Karatedo thường được hiểu là con đường tốt đẹp trong cuộc sống để hoàn thiện nhân cách. Sở dĩ Karate phong phú và có nhiều trường phái là do từ bên ngoài đưa đến hơn là chính bản thân nó lúc nguyên thuỷ mà có. Năm
1750, Satsunuku (Tode) Sakugawa gặp Kusanku - Một nhà
ngoại giao người Trung Quốc, Trường phái Shorin đã bắt nguồn từ đó. Đến đầu thế kỷ XX, nó được chia thành bốn hệ phái:
1. Matsumura Seito (Matsumura Seito Shorin Ryu): Là một trong những trường phái chính của các môn võ ở Okinawa do Sokon Matsumura sáng lập vào năm 1800 và truyền cho Nabe Matsumura, sau đó là Hohan Soken. Matsumura Seito Shorin Ryu tổng hợp các kỹ thuật chiến đấu truyền thống Okinawa là Shuri - Te và Tomari - Te.
2. Shobayashi (Shobayashi Shorin Ryu) (phong cách
Rừng non): Người sáng lập là Eizo Shimabukuro vào năm
1948.
3. Kobayashi Ryu (Shorin Ryu): Người sáng lập là Choshin Chibana. Ông đặt tên cho trường phái của mình là Shorin Ryu hay Kobayashi Ryu (phong cách Rừng nhỏ) vào năm 1933.
4. Matsubayashi (Matsubayashi Ryu) còn gọi là Matsubayashi Shorin Ryu (phong cách Rừng thông): Người sáng lập là Shoshin Nagamine (1947). Nó bao gồm mười tám bài Kata, bảy thế song đấu Yakusoku Kumite, các thế chiến đấu và Kobudo (các loại vũ khí). Shoshin Nagamine là ngư ời đứng đầu của Matsubayashi Shorin Ryu. Nagamine đã nghiên cứu với Ankichi Arakaki, Chotoku Kyan và Chok i Motobu. Shorin Ryu là một phong cách nhu của Okinawa. Kỹ thuật nhanh nhẹn rất thích hợp với một người có cấu trúc cơ thể nhỏ nhắn. Các khía cạnh tinh thần nghiêm ngặt của nó được coi như là một giáo phái tôn giáo.
Okinawa là nơi hội tụ phát xuất và Nhật Bản là nơi phát triển môn Không Thủ Đạo hiện đại và các loại vũ khí Kobudo ngày nay. Kobudo là hệ thống các loại vũ khí tự chế đa phần là nông cụ của người Okinawa dùng để chống lại các loại vũ khí bằng thép của binh lính các thể chế cai trị họ (xem phần các loại vũ khí của Karate). Theo các nhà sử học nghiên cứu về quá trình phát triển của Trường phái Kobayashi Shorin và hệ thống vũ khí Kobudo của Okinawa thì cho rằng đó chính là nghệ thuật về “Tay” của ngư ời Okinawa (Okinawa - Te), nghệ thuật này đã phát triển một cách độc lập với những hệ thống chiến đấu khác từ thuở còn
sơ khai của nó. Người ta cũng tin rằng với những dấu tích còn sót lại của hệ thống chiến đấu này, có thể nó đã tồn tại cách đây 1000 năm về trước. Những người dân sinh sống ở Okinawa đa số là những người nghèo khổ, các loại vũ khí là nguồn tai họa gieo rắc sự sợ hãi cho họ bởi lệnh cấm sử dụng vũ khí của nhà cầm quyền đang cai trị hòn đảo này. Okinawa chưa bao giờ được thống nhất vì những thủ lĩnh cát cứ ở nhiều vùng trên đảo liên tục gây hấn lẫn nhau để tranh giành quyền lực tối cao. Hậu quả là những tình trạng này đã trở thành một động cơ mạnh mẽ để dẫn đến những cuộc giao chiến tay không.
