Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
08/11/2011 12:11 # 1
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Mọi Điều Ta Chưa Nói

Marc Levy

Mọi Điều Ta Chưa Nói



Người dịch: Bảo Linh



"Một trong những câu chuyện lãng mạn hư ảo lôi cuốn nhất." - Le Matin 

"Hồi hộp, hài hước và ngọt ngào." - LCI 

"Giữa những xúc cảm được chôn giấu, những vết thương lòng từ thuở ấu thơ, những chi tiết hài hước nhẹ nhàng, len lỏi vào một điều bất ngờ..." - Télé 7 Jours



1

- Sao, anh thấy em thế nào? 

- Xoay người để anh nhìn em nào. 

- Stanley, anh soi em từ đầu đến chân suốt nửa tiếng đồng hồ rồi, em không đứng vững nổi trên cái bục này nữa. 

- Anh sẽ giảm bớt độ dài; sẽ là phạm thượng nếu che đi cặp chân như chân em! 

- Stanley! 

- Em muốn biết ý kiến của anh, em thân mến, có hay không nào? Xoay tiếp để anh nhìn em từ chính diện xem. Đúng như anh nghĩ, anh không thấy điểm nào khác biệt giữa kiểu cổ trễ vai với kiểu lưng rủ ôm sát; ít ra trong trường hợp làm giây bẩn, em chỉ việc lộn mặt lại... mặt trước mặt sau, cũng thế cả! 

- Stanley! 

- Cái ý tưởng mua một chiếc váy cưới hạ giá này làm anh sởn da gà. Tại sao không phải trên Internet một khi em đã hạ quyết tâm làm thế? Em muốn biết ý kiến của anh, anh nói rồi đấy. 

- Xin lỗi nếu em không thể sắm cho mình thứ tốt hơn với đồng lương kỹ thuật viên đồ họa. 

- Nhà hình họa chứ, công chúa của anh! Có Chúa chứng giám, anh ghê sợ cái thuật ngữ sặc mùi thế kỷ XXI ấy. 

- Em làm việc trên máy tính, Stanley ạ, chứ không phải bút chì màu nữa! 

- Cô bạn gái thân nhất của anh vẽ phác và truyền sinh khí cho những nhân vật tuyệt vời, vậy nên, dù có máy tính hay không, cô ấy vẫn là nhà hình họa chứ không phải kỹ thuật viên đồ họa; đúng là chuyện gì em cũng phải cãi bằng được. 

- Ta cắt ngắn hơn hay để nguyên thế này ạ? 

- Năm centimet! Thế rồi anh phải sửa cái vai này và bóp lại cho vừa. 

- Được, em hiểu rồi, anh ghét chiếc váy này. 

- Anh đâu có nói thế. 

- Nhưng anh nghĩ thế. 

- Cứ để anh góp thêm tiền với em và chạy ngay đến tiệm Anna Maier đi; anh van em,hãy nghie anh dù chỉ một lần này thôi!

- Để chi mười nghìn đô mua váy ấy hả? Anh điên mất rồi! Khoản tiền đó cũng không nằm trong khả năng của anh, vả lại chỉ là một đám cưới thôi mà, Stanley. 

- Đám cưới của chính em đấy! 

- Em biết, Julia thở dài. 

- Với cái cơ nghiệp bố em nắm trong tay, ông ấy hẳn có thể... 

- Lần cuối cùng em nhìn thấy ông, khi đó em đang dừng trước đèn đỏ, còn bố em ngồi trong một chiếc xe hơi đang xuôi xuống Đại lộ số 5... cách đây sáu tháng. Miễn bàn! 

Julia nhún vai và rời khỏi chiếc bục cô đang đứng. Stanley nắm tay cô kéo lại và ôm cô. 

- Em thân mến, mọi chiếc váy trên thế gian này sẽ đều rất hợp với em, anh chỉ muốn chiếc váy em mặc thật hoàn hảo. Tại sao không bảo gã chồng tương lai tặng nó cho em? 

- Bởi vì bố mẹ của Adam đã lo hôn lễ, và nếu bên họ nhà trai có thể tránh bàn tán rằng anh ấy đã cưới một nàng Cosette thì em không cảm thấy tệ hơn đâu. 

Nhón chân, Stanley bang ngang cửa tiệm và nhằm thẳng hướng một dãy mắc áo gần tủ kính trưng bày. Chống tay trên quầy thu ngân, những nhân viên bán hàng cả nam lẫn nữ đang mải chuyện hoàn toàn không nhận thấy điều anh làm. Anh chộp lấy một chiếc váy dài dáng ôm sát bằng xa tanh trắng rồi quay trở lại. 

- Thử cái này đi và anh không muốn nghe thêm một từ nào nữa! 

- Chiếc váy này cỡ 36, Stanley ạ, em sẽ không đời nào chui lọt trong đó đâu! 

- Anh vừa nói thế nào ấy nhỉ? 

Julia ngước mắt nhìn trời và đi về phía phỏng thử theo hướng tay Stanley đang chỉ. 

- Chiếc này cỡ 36 đấy, Stanley! cô vừa nói vừa đi xa dần. 

Vài phút sau, tấm rèm bất chợt mở ra cũng giống như cách nó khép lại trước đó. 

- Rốt cuộc đây là thứ gì đó giống với chiếc váy cưới của cô dâu Julia, Stanley thốt lên. Bước ngay lên bục xem nào. 

- Anh có một cái tời để kéo em lên chứ? Bởi vì, đấy, nếu em co đầu gối... 

- Nó cực hợp với em! 

- Và nếu em lỡ nuốt mất một bẩu bánh cắt, đường may sẽ toạc ra. 

