Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
12/03/2014 10:03 # 1
trungnm92
Cấp độ: 7 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 19/70 (27%)
Kĩ năng: 0/10 (0%)
Ngày gia nhập: 19/03/2012
Bài gởi: 229
Được cảm ơn: 0
[Ebook] LẬP TRÌNH OOP VỚI C++ FULL


Chương này giới thiệu các hình thức khác nhau của các câu lệnh C++ để soạn thảo chương trình. Các lệnh trình bày việc xây dựng các khối ở mức độ thấp nhất của một chương trình. Nói chung mỗi lệnh trình bày một bước tính toán có một tác động chính yếu. Bên cạnh đó cũng có thể có các tác động phụ khác. Các lệnh là hữu dụng vì tác dụng chính yếu mà nó gây ra, sự kết nối của các lệnh cho phép chương trình phục vụ một mục đích cụ thể (ví dụ, sắp xếp một danh sách các tên). Một chương trình đang chạy dành toàn bộ thời gian để thực thi các câu lệnh. Thứ tự mà các câu lệnh được thực hiện được gọi là dòng điều khiển (flow control). Thuật ngữ này phản ánh việc các câu lệnh đang thực thi hiện thời có sự điều khiển của CPU, khi CPU hoàn thành sẽ được chuyển giao tới một lệnh khác. Đặc trưng dòng điều khiển trong một chương trình là tuần tự, lệnh này đến lệnh kế, nhưng có thể chuyển hướng tới đường dẫn khác bởi các lệnh rẽ nhánh. Dòng điều khiển là một sự xem xét trọng yếu bởi vì nó quyết định lệnh nào được thực thi và lệnh nào không được thực thi trong quá trình chạy, vì thế làm ảnh hưởng đến kết quả toàn bộ của chương trình. Giống nhiều ngôn ngữ thủ tục khác, C++ cung cấp những hình thức khác nhau cho các mục đích khác nhau. Các lệnh khai báo được sử dụng cho định nghĩa các biến. Các lệnh như gán được sử dụng cho các tính toán đại số đơn giản. Các lệnh rẽ nhánh được sử dụng để chỉ định đường dẫn của việc thực thi phụ thuộc vào kết quả của một điều kiện luận lý. Các lệnh lặp được sử dụng để chỉ định các tính toán cần được lặp cho tới khi một điều kiện luận lý nào đó được thỏa. Các lệnh điều khiển được sử dụng để làm chuyển đường dẫn thực thi tới một đường dẫn khác của chương trình. Chúng ta sẽ lần lượt thảo luận tất cả những vấn đề này. Trong thực tế hầu hết các lớp có thể kế thừa từ các lớp có trước mà không cần định nghĩa lại mới hoàn toàn. Ví dụ xem xét một lớp được đặt tên là RecFile đại diện cho một tập tin gồm nhiều mẫu tin và một lớp khác được đặt tên là SortedRecFile đại diện cho một tập tin gồm nhiều mẫu tin được sắp xếp. Hai lớp này có thể có nhiều điểm chung. Ví dụ, chúng có thể có các thành viên hàm giống nhau như là Insert, Delete, và Find, cũng như là thành viên dữ liệu giống nhau. SortedRecFile là một phiên bản đặc biệt của RecFile với thuộc tính các mẫu tin của nó được tổ chức theo thứ tự được thêm vào. Vì thế hầu hết các hàm thành viên trong cả hai lớp là giống nhau trong khi một vài hàm mà phụ thuộc vào yếu tố tập tin được sắp xếp thì có thể khác nhau. Ví dụ, hàm Find có thể là khác trong lớp SortedRecFile bởi vì nó có thể nhờ vào yếu tố thuận lợi là tập tin được sắp để thực hiện tìm kiếm nhị phân thay vì tìm tuyến tính như hàm Find của lớp RecFile. Với các thuộc tính được chia sẻ của hai lớp này thì việc định nghĩa chúng một cách độc lập là rất dài dòng. Rõ ràng điều này dẫn tới việc phải sao chép lại mã đáng kể. Mã không chỉ mất thời gian lâu hơn để viết nó mà còn khó có thể được bảo trì hơn: một thay đổi tới bất kỳ thuộc tính chia sẻ nào có thể phải được sửa đổi tới cả hai lớp. Lập trình hướng đối tượng cung cấp một kỹ thuật thuận lợi gọi là thừa kế để giải quyết vấn đề này. Với thừa kế thì một lớp có thể thừa kế những thuộc tính của một lớp đã có trước. Chúng ta có thể sử dụng thừa kế để định nghĩa những thay đổi của một lớp mà không cần định nghĩa lại lớp mới từ đầu. Các thuộc tính chia sẻ chỉ được định nghĩa một lần và được sử dụng lại khi cần. Trong C++ thừa kế được hỗ trợ bởi các lớp dẫn xuất (derived class). Lớp dẫn xuất thì giống như lớp gốc ngoại trừ định nghĩa của nó dựa trên một hay nhiều lớp có sẵn được gọi là lớp cơ sở (base class). Lớp dẫn xuất có thể chia sẻ những thuộc tính đã chọn (các thành viên hàm hay các thành viên dữ liệu) của các lớp cơ sở của nó nhưng không làm chuyển đổi định nghĩa của bất kỳ lớp cơ sở nào. Lớp dẫn xuất chính nó có thể là lớp cơ sở của một lớp dẫn xuất khác. Quan hệ thừa kế giữa các lớp của một chương trình được gọi là quan hệ cấp bậc lớp (class hierarchy). Lớp dẫn xuất cũng được gọi là lớp con (subclass) bởi vì nó trở thành cấp thấp hơn của lớp cơ sở trong quan hệ cấp bậc. Tương tự một lớp cơ sở có thể được gọi là lớp cha (superclass) bởi vì từ nó có nhiều lớp khác có thể được dẫn xuất.

File đính kèm Bạn phải đăng nhập mới thấy link download



 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024