TƯ DUY.
Tư duy là gì ?
Cảm giác, tri giác đã giúp cho con người nhận biết được các của sự vật, hiện tượng. Tuy nhiên đó mới chỉ là các đặc điểm bên ngoài. Để nhận biết được cái bên trong, cái cốt lõi của các sự vật hiện tượng đó, con người cần đến tư duy.
Tư duy là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất, những liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện tượng khách quan mà trước đó ta chưa biết.
Các đặc điểm tư duy:
Tư duy xuất phát từ hoàn cảnh có vấn đề:
Hoàn cảnh có vấn đề có thể là một bài toán, một nhiệm vụ cần phải giải quyết… Cùng một hoàn cảnh song đối với người này là hoàn cảnh có vấn đề nhưng đối với người khác lại không. Như vậy hoàn cảnh có vấn đề là hoàn cảnh kích thích con người suy nghĩ.
Tính gián tiếp của tư duy:
Tư duy nhận biết được bản chất của sự vật hiện tượng nhờ sử dụng công cụ (các dụng cụ đo đạc, máy móc…); các kết quả của nhận thức (quy tắc, công thức, quy luật…). Tính gián tiếp của tư duy còn thể hiện ở chỗ nó được thể hiện thông qua ngôn ngữ.
Tính trừu tượng và khái quát của tư duy:
Tư duy phản ánh cái bản chất, cái chung nhất cho một loại, một lớp hiện tượng sự vật và khái quát chung bởi khái niệm. Nhờ có tư duy, con người có thể đi sâu vào đối tượng, cho phép họ nhận thức được những vấn đề mà cảm giác, tri giác không tiếp cận được.
Tư duy liên quan chặt chẽ tới ngôn ngữ:
Tư duy trừu tượng không thể tồn tại nếu không có ngôn ngữ. Nhờ có ngôn ngữ, tư duy có được tính khái quát và gián tiếp. Cũng nhờ có ngôn ngữ, những sản phẩm của tư duy mới được truyền đạt cho người khác. Trong lâm sàng tâm thần, ngôn ngữ được coi là hình thức của tư duy và việc phân loại các rối loạn hình thức tư duy dựa trên ngôn ngữ.
Tư duy liên hệ chặt chẽ với nhận thức cảm tính:
Nhận thức cảm tính thu thập tư liệu. Các biểu tượng của nhận thức cảm tính là nguyên liệu cho tư duy. Tư duy phát triển cũng giúp định hướng nhận thức cảm tính.
Các thao tác tư duy:
So sánh:
Dùng trí óc đối chiếu các đối tượng hoặc những thuộc tính, bộ phận... để xem xét sự giống nhau hay khác nhau, đồng nhất hay không đồng nhất.
So sánh là cơ sở của mọi hiểu biết và của tư duy. Chúng ta nhận biết thế giới không ngoài cách thông qua so sánh và phân biệt với một vật gì khác thì chúng ta không thể có ý niệm nào và không thể nói lên một điểm nào về sự vật đó cả (Usinxki).
Phân tích và tổng hợp:
Phân tích: dùng óc phân chia đối tượng thành bộ phận, thuộc tính, quan hệ.
Tổng hợp: kết hợp những đối tượng, thuộc tính quan hệ v.v.. thành tổng thể.
Trừu tượng hoá và khái quát hoá:
Trừu tượng hoá: gạt bỏ những bộ phận, thuộc tính, quan hệ thứ yếu, chỉ giữ lại những yếu tố cần thiết của đối tượng để tư duy.
Khái quát hoá là dùng trí óc bao quát nhiều đối tượng khác nhau trên cơ sở một số thuộc tính, quan hệ, bộ phận giống nhau sau khi đã gạt bỏ những điểm khác nhau.
Khái quát hoá là loại tổng hợp mới sau khi đã trừu tượng hoá.
Trong tư duy, các thao tác được thực hiện theo một hệ thống nhất định.
Các loại tư duy:
Theo lịch sử hình thành:
Tư duy trực quan - hành động:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết nhiệm vụ được thực hiện nhờ sự cải tổ các tình huống bằng các hành động vận động có thể quan sát được. Loại tư duy này có ở cả động vật cao cấp.
Tư duy trực quan - hình ảnh:
Đây là loại tư duy mà việc giải quyết các nhiệm vụ được thực hiện bằng sự cải tổ tình huống chỉ trên bình diện hình ảnh mà thôi. Loại này đã phát triển mạnh ở trẻ nhỏ.
Tư duy trừu tượng:
Loại tư duy được thực hiện trên cơ sở sử dụng các khái niệm, kết cấu logic, được tồn tại trên cơ sở tiếng nói
Ba loại tư duy trên tạo thành các giai đoạn của phát triển tư duy trong quá trình phát sinh chủng loại và cá thể.
Theo hình thức biểu hiện của vấn đề (nhiệm vụ) và phương thức giải quyết vấn đề:
Tư duy thực hành:
Tư duy thực hành là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra một cách trực quan, dưới hình thức cụ thể, phương thức giải quyết là những hành động thực hành. Ví dụ: tư duy của người thợ sửa xe hơi khi xe hỏng.
Tư duy hình ảnh cụ thể:
Đây là loại tư duy mà nhiệm vụ của nó được đề ra dưới hình thức một hình ảnh cụ thể và sự giải quyết nhiệm vụ cũng được dựa trên những hình ảnh đã có. Ví dụ: suy nghĩ xem từ trường về nhà đi đường nào là tối ưu cho xe máy.
Tư duy lí luận:
Đó là loại tư duy mà nhiệm vụ được đề ra dưới hình thức lí luận và việc giải quyết nhiệm vụ đó đòi hỏi phải sử dụng hệ thống khái niệm trừu tượng, những tri thức lí luận. Ví dụ: giải quyết các bài toán về kinh doanh.