- Người ta đâu có ăn vào ngày cưới của mình! Chỉ cần nới một chút ở ngực và trông em sẽ giống một bà hoàng! Em có tin là trong cửa hàng này xuất hiện một nhân viên nam không, dù sao cũng thật khó tin! 

- Chính em mới là người bị kích động chứ đâu phải anh! 

- Anh không kích động, anh phát hoảng khi chỉ còn bốn ngày nữa là đến hôn lễ, vậy mà chính anh phải lôi em đi mua váy cưới! 

- Thời gian gần đây em chỉ có làm việc thôi! Mà ta sẽ không nhắc gì về ngày hôm nay với Adam hết, em thề với anh ấy là mọi thứ đã sẵn sàng từ một tháng nay. 

Stanley vớ một cái gối cắm kim nằm chỏng chơ trên tay vin ghế bành và quỳ dưới chân Julia. 

- Chồng em không nhận thấy hắn may mắn thế nào đâu, em thật lộng lẫy. 

- Hãy thôi châm chọc Adam đi. Rốt cuộc thì anh chê trách anh ấy điểm gì nào? 

- Hắn ta giống bố em... 

- Anh cứ luyên thuyên thôi. Adam chẳng có gì liên quan đến ông ấy cả, ngoài ra còn ghét nữa. 

- Adam ghét bố em hả? Một điểm cộng cho hắn ta. 

- Không, là bố em không ưa Adam. 

- Bố em vẫn luôn căm thù tất cả những ai có quan hệ gần gũi với em. Nếu em có một con chó, thì thể nào cũng cắn nhau mất thôi. 

- Không sai, nếu em có một con chó, chắn chắn nó sẽ cắn bố em mà, Julia vừa nói vừa cười. 

- Là bố em cắn con chó thì có! 

Stanley nhỏm dậy và lùi lại vài bước để ngắm nghía tác phẩm của mình. Anh lắc đầu rồi hít vào thật sâu. 

- Còn chuyện gì nữa đây? Julia hỏi. 

- Chiếc váy tuyệt vời, hay đúng ra là không phải, là em tuyệt vời. Để anh chỉnh lại cái đai lưng và rốt cuộc em có thể dẫn anh đi ăn trưa được rồi. 

- Nhà hàng nào tùy anh chọn đấy, Stanley! 

- Với mặt trời thế này, bất kỳ cái sân hiên nào cũng vừa ý anh, với điều kiện nó ở trong bóng râm và em ngừng cựa quậy để anh có thể hoàn thành chiếc váy này... gần như hoàn hảo. 

- Sao lại gần như? 

- Nó được bán hạ giá, em thân mến ạ! 

Một cô bán hàng đi ngang qua và hỏi họ có cần trợ giúp gì không. Stanley khoát tay ra hiệu không cần. 

- Em nghĩ ông ấy sẽ đến à? 

- Ai cơ? Julia hỏi. 

- Bố em, ngốc ạ! 

- Đừng nhắc ông ấy với em nữa. Em đã bảo với anh là hàng tháng nay em không nhận được tin tức của ông rồi còn gì. 

- Nhưng thế không có nghĩa là.. 

- Ông ấy không tới đâu! 

- Em báo tin cho bố chưa? 

- Đã lâu rồi em thôi không kể chuyện đời mình với người thư ký riêng của bố nữa, bởi vì bố hoặc đang du lịch hoặc đang bận họp và không có thời gian để nói chuyện với con gái. 

- Em gửi thiệp báo cho ông ấy rồi hả? 

- Anh hỏi sắp xong chưa? 

- Sắp! Em và bố giống như một đôi tình nhân cũ ấy, ông ấy đang ghen. Tất cả các ông bố đều ghen! Rồi sẽ qua thôi. 

- Đây đúng là lần đầu tiên em nghe thấy anh bênh ông ấy đấy. Vả lại nếu bố con em trước kia có là một cặp tình nhân đi nữa, thì hai người cũng đã cắt đứt hàng năm nay rồi. 

Giai điệu ca khúc "I will survive" vang lên từ túi của Julia. Stanley nhìn cô dò hỏi. 

- Em muốn nghe máy không? 

- Chắc là Adam hoặc xưởng phim... 

- Đừng nhúc nhích, em sẽ làm cả tác phẩm của anh hỏng bét mất, anh sẽ lấy điện thoại cho em. 

Stanley thọc tay vào túi xách của cô bạn, lôi ra chiếc điện thoại di động và đưa cho cô. Vừa hay Gloria Gaynor im bặt. 

Quá muộn rồi! Julia nói thầm khi nhìn thấy số điện thoại hiện trên màn hình. 

- Thế nào, Adam hay công việc? 

- Cả hai đều không phải, cô đáp, vẻ mặt cau có. 

Stanley nhìn cô chăm chú. 

- Ta đang chơi trò giải câu đố hả? 

- Là văn phòng bố em. 

- Gọi lại cho ông ấy đi! 

- Dĩ nhiên là không! Ông ấy chỉ việc tự gọi lại cho em. 

- Chẳng phải ông ấy vừa làm thế sao? 

- Thư ký của ông ấy vừa gọi, đó là số máy lẻ của anh ta. 

- Em đợi cuộc gọi này từ khi gửi thiệp báo qua đường bưu điện, đừng có giở trò trẻ con ấy nữa. Cách hôn lễ của mình có bốn ngày, người ta chuyển sang phương thức dè sẻn trầm uất. Em muốn có một cái mụn rộp to tướng trên môi, một vết ban đỏ gớm ghiếc trên cổ ư? Thế nên, gọi lại cho ông ấy ngay đi. 