Vào giữa những năm 1340, Okinawa bước vào giai đoạn quan hệ thương mại và chính trị tốt đẹp với Trung Quốc đã cho phép người dân có thể tìm hiểu nhiều lĩnh vực khác như về hệ thống võ thuật. Đến năm 1372, nhiều gia đình kinh doanh người Trung Quốc định cư tại Okinawa đã mang theo những kỹ năng đa dạng, trong đó bao gồm cả những nghệ thuật chiến đấu của người Trung Quốc.
Xuyên suốt những năm 1400, Okinawa đã trải qua nhiều tình trạng rối loạn. Đầu tiên là hòn đảo này đã được hợp nhất bởi Hoàng đế Sho Hashi vào năm 1429. Trong thời gian này một ít người dân Okinawa vẫn còn sử dụng vũ khí. Tuy nhiên vào năm 1470, Sho En (triều Sho thứ hai) đã ban hành nhữ ng đạo luật khắc khe hơn triều đại trước trong đó bao gồm cả lệnh cấm sử dụng và tàng trữ các loại vũ khí quân dụng. Quân đội dưới quyền của vua Sho đã nhanh chóng được thành lập trên toàn lãnh thổ Okinawa, vì sợ rằng triều đại ông ta có thể bị lật đổ. Như một hệ quả, những nghệ thuật chiến đấu bằng tay không đã phát triển xa hơn và trở nên quan
trọng hơn đối với người dân Okinawa. Những ngôi làng lớn ở Okinawa là những nơi đã phát xuất những phong cách chiến đấu chính yếu của môn võ Okinawate. Sự phát triển của “Te” đã tiếp diễn trên nhiều năm và đã được tập luyện hầu như chỉ một số ít người. Sự phát triển đã được tập trung ban đầu chủ yếu là ba làng Shuri, Naha và Tomari ở Okinawa. Các huấn luyện viên đã thiết lập phong cách độc đáo cho vùng đó. Từ làng Shuri đã xuất hiện môn Shuri - Te, làng Naha thì xuất hiện mônNaha - Te và làng Tomari là Tomari - Te. Kể từ khi Tomari là một thị trấn của nông dân và ngư dân, người dân làng này không được coi trọ ng hơn ở Naha và Shuri. Tuy nhiên ở đây là cái mốc quan trọ ng trong hình thành và phát triển Karate vì đã xuất hiện hai bậc thầy đó là Matsumara (1829-1898) và Oyadomari (1831-
1905). Những người này tuy ít nổi tiếng như Itosu
hoặc Higashionna nhưng học trò của họ đóng vai trò quan trọng trong lịch sử phát triển Karate. Oyadomari đã dạy cho Chotoku Kyan - Người đã sáng tạo ra một trong ba phong cách của Shorin Ryu và học trò của Matsumara là Chok i Motobu cũng rất nổi tiếng là “Người giác đấu xuất sắc”. Bên cạnh cách chiến đấu bằng tay không, vào thời đó người dân Okinawa đã bắt đầu sử dụng vũ khí Kobudo như: Bo (gậy lớn dài khoảng 1m82), Eku (mái chèo dài khoảng 1m60), Kama (liềm cắt cỏ, gặt lúa), Tonfa (tiếng Việt gọi là Tum pha, là một loại đòn xay, tay cầm của cối xay ngũ cốc và lúa), Nunchaku (tức côn nhị khúc, đùi quất ngựa hoặc có thể dùng để đập lúa).
Sở dĩ người dân Okinawa được phép sử dụng những lo ại vũ khí Kobudo vì bản thân chúng là những nông cụ được sử dụng với mục đích phục vụ cuộc sống hằng ngày. Nhà cầm
quyền ở Okinawa thời bấy giờ đã không ngờ được rằng những nông dân này lại có thể sử dụng chúng như những lo ại vũ khí lợi hại để chống lại họ. Sự thật, những loại nông cụ bình thường của người dân Okinawa đã làm nên lịch sử, điều đó có thể được chứng minh bằng Tổng liên đoàn Kobudo Okinawa (Matayoshi Kobudo). Sau đó, người ta bổ sung sử dụng Kuwa (cái cuốc như một vũ khí tự vệ), Timbe và Rochin (kỹ thuật dùng khiên và đoản kiếm hoặc dao găm), Nunti Bo (kỹ thuật sử dụng giáo, mác, thương, xiên đâm cá). Ngoài ra, người ta còn huấn luyện cách sử dụng các vũ khí làm từ những dụng cụ bình thường như cái vồ, cái chai hay ống khóa. Để tiếp thu được nghệ thuật này, không nhữ ng các môn sinh phải tập luyện các bài quyền mà còn phải rèn luyện cơ bắp cho cứng cáp, nếu không thì không thể thực hành các bài quyền thành công được.
