Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
18/09/2021 20:09 # 1
vovanhoa1411
Cấp độ: 18 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 84/180 (47%)
Kĩ năng: 1/10 (10%)
Ngày gia nhập: 03/03/2021
Bài gởi: 1614
Được cảm ơn: 1
Phương pháp mới điều trị hiệu quả bệnh bạch cầu


Một nghiên cứu của Đại học Basel (Thụy Sĩ) đã chỉ ra rằng có thể cải thiện hiệu quả của các liệu pháp nhắm mục tiêu điều trị bệnh bạch cầu bằng cách ức chế thêm một con đường tín hiệu cụ thể ngoài con đường ức chế JAK2 đã biết.

Bệnh bạch cầu là bệnh ung thư các mô tạo máu của cơ thể, bao gồm tủy xương và hệ bạch huyết. Căn bệnh này có nhiều dạng. Một số bệnh bạch cầu ở trẻ em phổ biến hơn ở người lớn. Thông thường, các tế bào bạch cầu có chức năng giúp cơ thể chống lại nhiễm trùng. Tuy nhiên, ở những người mắc bệnh này, tủy xương tạo ra các tế bào bạch cầu bất thường, khiến chúng không hoạt động đúng chức năng.

Những thiếu sót của liệu pháp sử dụng chất ức chế JAK2

Trong bệnh bạch cầu mãn tính, việc ức chế kinase JAK2 hoạt động quá mức bằng cách tiếp cận liệu pháp nhắm mục tiêu chỉ làm giảm các triệu chứng của bệnh nhân, mà không thể thực sự thay đổi diễn tiến của bệnh.

Trong ung thư tăng sinh tủy, một dạng bệnh bạch cầu mãn tính, cơ thể liên tục sản xuất quá nhiều tế bào máu như hồng cầu, tiểu cầu và bạch cầu hạt. Điều này có thể dẫn đến huyết khối, lá lách to và các triệu chứng như giảm cân, đau xương và mệt mỏi.

photo-1631933840041

Chọc hút tủy xương cho thấy bệnh bạch cầu dòng tủy cấp tính.

Căn bệnh này được kích hoạt bởi các đột biến khiến JAK2 tyrosine kinase hoạt động liên tục, thay vì chỉ được kích hoạt khi cần thiết. Điều này có nghĩa là tủy xương liên tục nhận được tín hiệu để sản xuất các tế bào máu mới. Trong khoảng mười năm nay, các chất ức chế đã được sử dụng nhằm mục đích hạn chế hoạt động của JAK2.

Tuy nhiên, những kỳ vọng đặt ra đối với việc điều trị bằng thuốc ức chế JAK2 đã không được đáp ứng đầy đủ. Mặc dù các triệu chứng được cải thiện, tỷ lệ tế bào bạch cầu trong máu vẫn cao. Do đó, sau một vài năm bệnh nhân thường không còn đáp ứng với điều trị.

Phương pháp mới chống lại bệnh bạch cầu hiệu quả hơn

Một nghiên cứu của Đại học Basel (Thụy Sĩ) đã chỉ ra rằng có thể cải thiện hiệu quả điều trị bằng cách ức chế thêm một con đường tín hiệu cụ thể.

Nhóm nghiên cứu tập trung vào con đường tín hiệu MAPK, có liên quan đến sự phát triển của một số bệnh ung thư và được kiểm soát bởi JAK2 trong các khối u tăng sinh tủy. Trong các nghiên cứu trước đây, con đường truyền tín hiệu này vẫn hoạt động bất chấp sự ức chế JAK2 và tiếp tục kích thích quá trình tạo máu.

photo-1631933842630

Hình ảnh máu bình thường và bệnh bạch cầu.

Do đó, để tìm ra nguồn gốc của vấn đề, các nhà nghiên cứu đã vô hiệu hóa ERK1/2, một thành phần quan trọng của con đường tín hiệu MAPK. Sau đó điều tra xem liệu nhắm mục tiêu kết hợp như vậy có hoạt động tốt hơn trong việc chống lại bệnh bạch cầu hay không.

Các nhà khoa học đã sử dụng ba hệ thống xét nghiệm khác nhau để làm điều này: Nuôi cấy tế bào bệnh bạch cầu đã được thiết lập, mô hình chuột bị bệnh bạch cầu dòng tủy, và mẫu máu, tủy xương của bệnh nhân. Để bất hoạt ERK1/2, họ đã sử dụng các chất ức chế gần đây đã có sẵn và đặc biệt chặn ERK1/2. Một trong những hợp chất đó, cùng với một chất ức chế JAK2 đã được phê duyệt. Trong các mô hình chuột, các nhà nghiên cứu cũng vô hiệu hóa các gen cho ERK1/2 bằng phương pháp sinh học phân tử.

Các nhà khoa học cho rằng, điều trị kết hợp làm giảm tỷ lệ tế bào ung thư bạch cầu trong máu và tủy xương. Điều này hiếm khi xảy ra với các chất chỉ ức chế JAK2 và thực sự có thể làm thay đổi diễn tiến bệnh trong thời gian dài hơn.Kết quả cho thấy, trong cả ba cách tiếp cận thử nghiệm, hiệu quả của điều trị bằng chất ức chế JAK2 đã được nâng cao khi kết hợp với việc nhắm mục tiêu ERK1/2. Điều này được chứng minh bởi sự giảm sản xuất tế bào máu và giảm kích thước lá lách (trên mô hình chuột ).

Hy vọng với những kết quả đầy hứa hẹn này, phương pháp điều trị kết hợp mới sẽ nhanh chóng được sử dụng trên bệnh nhân mắc bệnh bạch cầu.




 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024