- Để Wallace giải thích với em rằng bố em thật lòng lấy làm tiếc, rằng ông sẽ có chuyến công tác nước ngoài và than ôi, không thể hủy chuyến đi được dự kiến từ vài tháng trước ư? Hoặc rất có thể không may ông bận giải quyết một phi vụ thuộc hàng quan trọng nhất đúng ngày hôm đó hoặc em không biết có lý do thoái thác nào nữa? 

- Hoặc rất có thể ông vui lòng đến dự đám cưới của con gái và muốn xác nhận rằng, bất chấp những tranh cãi giữa hai người, cô vẫn sẽ thấy ông ngồi ở bàn dành cho khách danh dự! 

- Bố em có cần danh dự; nếu có đến, ông ấy thích ngồi gần khu gửi đồ hơn, với điều kiện là cô nàng phụ trách khu vực đó phải có thân hình đẹp cơ! 

- Ngừng ghét bố mình và gọi cho ông ấy đi, Julia. Ồ, thế rồi có việc làm theo ý em, em sẽ mong ngóng ông ấy trong suốt hôn lễ thay vì tận hưởng thời khắc ấy. 

- Mà chính bởi vậy nên mong ngóng sẽ làm em quên rằng em không thể động đến những chiếc bánh cắt kéo theo nguy cô nổ tung trong chiếc váy anh chọn! 

- Trúng phóc, em thân mến ạ! Stanley huýt sáo và chạy về phía cửa ra vào, chúng ta sẽ đợi hôm nào đó tâm trạng em vui hơn hẵng ăn trưa. 

Julia suýt thì sẩy chân khi leo xuống bục và chạy về phía anh. Cô túm lấy vai anh và lần này thì chính cô là người ghì chặt anh trong vòng tay. 

- Bỏ qua cho em, Stanley, ý em không phải vậy, em xin lỗi. 

- Về bố em hay chiếc váy mà anh đã chọn và sửa cho em quá tệ? Anh lưu ý em là chuyện em vừa xém chút nữa thì ngã hay chuyện em lao ầm ầm trong cái nơi thảm hại này hình như cũng không mảy may làm sứt đường chỉ nào đâu! 

- Chiếc váy anh chọn đẹp hoàn hảo, anh là người bạn tốt nhất của em, không có anh thậm chí em không thể nghĩ tới chuyện đi tới ban thờ làm lễ được. 

Stanley nhìn Julia, rút từ túi áo chiếc khăn mùi soa lụa và lau đôi mắt ngấn nước của cô bạn. 

- Em thực sự muốn khoác tay một gã đồng tính tiến vào nhà thờ, hay điều bậy bạ cuối cùng em làm sẽ là nhầm tưởng anh với ông bố đểu giả của em? 

- Chính em mới là người anh phải khen ngợi đấy, cô ngốc ạ, em tự coi mình hơi trẻ quá rồi. 

- Stanley, em muốn anh là người dẫn em đến gặp chồng em! Còn ai khác ngoài anh nào? 

Anh mỉm cười, chỉ vào điện thoại di động của Julia và nói giọng dịu dàng: 

- Gọi cho bố em đi! Anh sẽ chỉ qua cho cô ả bán hàng ngốc nghếch biết những chỗ cần sửa, cô ấy có vẻ chưa tỏ tường thế nào là một khách hàng nam, để váy của em xong xuôi vào ngày kia và rốt cuộc chúng ta cũng được đi ăn trưa. Gọi ngay đi, Julia, anh đói gần chết rồi đây! 

Staley quay gót và tiến về phía quầy thu ngân. Dọc đường, anh liếc nhìn cô bạn, thấy cô lưỡng lự rồi cuối cùng cũng gọi điện thoại. Anh tranh thủ lúc đó kín đáo rút tập séc của mình ra, thanh toán chiếc váy, chi phí sửa, và thêm một khoản để mọi việc đâu vào đấy trong vòng bốn mươi tám giờ tới. Anh cất phiếu vào túi rồi quay về phía Julia, cô vừa cúp máy. 

- Thế nào? Anh nóng lòng muốn biết. Ông ấy đến chứ? 

Julia lắc đầu. 

- Lần này thì ông ấy viện cớ gì để vắng mặt vậy? 

Julia hít thật sâu và nhìn Stanley đăm đăm. 

- Ông ấy chết rồi! 

Hai người bạn nhìn nhau hồi lâu, câm lặng. 

- Này, phải công nhận là lý do này không có gì để chê trách cả! Stanley thì thào. 

- Anh đúng là ngốc, anh biết đấy! 

- Anh xin lỗi, ý anh không phải vậy, thậm chí anh không rõ anh làm sao nữa. Chia buồn với em, em thân mến. 

- Em chẳng cảm thấy gì hết, Stanley ạ, không đến cả chút xíu nhói đau trong lồng ngực, không một giọt nước mắt trào lên.

- Rồi nó sẽ đến, em đừng lo, em chưa nhận thấy đó thôi. 

- Nhưng đúng là thế mà. 

- Em muốn gọi cho Adam không? 

- Không, không phải lúc này, để sau đi. 

Stanley nhìn cô bạn, vẻ lo lắng. 

- Em không muốn báo với chồng tương lai rằng bố em vừa mất sao? 

- Ông vừa mất tối qua, tại Paris; xác ông sẽ được đưa về theo đường hàng không, bốn ngày nữa sẽ an táng, cô nói thêm bằng một giọng vừa đủ nghe. 

Stanley bắt đầu nhẩm trên đầu ngón tay. 

- Thứ Bảy này ư? Anh vừa nói vừa trợn tròn mắt. 

- Ngay buổi chiều diễn ra đám cưới của em..., Julia thì thầm. 