Những phong cách chiến đấu bằng tay không và có sử dụng vũ khí đã được thực hành một cách bí mật trong nhiều năm. Có ý kiến cho rằng phong cách của Te đã chịu ảnh hưởng của nhiều phong cách chiến đấu của Trung Quốc khác nhau. Shuri - Te theo hình dáng bên ngoài, cách sử dụng có vẻ giống như “Mai Hoa Quyền”. Trong khi đó Naha - Te thì được kết hợp với những kỹ thuật trong Lão Giáo. TrongTomari - Te lại thấy xuất hiện một sự hòa trộn của hai phong cách chiến đấu Trung Quốc nói trên. Những mâu thuẫn này là nguyên nhân dẫn đến việc hình thành nhữ ng trường phái Karate khác biệt của chúng ta ngày nay.
Sau sự kiện năm 1609, lệnh cấm người dân sử dụng vũ khí của Lãnh chúa Satsuma, mặc dù trong thời gian này lệnh cấm người dân Nhật Bản không được giao thương với nhiều quốc
gia khác còn hiệu lực, người Okinawa vẫn được phép giao lưu buôn bán với người Trung Quốc. Tiếp đến khoảng giữ a năm 1750, một người Trung Quốc tên là Kusank u (Kwang Shang Fu, Kung Hsiang Chun) đã được gử i đến Okinawa, ông là một đại sứ của triều đại nhà Thanh. Kusanku cư trú tại làng Kanemura, gần thành phố Naha được sáu năm. Trong thời gian ở tại đây, ông đã bắt đầu dạy võ Quyền Pháp (Chuan fa còn gọi là Kempo). Môn võ này đã hòa trộn với các nghệ thuật chiến đấu địa phương ở Okinawa, dần dần nó được biết với tên gọi là Tode hay Quyền Trung Quốc. Vào năm 1800, Tode đã được đặt tên lại là Shuri - Te và Tomari - Te, lúc này được người Okinawa gọi là Shorin Ryu, trong khi đó Naha - Te được gọi là Goju Ryuvà Uechi Ryu. Mặc dù Kusank u luôn được người dân Okinawa tin rằng ông là người có địa vị cao nhất và được tôn kính nhất, nhưng ông vẫn luôn cho rằng mình chỉ là một người bình thường như bao người khác. Sự giảng dạy Tode Sukugawa của Kusanku đã làm cho hai nền tảng căn bản của “Te” và “Quyền Trung Quốc” được phối hợp lại làm một về mặt nguyên lý. Những nguyên lý được phối hợp này chính là những nguyên lý căn bản hiện đại của trường phái Shorin ngày nay. Bằng các bài quyền này, người luyện tập Karate có thể một mình luyện các tư thế và miếng võ tới mức thuần thục. Số lượng các bài quyền trong Karate lên đến bảy mươi bài, nhưng không phải trường phái Karatedo nào cũng luyện đủ. Một số lưu phái luyện các bài quyền (Kata) có cùng tên gọi, nhưng động tác bài đó lại ít nhiều khác nhau giữa các lưu phái, nhất là giữa các lư u phái ở Okinawa và các lưu phái ở Nhật Bản. Có nhiều bài Kata đã thất truyền và cũng có nhiều bài mới được sáng tác từ thời Minh Trị. Nhiều bài Kata có đến hai tên gọi do các
cao thủ Karate đã sửa tên gọi ban đầu của bài Kata đó nhằm tạo thuận lợi cho việc phổ biến chúng như: Ananko (Ananku), Aoyagi, Chinte, Chinto (Gankaku), Hakutsura, Jion, Jiin, Jitte, Kururunfa, Kusanku (Kanku), Naihanchi (Tekki), Nisheishi (Nijushiho), Nipipo (Nipaipo), Passai (Bassai), Pechulin (Suparempei), Pinan (Heian), Rohai (Meikyo), Saifa, Sanchin, Sanseryu (Sanseru), Seipai, Seiunchin, Seisan (Hangetsu), Shisoochin, Sochin, Tensho , Unsu, Usheishi (Gojushiho), Wanduan (Wandoo), Wankuan, (Matsukaze), Wansu (Empi). Ngoài ra còn có những bài quyền riêng biệt như Taikyoku (Shotokan và Shotokai), Gekisai (Goju Ryu).
