Phương pháp xét nghiệm và chẩn đoán Parkinson
Đánh giá chủ yếu dựa vào các triệu chứng vận động trên lâm sàng.
Chẩn đoán bệnh Parkinson thường dựa trên lâm sàng. Nghi ngờ mắc Parkinson ở người có run cơ một bên khi nghỉ ngơi, vận động chậm hay trăng tăng trương lực cơ. Thực hiện test ngón tay chỉ mũi, biểu hiện run thường sẽ giảm hoặc biến mất tại chi được khám.
Thăm khám thần kinh, bệnh nhân không thực hiện được các động tác luân phiên hay kế tiếp một cách nhanh chóng. Cảm giác, cơ lực và phản xạ bình thường nhưng người bệnh gặp khó khăn do run hay do tăng trương lực cơ.
Phân biệt vận động chậm của Parkinson với tình trạng vận động chậm và co cứng do tổn thương vỏ tủy.
Ngoài ra, một số biểu hiện khác cũng hỗ trợ củng cố chẩn đoán Parkinson bao gồm nháy mắt không thường xuyên, khuôn mặt cứng đờ, dáng đi bất thường, mất ổn định tư thế.
Ở người cao tuổi, chẩn đoán phân biệt Parkinson với các bệnh lý khác cũng gây giảm chuyển động tự phát hay bước đi ngắn như trầm cảm nặng, sử dụng thuốc chống loạn thần và thuốc chống nôn, suy giáp.
Để chẩn đoán phân biệt Parkinson với Parkinson thứ phát hay Parkinson không điển hình, bác sĩ thường cho khảo sát đáp ứng với levodopa. Người cho đáp ứng với levodopa là bệnh Parkinson, còn không cho đáp ứng với levodopa với liều ít nhất 1200 mg/ngày thường là Parkinson thứ phát hay Parkinson không điển hình.
Phương pháp điều trị Parkinson hiệu quả
-
Levodopa/ carbidopa.
-
Amantadine, ức chế MAO-B, ức chế cholinergic.
-
Chất chủ vận dopamin.
-
Chất ức chế Catechol O-metyltransferase (COMT), khi đáp ứng kém với levodopa.
-
Phẫu thuật nếu không cho đáp ứng với thuốc, không dung nạp với tác dụng phụ của thuốc.
-
Tập luyện và biện pháp thích nghi.
Levodopa
Hiện là thuốc điều trị Parkinson hiệu quả nhất. Tuy nhiên khi Parkinson tiến triển sớm hay khi phát hiện, thường cho đáp ứng mờ nhạt với levodopa, do đó, để giảm thời gian dùng levodopa, bác sĩ có thể cân nhắc dùng cho các bệnh nhân trẻ tuổi với các thuốc:
-
Các chất chủ vận dopamine (pramipexole, rotigotine, ropinirole).
-
Chc chc chế MAO-B (rasagiline, selegiline).
-
Amantadine.
Tuy nhiên nếu những thuốc trên không kiểm soát được triệu chứng, bác sĩ nên bắt đầu dùng với levodopa ngay. Nên dùng liều thấp hơn cho người lớn tuổi.
Levodopa là tiền chất của dopamine, có thể qua hàng rào máu não, được decarboxylated hóa thành dopamine. Thường dùng chung với carbidopa để ngăn cản levodopa bị decarboxyl thành dopamine ở ngoại vi, nhờ đó giúp giảm liều levodopa. Levodopa làm giảm tình trạng tăng trương lực, giảm vận động và làm giảm đáng kể triệu chứng run.
Amantadine
Được dùng để cải thiện rối loạn vận động thứ phát và giảm triệu chứng run. Amantadine cho tác dụng tốt khi đơn trị liệu ở giai đoạn sớm và sau đó là phối hợp với levodopa để làm tăng tác dụng của levodopa. Amantadine có thể mất hiệu quả khi sử dụng đơn độc vài tháng.
Chất chủ vận dopamine
Bao gồm các thuốc: Pramipexole, ropinirol, rotigotin và apomorphine (tiêm).
Ngoài ra, còn có bromocriptine vẫn còn sử dụng ở một số quốc gia, nhưng nó chủ yếu dùng để điều trị u tuyến yên ở Bắc Mỹ.
Các thuốc chủ vận dopamine dùng đường uống thường sử dụng đơn trị liệu nhưng không duy trì được hiệu quả sau vài năm. Khuyến cáo dùng thuốc này ở giai đoạn sớm với liều thấp levodopa ở bệnh nhân có rối loạn vận động và gặp nhiều tác dụng phụ.
Chất ức chế MAO-B chọn lọc
Bao gồm selegiline và rasagiline. Selegiline ức chế enzyme chính phá hủy dopamine trong não, nhờ đó kéo dài tác dụng của levodopa. Rasagiline cũng có cơ chế tác động như selegiline nhưng có hiệu quả và dung nạp tốt hơn.
Thuốc kháng cholinergic
Dùng đơn trị liệu trong giai đoạn sớm và dùng bổ trợ cho levodopa sau đó. Thuốc cho hiệu quả tốt khi điều trị run.
Chất ức chế COMT
Như entacapone, tolcapone ức chế phân hủy levodopa và dopamine. Thường dùng phối hợp với levodopa trong thời gian dài khi hiệu quả của levodopa đang mất đi.
Phẫu thuật
Nếu thuốc không hiệu quả hay cho các tác dụng phụ quá mức, bao gồm kích thích não sâu hay phẫu thuật vùng tổn thương.
Kích thích não sâu khuyến cáo ở bệnh nhân có rối loạn vận động đáng kể.
Phẫu thuật cắt đi vùng tổn thương để ngăn chặn sự hoạt động thái quá của các đường dẫn truyền thần kinh để kiểm soát triệu chứng run. Tuy nhiên, phẫu thuật sẽ gây tổn thương không thể phục hồi hay điều chỉnh và có thể gây ra các phản ứng phụ nghiêm trọng như rối loạn vận ngôn hay khó nuốt.
Các biện pháp vật lý trị liệu
Được dùng để tối đa hóa hoạt động của cơ thể, tăng cường các hoạt động hằng ngày, tăng thể lực bệnh nhân.