Stanley lập tức tiến về phía cô thu ngân, lấy lại tấm séc của mình và kéo Julia ra phố. 

- Anh đãi em ăn trưa!

° ° °

New York tắm trong ánh nắng vàng rực của tháng Sau. Hai người bạn đi ngang Đại lộ số 9 và nhằm thẳng hướng Pastis, một quán bia Pháp, một điểm mốc thực sự trong khu phố đầy biền động này. Suốt những năm gần đây, những nhà kho cũ của Meat Packing District đã nhường chỗ cho những biển hiệu sang trọng và cho những nhà tạo mẫu được sùng mộ nhất thành phố. Những khách sạn nổi tiếng và những cửa hiệu mọc lên như có phép màu. Tuyến đường sắt lộ thiên trước kia được biến thành một vành đai cây xanh mướt, ngược lên tận Phố 10. Tại đây, một nhà máy cũ được cải dụng từ nay trở đi sẽ thu nạp một khu chợ sinh thái ở tầng trệt, những công ty sản xuất cùng những hãng quảng cáo chiếm các tầng phía trên, văn phòng của Julia ngự tại tầng sáu. Phía dưới kia, hai bờ của Hudson River, được tái quy hoạch, tạo thành một con đường dạo mát dài cho người đi xe đạp, người đi bộ thể dục và dành cho những cặp tình nhân say đắm những băng ghế kiểu Mahattan của Woody Allen. Ngay từ tối ngày thứ Năm, khu phố đã đầy du khách đến từ tiểu bang láng giềng New Jersey, những người vượt sông để đến rong ruổi và tiêu khiển trong đông đảo các quán bar hay nhà hàng đang thịnh hành.

Ngồi vào bàn ngoài hiên quán Pastis, Stanley gọi hai cốc cappiccino. 

- Lẽ ra em nên gọi cho Adam, Julia nói vẻ hối lỗi. 

- Nếu là để thông báo rằng bố em vừa qua đời, phải, lữ ra em nên cho cậu ta biết, chuyện ấy thì không còn nghi ngờ gì nữa. bây giờ, nếu là để thông báo rằng đám cưới của hai người sẽ phải hoãn lại, rằng cần phải báo trước cho linh mục, nhà cung cấp tiệc, các khách mời và thế nên có cả bố mẹ cậu ta, vậy thì cứ cho là chuyện này có thể đợi thêm chút nữa. Thời tiết hôm nay thật lý tưởng, hãy để cho cậu ta thêm một giờ đồng hồ nữa trước khi ngày của cậu ta thành ra hỏng bét. Vả lại em đang chịu tang, chuyện này đảm bảo cho đủ mọi quyền, hãy tận dụng bằng hết! 

- Làm sao để báo cho anh ấy tin này? 

- Em thân mến, cậu ta nên hiểu là thật khó để mai táng bố mình và kết hôn trong cùng một buổi chiều; mà nếu anh đoán là một ý tưởng như thế dẫu sao cũng có thể cám dỗ em, thì nó cũng khá là không phải phép. Nhưng làm thế nào một chuyện như thế lại có thể xảy ra cơ chứ? Lạy Chúa! 

- Tin em đi, Stanley. Chúa chẳng liên quan gì trong chuyện này cả, chính bố em và duy chỉ mình ông chọn cái ngày hôm đó. 

- Anh không nghĩ ông đã quyết định chết vào tối qua tại Paris chỉ với mục đích duy nhất là phá hỏng lễ cưới của em, ngay cả khi anh cho rằng ông đã khá tinh tế trong việc lựa chọn địa điểm! 

- Anh không biết bố em đâu, để quấy rầy em, ông ấy có thể bày đủ trò! 

- Uống café của em đi, chúng ta hãy tận hưởng bữa tắm nắng này, và sau đó hẵng gọi cho nguyên chồng sắp cưới của em!



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
Các thành viên đã Thank Carnation vì Bài viết có ích:
08/11/2011 12:11 # 2
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Những bánh xe của chiếc Boeing 747 Cargo thuộc hãng hàng không Air France nghiến lạo xạo trên đường băng sân bay John Fitzgerald Kennedy. Từ những khung cửa sổ lớn của tòa nhà hàng không dân sự, Julia nhìn chiếc quan tài dài bằng gỗ gụ hạ xuống băng chuyền đưa nó từ khoang chưa hành lý của máy bay ra chiếc xe tang đang đỗ trên mặt đường rải nhựa. Một sĩ quan cảnh sát phi cảng đến tìm cô trong phòng chờ. Được hộ tống bởi viên thư ký của bố cô, chồng chưa cưới và anh bạn thân nhất, cô leo lên một chiếc minivan và được chở tới tận máy bay. Một nhân viên hải quan Mỹ đợi cô ở dưới khoang hành khách để trao cho cô một chiếc phong bì. Bên trong là vài thứ giấy tờ hành chính, một chiếc đồng hồ đeo tay và một cuốn hộ chiếu. 

Julia lật qua cuốn sổ. Một vài dấu thị thực chứng nhận những tháng cuối cùng trong đời Anthony Walsh. Saint-Petersbourg, Berlin, Hồng Kông, Bombay, Sài Gòn, Sydney, chừng ấy thành phố còn xa lạ đối với cô, chừng ấy xứ sở cô những muốn cùng ông thăm thú. 

Trong khi bốn người đàn ông hối hả quanh cỗ quan tài, Julia nhớ lại những chuyến đi dài của bố ngày cô còn là một bé gái mải đánh nhau vì những chuyện cỏn con trong sân chơi. 