Ngày nay, Kata trở thành nội dung thi đấu trong một số phong trào thể thao. Sau đây là một số bài quyền do các bậc thầy tiền bối đã đóng góp cống hiến trong quá trình phát triển Karate hiện đại:
- Kusanku (Kwang Shang Fu): Ông đã dạy môn Tode
Sakugawa và sáng tác quyền Kusanku.
- Sokon (Bushi) Matsumura: Sáng tác các bài quyền
Passai và Chinto.
-Yasutsune (Ankoh) Itosu: Sáng tác các bài quyền Pinan, Naihanchi Nidan, Naihanchi Sandan, Passai Sho, Passai Dai, Kusanku Sho, Kusanku Dai.
- Chosin Chibana: Sáng tác quyền Gojushido.
- Shuguro Nakazato: Sáng tác quyền Shorin Ryu
Shorikan.
Nguyên tắc chính trong việc hướng dẫn văn hóa đạo đức của Karatedo là không cho phép một người biết Karate gây thương tích hoặc tấn công đối phương trước, trừ phi bị dồn vào chỗ bế tắc. Vì vậy Gichin Funakoshi đã nói: “Trong Karate không có kỹ thuật tấn công”, chiều hướng giải quyết chính trong những trường hợp này vẫn chỉ là hóa giải và luô n luôn trong tư thế tự vệ. Karatedo không đơn thuần chỉ là những kỹ thuật đấm đá tay không mà nó bao gồm cả quá trình tu tập tinh thần song song với rèn luyện thể chất. Kỹ thuật song song với đạo đức đã được nung đúc trên nền tảng triết lý đạo Phật (Bukyo), Thần đạo (Shinto) và Võ đạo (Budo). Trong đó tâm thế đạo đức Phật giáo là yếu tố tinh thần, còn Thần đạo và Võ đạo là yếu tố hành vi ứng xử trong cuộc sống xã hội. Chữ Do của Karate - Do có nghĩa là Đạo - là con đường dẫn dắt chúng ta đến Chân - Thiện - Mỹ. Các võ sư Karate thường khuyên các đệ tử phải tu luyện sao cho có thể hợp nhất được tinh thần và thể chất thành một khối thống nhất, không thể tách rời nhau. Mô hình ứng xử lý tưởng theo các võ sư phải là: “Bắt ý thức phải lệ thuộc vào thể chất; còn thể chất phải tuân thủ sự chi phối của ý thức mình”. Một thành tố quan trọng của mô hình đó là phải tuân thủ những đức lệ mà mọi võ sinh phải rèn luyện thật dày công trong suốt cả cuộc đời hoặc trong từng chặng, mới hy vọng trở thành một người hiểu biết đúng đắn, rõ ràng về Không Thủ Đạo. Một Karateka chân chính phải rèn luyện cả hai mặt văn hóa và kỹ thuật song hành và phải có hứng thú cả hai. Chiêm nghiệm bản thân và cuộc sống qua một số câu danh ngôn của các bậc tiền bối như:
“ - Chiến thắng vạn quân không bằng tự chiến thắng mình ”
“- Khuất phục kẻ xấu bằng con đường hòa bình chính là mục đích của Karatedo”
“- Người học võ không chỉ rèn luyện thể chất và kỹ năng chiến đấu, mà phải hành đạo thông qua võ thuật, đó là Võ đạo”
“- Người biết dẹp bỏ tự ái thì trau dồi được nghệ thuật,
người gặp ân oán biết hóa giải là người hiểu được Đạo”
“- Cái mà Karatedo muốn đạt tới chính là phép đối nhân, xử thế; kỹ thuật chiến đấu chỉ là phương tiện”
