp dụng một cách nhất quán.
b- Thông tin tài chính phù hợp với các quy định hiện hành và yêu cầu của luật pháp
c- Toàn cảnh các thông tin tài chính của doanh nghiệp là nhất quán với hiểu biết của kiểm toán viên về đặc thù kinh doanh của doanh nghiệp
d- Các thông tin thể hiện rõ mọi vấn đề trọng yếu và được trình bày hợp lý
+ Báo cáo chấp nhận từng phần
Báo cáo này được phát hành khi kiểm toán viên cho rằng ngoại trừ một số thiếu sót trong bảng khai tài chính, hoặc một số giới hạn về phạm vi kiểm toán thì bảng khai tài chính đã được trình bày trung thực và hợp lý. Báo cáo chấp nhận từng phần sẽ giới hạn trách nhiệm của kiểm toán viên về sự trình bày trung thực và hợp lý đối với một số bộ phận của báo cáo tài chính. Thông thường kiểm toán viên phải đưa ra các giải thích trong báo cáo chấp nhận từng phần.
Khi gặp một trong những trường hợp sau đây, kiểm toán viên thường đưa ra ý kiến cháp nhận từng phần:
a- Bất đồng với người quản lý đơn vị về các nguyên tắc kế toán áp dụng tại đơn vị để hình thành bảng khai tài chính.
b- Bị giới hạn về phạm vi kiểm toán: đó là khi kiểm toán viên không thể thực hiện được các thủ tục kiểm toán mà họ cho là cần thiết.
c- Tồn tại những tình huống chưa rõ ràng gây ảnh hưởng đến bảng khai tài chính mà đến thời điểm kết thúc kiểm toán vẫn chưa kết luận được chính xác.
+ Báo cáo không chấp nhận (loại ý kiến trái ngược)
Đây chính là trường hợp ngược với báo cáo chấp nhận toàn bộ. Báo cáo kiểm toán không chấp nhận đưa ra nhận xét rằng bảng khai tài chính của đơn vị không trình bày trung thực và hợp lý về tình hình tài chính của đơn vị và kết quả hoạt động theo các chuẩn mực kế toán hiện hành.
Kiểm toán viên đưa ra báo cáo không chấp nhận trong trường hợp tổng thể báo cáo tài chính bị sai lầm một cách trọng yếu tới mức phản ánh không hợp lý về tính hình tài chính hoặc kết quả hoạt động kinh doanh của đơn vị. Lúc này vì tính nghiêm trọng của vấn đề nên một ý kiến chấp nhận có loại trừ không thể áp dụng được. Thông thường kiểm toán viên đưa ra báo cáo không chấp nhận khi có sự bất đồng nghiêm trọng với người quản lý đơn vị về các phương pháp hoặc các nguyên tắc kế toán áp dụng tại đơn vị.
Khi đưa ra ý kiến không chấp nhận kiểm toán viên phải thu thập đủ bằng chứng để làm cơ sở cho ý kiến của mình. Trong báo cáo này kiểm toán viên phải giải thích rõ về lý do không chấp nhận và nêu ra những ảnh hưởng của nó đến tình hình tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Báo cáo từ chối nhận xét (ý kiến từ bỏ)
Kiểm toán viên đưa ra báo cáo từ chối nhận xét khi có những giới hạn nghiêm trọng về phạm vi kiểm toán, hoặc tồn tại những tình huống không rõ ràng có ảnh hưởng nghiêm trọng đến bảng khai tài chính.
Để tổng hợp và mô tả tóm tắt về các điều kiện để kiểm toán viên lựa chọn loại báo cáo kiểm toán ta có thể dùng bảng sau:
Các điều kiện để lựa chọn loại
báo cáo kiểm toán
|
Mức độ trọng yếu
|
Không trọng yếu
|
Trọng yếu nhưng chưa tới mức xuyên tạc toàn bộ báo cáo
|
Trọng yếu tới mức phải xem xét tính hợp lý của báo cáo
|
Giới hạn về phạm vi kiểm toán do đơn vị
hay hoàn cảnh
|
Báo cáo chấp nhận toàn bộ
|
Báo cáo
chấp nhận từng phần
|
Báo cáo
từ chối nhận xét
|
Bất đồng với người quản lý đơn vị
về các chính sách kế toán
|
Báo cáo chấp nhận toàn bộ
|
Báo cáo
chấp nhận từng phần
|
Báo cáo
không chấp nhận
|
Tình huống chưa rõ ràng có ảnh hưởng đến báo cáo tài chính
|
Báo cáo chấp nhận toàn bộ
|
Báo cáo
chấp nhận từng phần
|
Báo cáo
từ chối nhận xét
|