Bao nhiêu đêm mong ngóng ông quay về cũng là chừng ấy buổi sáng, trên vỉa hè con đường đến trường, cô nhảy từ ô gạch này sang ô gạch khác, bày ra một trò chơi nhảy ô tưởng tượng và quyết định rằng nếu kết quả tốt thì thể nào bố mình cũng xuất hiện. Thế rồi đôi khi, mong ước thường bị bỏ qua trong nhiều đêm nguyện cầu này lại được chấp thuận đã khiến cửa phòng cô bật mở, vạch trên sàn ván một luồng sáng thần diệu nơi cái bóng của Anthony Walsh hiện ra. Lúc bấy giờ ông đến ngồi ở cuối giường cô và đặt trên tấm chăn một đồ vật nhỏ để cô khám phá khi thức dậy. Tuổi thở của Julia được soi sáng như thế, một ông bố mang về cho con gái mình từ mỗi địa danh một vật duy nhất sẽ kể lại đôi chút về chuyến đi. Một con búp bê từ Mexico, một cây bút lông từ Trung quốc, một bức tượng nhỏ bằng gỗ từ Hungary, một chiếc vòng đeo tay từ Guatemala, làm thành những kho báu thực sự. 

Thế rồi đến quãng thời gian mẹ cô có những biểu hiện rối loạn đầu tiên. Ký ức đầu tiên, sự lẫn lộn này biểu hiện trong một rạp chiếu phim ngày Chủ nhật, khi mà đang giữa buổi chiếu, bà hỏi cô tại ao người ta lại tắt hết đèn đóm thế này. Tâm hồn có dạng cái rây nơi sẽ không bao giờ ngừng hõm xuống thành những lỗ thủng của hồi ức, nhỏ, rồi mỗi lúc một lớn dần; những lỗ thủng khiến bà lẫn lộn nhà bếp với phòng tập nhạc, bật ra những tiếng kêu inh tai, bởi chiếc đàn dương cầm loại lớn đã biến mất... sự biến mất của vật chất, nó khiến bà quên tên của những người bà kề cận. Suy sụp, cái ngày bà thốt lên khi nhìn thấy Julia "Cô bé xinh xắn này làm gì trong nhà tôi thế?". Sự trống rỗng vô hạn của tháng Mười hai xưa cũ ấy, khi xe cứu thương đến đưa bà đi, sau khi bà đốt chiếc áo dài mặc trong nhà của mình, bất động, vẫn còn kinh ngạc đầy thán phục về cái quyền lực vừa mới khám phá khi châm mọt điếu thuốc, chính bà, người vốn không hút thuốc bao giờ. 

Một bà mẹ qua đời vài năm sau trong một dưỡng đường tại New Jersey mà không bao giờ nhận ra con gái mình. Trong đám tang, tuổi thiếu niên đã đến, được lấp đầy bằng quá nhiều những buổi tối ôn bài với viên thư ký riêng của bố cô, trong khi ông bố tiếp tục những chuyến đi của mình mỗi lúc một thường xuyên hơn, mỗi lúc một dài hơn. Trường trung học, trường đại học, ra khỏi trường đại học để rốt cuộc miệt mài với niềm đam mê duy nhất của mình, sáng tạo ra những nhân vật, cho chúng cuộc sống trên màn hình máy tính. Những động vật trở thành gần như người, bạn hữu và tòng phạm trung thành dường như muốn mỉm cười với cô bằn một nét chì đơn giản, và cô có thể lau khô những giọt nước mắt bằng một nhát tẩy trên bảng màu đồ họa. 

- Thưa cô, thẻ căn cước này có đúng là của bố cô không? 

Giọng nói của nhân viên hải quan kéo Julia về với thực tại. Cô gật đầu xác nhận. Người đàn ông ký vào tờ khai in sẵn và đóng dấu lên tấm ảnh của Anthony Walsh. Dấu chứng thực cuối cùng trên một cuốn sổ hộ chiếu, nơi những cái tên ghi dấu những thành phố không có chuyện gì khác để kể ngoài câu chuyện về sự vắng mặt. 

Người ta xếp cỗ quan tài lên một chiếc break dài màu đen. Stanley lên ngồi cạnh tài xế, Adam mở cửa xe cho Julia, chăm chút người con gái lẽ ra anh đã được lấy làm vợ vào buổi chiều hôm ấy. Về phần viên thư ký riêng của Anthony Walsh, ông ngồi vào một ghế phụ tít phía sau, vị trí gần di hài người quá cố nhất. Đoàn xe tang chuyển động và rời khỏi khu vực phi cảng để xuôi theo xa lộ 678. 

Chiếc ô tô hòm ngược lên mạn phía Bắc. Trên xe, không ai lên tiếng. Wallace không rời mắt khỏi cỗ áo quan chứa đựng thi thể của người chủ cũ. Stanley thì đang chăm chú nhìn đôi tay mình, Adam nhìn Julia còn Julia lặng ngắm phong cảnh xám xịt của vùng ngoại ô New York. 

- Ông định đi đường nào? Cô hỏi người tài xế khi ngã rẽ về phá Long Island dần hiện ra. 

- Lối cầu Whitestone, thưa bà, tài xế đáp. 

- Ông có thể đi lối cầu Brooklyn được không? 

- Tài xế lập tức bật xi nhan và đổi làn đường. 

- Lối đó phải vòng thêm một quãng khá xa, Adam nói nhỏ, đường của ông ta ngắn hơn. 

- Cả ngày đã tệ hại rồi, chừng ấy đủ làm ông ấy vui lòng. 

- Vui lòng ai cơ? Adam hỏi. 

- Bố em. Chúng ta hãy tặng ông ấy chuyến cuối đi qua Phố Wall, TriBeCa, SoHo và sao lại không phải là qua Công viên Trung tâm nhỉ. 

