Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
22/01/2015 17:01 # 1
Nghiem_huyen
Cấp độ: 15 - Kỹ năng: 9

Kinh nghiệm: 21/150 (14%)
Kĩ năng: 55/90 (61%)
Ngày gia nhập: 05/11/2012
Bài gởi: 1071
Được cảm ơn: 415
TRỊ LIỆU PHÓNG XẠ (XẠ TRỊ)


CHƯƠNG 7: UNG BƯỚU HỌC – PHẦN 19

TRỊ LIỆU PHÓNG XẠ (XẠ TRỊ)

Trị liệu phóng xạ (radiation therapy) là một phương pháp điều trị sử dụng các sóng hoặc các dòng phân tử năng lượng cao để điều trị ung thư. Các loại phóng xạ bao gồm X-quang (có thể là proton năng lượng cao hoặc điện tử năng lượng thấp), các phân tử anpha và beta, và các tia gamma. Các chất có tính phóng xạ bao gồm coban (cobalt), iriđi (iridium), Iốt (iodine), và cesium. Tiến trình này thỉnh thoảng được gọi là phép trị liệu bằng tia X (radiotherapy), hoặc chiếu xạ (irradiation). Trị liệu này chỉ ảnh hưởng đến những tế bào nằm trong trường phóng xạ (radiation field) và sẽ không tiêu diệt các tế bào ung thư đã lan ra các vùng khác của cơ thể.

Trị liệu phóng xạ có thể được sử dụng trong thời gian phẫu thuật vào lúc hoàn tất cắt bỏ nhưng trước khi đóng (phóng xạ trong phẫu thuật), sau khi phẫu thuật thu nhỏ khối u, sau khi phẫu thuật chặn đứng sự tăng trưởng của các tế bào ung thư (phóng xạ hậu phẫu), riêng lẻ hoặc phối hợp với các loại thuốc nhằm tiêu diệt một khối u ác tính. Trị liệu phóng xạ cũng được thực hiện để ngăn ngừa các tế bào ung thư phát triển ở khu vực tiếp nhận phóng xạ (trị liệu phóng xạ phòng bệnh) hoặc để giúp giảm bớt các triệu chứng đã lan đến xương hoặc các phần khác của cơ thể (trị liệu phóng xạ giảm nhẹ).

Mô phỏng (simulation), được tiến hành bởi bác sĩ chuyên khoa ung bướu phóng xạ (radiation oncologist), là một quá trình bao gồm các hình chụp X-quang đặc biệt được sử dụng để đưa ra kế hoạch điều trị phóng xạ với mục đích cho các khu vực được điều trị được định vị chính xác và được đánh dấu cho điều trị đồng thời các mô khác được các tảng chì (lead blocks) bảo vệ. Trong thời gian mô phỏng, cổng điều trị (treatment port: vị trí trên cơ thể được tia phóng xạ nhắm đến) được xác định.

Điều trị phóng xạ là nỗ lực của một nhóm các chuyên gia y tế bao gồm 1 bác sĩ chuyên khoa ung bướu phóng xạ (radiation oncologist), 1 bác sĩ phóng xạ (radiation physicist), người đảm bảo máy phóng xạ truyền số lượng phóng xạ thích hợp đến vị trí được điều trị; và 1 chuyên viên điều chỉnh liều lượng phóng xạ (dosimetrist), người đóng vai trò lên kế hoạch và tính toán liều lượng phóng xạ phù hợp cho điều trị. Việc chia phóng xạ thành những liều lượng nhỏ và được lặp lại – một quá trình được gọi là phân đoạn (fractionation) – cho phép sử dụng liều lượng tổng cộng lớn hơn mà không gây tổn thương nhiều đến mô bình thường. Các phương pháp điều trị này thường được chuyên viên phóng xạ tiến hành mỗi tuần 5 ngày.