“- Không khắt khe, ta khó lòng sống sót. Không mềm mỏng, ta sẽ chẳng đáng sống ở đời”
“- Vết thương bằng gươm giáo có thể lên da non, như ng
vết thương tinh thần thì chẳng bao giờ lành sẹo”
“- Người biết lượng thứ không phải là người ngu ngốc, kẻ
ngu ngốc thường là những kẻ chẳng hề biết tha thứ”
“- Làm giàu tri thức là làm giàu ứng xử, giúp người là giúp
mình”
“- Không có trung tâm, không có giới hạn là có chân lý”
“- Nếu sức mạnh mà không có công lý thì sức mạnh đó trở nên vô nghĩa”
“- Đạo đức, phẩm hạnh con người không chỉ là nền tảng của một cuộc sống có ý nghĩa mà còn là bản lề của sự thành công”
“- Giúp người nấu cơm thì được ăn, giúp người đánh nhau
thì chảy máu”
“ - Cái mất không bao giờ mất hẳn, cái còn không hẳn mãi
là còn”
“ - Hạnh phúc là cho và sống vì người khác”
“- Tinh thần Võ đạo là sống quên mình. Diệt bỏ tự ngã, khổ luyện trong sinh tử, chắc chắn sẽ tịnh tiến, vì diệt bỏ tự ngã là tức là đang sống”
Bạn tập Karatedo được một thời gian khá dài mới thẩm thấu được môn nghệ thuật này, nó luôn tạo hưng phấn kích thích sáng tạo với cảm giác bình yên và một niềm tin vào cuộc sống. Nó luôn hấp dẫn như bình minh tươi sáng và trong lành nên không làm bạn nản lòng khi tập luyện hàng vạn lần chỉ một động tác đơn giản. Trong Karate bạn phải không ngừng đẽo gọt, tinh luyện và sáng tạo nó mới trở thành vô chiêu thức. Người tập không một hệ thống mặc định nào mới được sự tự chủ, tự tại và có “Tâm vô uý, Trí vô ngại”. Bạn nên giữ tâm tĩnh lặng, thần trong sáng dù đó là một ngày bão tố hay một ngày bình yên và luôn tin rằng bao giờ cũng là bước đầu tiên mới có ánh sáng tương lai như người Nhật Bản nói: “Thiên lý bắt đầu là một bước chân”. Karate đã được người Nhật “Đạo hoá” như một loại hình nghệ thuật trong nền văn hoá Viễn Đông. Đó là hợp nhất sự đơn giản, tinh khiết, tĩnh lặng, hòa giải, an bình, lễ nghĩa của văn hóa truyền thống và tín ngưỡng dân tộc mà biến thành Zen. Người Nhật Bản thường nói: “Hoa đẹp nhất là hoa Anh đào, người đẹp nhất là người Võ sĩ”. Vẻ đẹp của hoa anh đào là vẻ đẹp thầm kín bên trong người võ sĩ, tuy không phô diễn
hương sắc nhưng dịu dàng, tinh khiết, khi nở cũng như lúc tàn, đời hoa rất đẹp. Nó ẩn chứa sức sống mãnh liệt trong cộng đồng trời đất, cũng như người Võ sĩ đạo, luôn có một phong thái sống hòa hợp, tôn kính, tinh tấn và tĩnh lặng (Hòa, Kính, Tịnh, An). Do lối sống rất khuôn mẫu về đạo đức nên giới Võ sĩ đạo (Samurai) luôn khiêm tốn và dũng cảm, trung nghĩa và nhân từ, ảnh hưởng vai trò của các tôn giáo: Thần đạo, đạo Nho, đạo Phật trong nền văn hoá Nhật Bản. Chúng ta nên hiểu Karatedo (Không Thủ Đạo) tức nghệ thuật tự vệ, với nghĩa rộng Kara là tánh không (Sunyata), không biên độ giữa trời, người và đất; trạng thái cơ bản tận cùng của vạn