- Nào, anh phải nhắc thế này, ngày hôm nay đã tệ hại rồi, vậy nên nếu em muốn làm ông ấy vui lòng thì tùy, Adam nói tiếp. Nhưng nên báo cho linh mục là chúng ta đến muộn. 

- Cậu có thích chó không Adam? Stanley hỏi, 

- Có, tóm lại tôi nghĩ là thế, nhưng chúng thì không thích tôi cho lắm, sao anh hỏi vậy? 

- Không sao cả, một ý tưởng thế thôi..., Stanley vừa đáp vừa mở rộng cửa kính xe chỗ mình ngồi. 

Đoàn xe đi xuyên đảo Manhattan từ phía Nam sang phía Bắc và một tiếng sau thì tới Phố 233. 

Tại cổng chính nghĩa trang Woodlawn, thanh chắn đường nhấc lên. Chiếc ô tô hòm đi theo một loạt những lăng mộ, vượt qua một lối ngang chìa ra trên hồ nước rồi dừng lại trước lối đi, nơi một lỗ huyệt mới đào chẳng bao lâu nữa sẽ tiếp nhận người chiếm giữ nó. 

Một linh mục đang đứng chờ. Người ta đặt quan tài trên hai cái mễ phía trên lỗ huyệt. Adam đi gặp linh mục, để thỏa thuận những chi tiết cuối cùng của lễ tang. Stanley quàng tay ôm Julia. 

- Em đang nghĩ gì thế? Anh hỏi cô. 

- Em nên nghĩ đến điều gì nào, đúng vào lúc dự đám tang ông bố mà em đã không trò chuyện cùng từ hàng năm trời nay? Anh luôn có những câu hỏi thực khiến người ta phải hoang mang, Stanley của em ạ. 

- Lần này là ngoại lệ, anh hỏi nghiêm túc đấy; lúc này em đang nghĩ gì vậy? Quan trọng là em phải nhớ lấy nó. Thời khắc này sẽ mãi thuộc về cuộc sống của em, tin anh đi! 

- Em nghĩ đến mẹ. Em tự hỏi liệu trên đó bà có nhận ra ông không, hay là vẫn tiếp tục lang thang vơ vẩn trong chứng quên của mình giữa những đám mây. 

- Giờ em lại tin vào Thượng đế ư? 

- Không, nhưng ta cũng nên tin lúc nào cũng có một tin tốt lành. 

- Anh phải thú nhận với em một điều, Julia ạ, và hãy thề với anh rằng em sẽ không chế giễu, nhưng càng lúc anh càng tin vào Chúa lòng lành. 

Julia nở một nụ cười rầu rĩ. 

- Thực ra, trong chuyện của bố em, em không chắc sự tồn tại của Chúa có phải là một tin tốt lành hay không. 

- Linh mục hỏi xem chúng ta đã có mặt đông đủ chưa, ông ấy muốn biết liệu ông ấy có thể bắt đầu được không? Adam hỏi khi quay trở lại gặp họ. 

Chỉ có bốn chúng ta thôi mà, Julia liền đáp và ra hiệu cho viên thư ký của bố cô lại gần. Đó là điều dở cho những nhà du hành vĩ đại, những tên cướp biển đơn độc. Gia đình và bạn bè chỉ là những chỗ quen biết phân tán khắp bốn phương trời... Và những chỗ quen biết thì hiếm khi lặn lội tìm đến để dự lễ tang; đó là mộ thời điểm trong đời mà ta hầu như không thể giúp đỡ cũng không thể chiếu cố cho ai. Người ta sinh ra một mình và chết đi cũng chỉ một mình. 

- Chính Đức Phật đã nói vậy còn bố em là một tín đồ Công giáo chính hiệu, em yêu, Adam đáp. 

- Một con dorbeman, cậu cần một con dorbeman khổng lồ, Adam ạ! Stanley thờ dài. 

- Nhưng anh viện cớ gì mà cứ muốn ấn cho tôi một con chó thế? 

- Không có gì, quên chuyện này đi! 

Linh mục lại gần Julia để nói với cô rằng ông lấy làm tiếc gì phải chủ trì loại nghi lễ này, trong khi ngày hôm nay ông rất mong được cử hành hôn lễ cho cô. 

- Cha không thể bắn một mũi tên trúng hai con nhạn sao? Julia hỏi ông. Bởi vì xét cho cùng, ta cũng cóc cần các khách mời cơ mà. Đối với Chủ nhân của cha, đó là ý được đánh giá cao, phải không? 

Stanley không thể nén một tràng cười sảng khoái trong khi linh mục phẫn nộ. 

- Thôi nào, thưa cô! 

- Tôi đảm bảo với cha rằng ý kiến đó không đến nỗi quá ngớ ngẩn đâu, ít ra là nếu làm vậy, bố tôi hẳn sẽ được dự đám cưới của tôi! 

- Julia! Lần này là Adam nạt. 

- Được, vậy là theo ý kiến chung, đó là một ý tồi, cô nhượng bộ. 

- Các vị muốn phát biểu vài lời chăng? Linh mục hỏi. 

- Tôi muốn lắm, cô vừa nói vừa nhìn chằm chằm chiếc quan tài. Có lẽ là ông chăng, Wallace? Cô đề nghị với viên thư ký riêng của bố mình. Nói gì thì nói ông cũng là người bạn trung thành nhất của ông ấy cơ mà. 