Trị liệu phóng xạ có thể đến từ một nguồn bên ngoài hoặc bên trong, hoặc có thể là trị liệu phóng xạ hệ thống (systemic radiation therapy). Phóng xạ bên ngoài (external radiation) nằm ngoài cơ thể từ một máy được gọi là máy gia tốc thẳng (linear accelerator). Các nguồn năng lượng có thể là X-quang, tia gamma, hoặc các tia phân tử chẳng hạn như trị liệu tia proton (proton beam therapy). Phương pháp này có thể được dùng để điều trị cho đa số các dạng bệnh ung thư, để giảm đau hoặc cho các vấn đề khác khi các khối u ung thư lan đi từ vị trí ban đầu đến các khu vực khác trong cơ thể. Thỉnh thoảng phương pháp này còn được dùng trong thời gian phẫu thuật để điều trị các khối u ung thư chỉ phát triển trong khu vực. Tiến trình này được gọi là trị liệu phóng xạ trong phẫu thuật (intraoperative radiation therapy), trong đó trị liệu tia điện tử (electronic beam therapy) với liều cao được truyền trực tiếp đến khối u hoặc mô bao bọc khối u (tumor bed).

Nội phóng xạ (internal radiation), thỉnh thoảng được gọi là xạ trị cự ly gần (brachytherapy), có thể được thực hiện thông qua việc sử dụng một chất phóng xạ đặt trong cơ thể. Làm như thế giúp cho bác sĩ truyền một lượng phóng xạ lớn hơn so với trị liệu ngoại phóng xạ (external radiation therapy) và để bảo vệ phần lớn mô khỏe ở xung quanh đó. Khi nguồn phóng xạ được đặt trực tiếp vào mô thay vì trong một khoang cơ thể, do đó thuật ngữ đặt ống phóng xạ kẽ (interstitial implant) được sử dụng. Dụng cụ phóng xạ này cũng có thể được đưa vào cơ thể bằng một thiết bị chuyên dùng (applicator) và được gọi là trị liệu phóng xạ trong khoang (intracavity or intraluminal radiation therapy).

Điều đáng tiếc là, phóng xạ không thể xác định được sự khác biệt giữa các tế bào ung thư và không ung thư, do đó cả hai đều bị ảnh hưởng. Các tác dụng phụ được xác định bởi vị trí và số lượng phóng xạ được sử dụng. Các loại thuốc có tên là thuốc gây cảm thụ bức xạ (radiosensitizers) và các hợp chất bảo vệ bức xạ (radioprotectors) thường được nghiên cứu để giúp thuyên giảm tình trạng bệnh này. Các loại thuốc gây cảm thụ bức xạ làm cho các tế bào ung thư nhạy cảm hơn với trị liệu phóng xạ. Các hợp chất bảo vệ bức xạ có tác dụng bảo vệ các tế bào không ung thư không bị tổn thương do phóng xạ gây ra.

Hiện nay, các phương pháp tiếp cận mới đối với trị liệu phóng xạ bao gồm sử dụng nhiệt (hyperthermia) với trị liệu phóng xạ. Và các nhà khoa học đang nghiên cứu việc sử dụng các kháng thể đánh dấu phóng xạ (radiolabeled antibodies) để truyền phóng xạ trực tiếp đến khu vực ung thư (radioimmunotherapy). Các thử nghiệm lâm sàng hiện đang tiến hành kiểm tra đánh giá phương pháp này.(thamkhaoyhoc)

 



              Nghiêm huyền-khoa Dược-PECer

                      face Nghiêm Thị Huyền

            HỌC TỐT <> MƠ NHIỀU <> YÊU  ĐẮM

TÔI CẦN CÓ 1 ƯỚC MƠ THẬT LỚN,NẾU KHÔNG CÓ NGHĨA LÀ CHƯA SỐNG ĐỦ

Chuẩn bị đầy đủ để chạy đua trong cuộc chiến tri thức và bản lĩnh ngành Dược Việt Nam


 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024