- Tôi nghĩ là mình cũng không thể làm được chuyện đó đâu, thưa cô, viên thư ký đáp, vả lại, bố cô và tôi có thói quen âm thầm thấu hiểu nhau. Có chăng một câu duy nhất, nếu cô cho phép, không phải với ông ấy mà là với cô. Bất chấp tất cả những thiếu sót cô gán cho ông ấy, cô nên biết rằng đó là một người đàn ông, đôi khi khắc nghiệt, đôi khi kỳ cục, thậm chí ngông cuồng, nhưng cũng là một người tốt, không còn ghi ngờ gì nữa; và ông ấy luôn yêu cô. 

- Này, nếu tôi đếm chính xác thì đoạn vừa rồi phải hơn một câu ấy chứ, Stanley húng hắng ho khi nhìn thấy mắt Julia nhòa đi. 

Linh mục đọc một câu kinh cầu nguyện rồi đóng quyển kinh nhật tụng lại. Cỗ quan tài của Anthony Walsh được hạ chầm chậm xuống huyệt. Julia chìa ra cho viên thư ký một cành hồng. Người đàn ông mỉm cười và trả lại cô cành hoa. 

- Cô trước tiên, thưa cô. 

Những cánh hoa rơi tản mát khi chạm vào bề mặt gỗ, ba cánh hồng khác lần lượt rơi theo và bốn người khách viếng quay trở ra. 

Phía xa trên lối đi, cỗ xe tang đã nhường chỗ cho hai chiếc bốn chỗ. Adam khoác tay vợ chưa cưới của anh và kéo cô về phía những chiếc xe. Julia ngước mắt lên nhìn trời. 

Không một gợn mây, xanh, xanh, xanh, khắp nơi đều là màu xanh, không quá nóng cũng không quá lanh, không chút xào xạc, một ngày tuyệt vời biết mấy để kết hôn. 

- Sẽ có những ngày tuyệt vời khác nữa mà, em đừng lo, Adam trấn an cô. 

- Như ngày hôm nay ư? Julia thốt lên và dang rộng hai tay. Với bầu trời như thế này? Nhiệt độ thế này? Những tán cây tưng bừng sắc xanh? Những con vịt bơi lội trên mặt hồ? Trừ phi đợi đến mùa xuân sang năm, em ngờ là vậy! 

- Mùa thu cũng sẽ đẹp lắm mà, tin anh đi, mà em thích lũ vịt từ khi nào vậy? 

- Bọn chúng thích em thì có! Anh cũng thấy ban nãy chúng kéo đến cái ao gần mộ bố em đông thế nào rồi đấy! 

- Không, anh không để ý, Adam đáp, thoáng lo ngại về sự sôi nổi bất chợt của cô vợ chưa cưới. 

- Có đến hàng chục; hàng chục con vịt trời cổ xanh, với những chiếc nơ bướm của chúng, đã đến đậu ngay đó và lại lập tức bay đi khi buổi lễ kết thúc. Đó là những con vịt đã quyết định đến dự đám cưới CỦA EM, và chúng trở lại gặp em vào lễ tang của bố em! 

- Julia, hôm nay anh không muốn làm em phiền lòng, nhưng anh không tin là bọn vịt lại thắt nơ bướm. 

- Anh thì biết gì về chuyện ấy? Anh thì có bao giờ vẽ đến vịt? Em thì có đấy! Vậy nên nếu em bảo anh là bọn chúng đã mặc trang phục đi đại lễ thì em xin anh hãy tin em! Cô kêu lên. 

- Nhất trí thôi, em yêu, lũ vịt đó vận smoking, giờ chúng ta về thôi. 

Stanley và viên thư ký riêng của Anthony đang đợi họ gần chỗ xe đậu. Adam kéo Julia đi nhưng cô dừng lại trước một tấm bia mộ giữa đám cỏ rộng. Cô đọc tên của người phụ nữ đang yên nghỉ dưới chân mình cùng ngày sinh có từ thế kỷ trước.

- Em biết bà ấy à? Adam hỏi. 

- Đây là mộ bà nội em. Cả gia đình em từ giờ trở đi đều yên nghỉ trong nghĩa trang này. Em là hậu duệ cuối cùng của dòng dõi Walsh. À mà còn phải trừ ra khoảng vài trăm ông chú, bà cô, anh chị em họ chưa biết mặt đang sống rải rác đâu đó ở Ailen, Brooklyn và Chicago. Bỏ qua cho em chuyện ban nãy, em nghĩ là em đã hơi nổi nóng. 

- Không có gì nghiêm trọng đâu, lẽ ra chúng ta đã có thể kết hôn, rồi em lại phải mai táng bố em, em có bị xáo trộn cũng là chuyện bình thường. 

Họ dạo bước trên lối đi. Lúc này hai chiếc Lincoln chỉ còn cách vài mét. 

- Em có lý, Adam nói khi đến lượt mình cũng ngước nhìn trời, hôm nay là một ngày tuyệt đẹp, đến tận ngày cuối cùng trong đời ông, bố em vẫn thực sự làm phiền chúng ta. 

Julia ngay lập tức đứng khựng lại và thình lình rút tay khỏi tay anh. 

- Đừng nhìn anh như thế chứ! Adam vật nài, chính em đã nói thế ít nhất là hai chục lần kể từ khi nhận được tin báo tử của ông ấy còn gì. 

- Đúng thế đấy, em có thể nói câu ấy bao nhiêu lần tùy ý, nhưng anh thì không! Lên chiếc xe đầu ngồi với Stanley đi, em ngồi xe sau. 

- Julia! Anh xin lỗi... 

- Đừng xin lỗi, tối nay em muốn ở nhà một mình, và sắp xếp lại đồ đạc của người bố đến ngày cuối cùng trong đời mình vẫn còn làm phiền chúng ta, như anh đã nói đấy. 

- Nhưng không phải anh nói thế, khỉ thật, mà là em! Adam kêu lên trong khi Julia ngồi vào xe. 

- Một điều cuối cùng, Adam ạ, ngày mà chúng ta kết hôn, em muốn có lũ vịt, lũ vịt trời cổ xanh, hàng chục con vịt trời cổ xanh! Cô nói thêm trước khi sập cửa xe. 

Chiếc Lincoln khuất dần sau cánh cổng nghĩa trang. Bực dọc, Adam quay lại chiếc xe thứ hai và ngồi vào ghế sau, ben phải viên thư ký riêng. 

- Hay có lẽ là một con phốc! Nhỏ nhưng cắn dai..., Stanley ngồi đằng trước vừa kết luận vừa ra hiệu cho tài xế rằng anh ta đã có thể khởi hành.


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
Các thành viên đã Thank Carnation vì Bài viết có ích:
08/11/2011 12:11 # 3
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Chiếc ô tô chở Julia chậm rãi xuôi xuống Đại lộ số 5 dưới một cơn mưa rào bất chợt. Tại chỗ xe dừng từ những phút dài qua, bị nghẽn trong đám tắc đường, Julia nhìn chăm chú mặt tiền của một cửa hàng đồ chơi ở góc Phố 58. Cô nhận ra trong tủ kính con rái cá nhồi bông to xù có bộ lông màu xanh xám. 


Tilly đã chào đời vào một chiều thứ Bảy giống như chiều hôm nay, khi mưa rơi nặng hạt đến mức nó tạo thành những dòng nước nhỏ chạy ngoằn ngoèo dọc theo những cửa sổ trong phòng làm việc của Julia. Đắm chìm trong suy nghĩ, cô nhanh chóng nhìn thấy ở đó những dòng sông, những đường viền khung cửa sổ bằng gỗ trở thành đôi bờ của một cửa sông Amazon và đống lá cây bị mưa bứt đi trở thành nhà của một động vật lớp thú nhỏ, mà cơn mưa to như trút nước rồi đây sẽ cuốn đi, để lại cộng đồng rái cá trong sự hỗn loạn cực độ. 

Đêm tiếp theo trời vẫn mưa như thác đổ. Một mình trong căn phòng công nghệ tin học rộng lớn của xưởng phim hoạt hình nơi cô làm việc, lúc bấy giờ Julia đã vẽ phác thảo những nét đầu tiên cho nhân vật của cô. Không sao đếm xuể hàng nghìn giờ cô ngồi trước màn hình máy tính, vẽ, tô màu, truyền sinh khí, sáng tạo từng vẻ mặt và từng điệu bộ đem lại sự sống cho chú rái cá màu xanh nước biển. Không thể nhớ vô số những buổi họp giờ khuya, nhiều dịp cuối tuần dành để kể lại câu chuyện của Tilly và họ hàng của chú. Thành công do bộ phim hoạt hình mang lại đã đền bù cho hai năm làm việc miệt mài của Julia và năm mươi cộng sự làm việc dưới sự hướng dẫn của cô. 

- Tôi sẽ xuống đây, tôi sẽ đi bộ về nhà, Julia nói với người tài xế. 

Bác ta chỉ cho cô thấy mức độ dữ dội của cơn dông. 

- Đây đúng là thứ đầu tiên tôi thích trong ngày hôm nay, Julia nói chắc, trong khi cửa xe đã khép lại đằng sau cô. 

Và người lái xe hầu như không kịp nhìn thấy cô chạy về phía cửa hàng đồ chơi. Mưa rào có hề chi, bên trong quầy kính, Tlly dường như mỉm cười khi thấy cô tới thăm. Julia không thể ngăn mình ra hiệu cho chú; trước sự ngạc nhiên tột độ của cô, một bé gái đứng bên cạnh con thú bông to lớn ra hiệu đáp trả cô. Bà mẹ tóm lấy tay một cô bé một cách thô bạo và cố kéo cô bé về phía lối ra, nhưng đứa trẻ chống cự và nhảy vào vòng tay rộng mở của chú rái cá. Julia lén theo dõi cảnh tượng. Bé gái bám lấy Tilly và bà mẹ phát vào tay cô bé để cô bé buông ra. Julia bước vào trong cửa hàng và tiến về phía họ. 

- Bà có biết là Tilly nắm trong tay những phép thuật? Julia hỏi. 

- Nếu cần gọi nhân viên bán hàng, thưa cô, tôi sẽ ra hiệu, người phụ nữ đáp, mắt vẫn nhìn cô con gái với những tia hăm dọa. 

- Tôi không phải nhân viên bán hàng, tôi là mẹ của nó. 

- Gì kia? Người mẹ trong gia đình cao giọng hỏi. Cho đến khi có bằng chứng ngược lại, tôi mới là mẹ! 

- Tôi đang nói đến Tilly, con thú bông có vẻ như rất gắn bó với cô con gái nhỏ của bà. Chính tôi đã sinh ra nó. Bà cho phép tôi tặng nó cho cô bé chứ? Tôi buồn khi phải thấy nó một mình đơn độc trong cái tủ kính bày hàng bị chiếu sáng quá mức này. Ánh sáng gay gắt của những bóng đèn chiếu rốt cuộc sẽ làm phai màu bộ lông của nó mà Tilly lại hết sức hãnh diện về bộ lông màu xanh xám của mình. Bà không thể hình dung chúng tôi đã mất bao nhiêu thời gian để tìm ra cho chú ta màu lông ở gáy, cổ, bụng, mõm, những màu sắc đã trả lại cho chú ta nụ cười sau khi nhà của chú ta bị lũ cuốn trôi. 

- Tilly của cô sẽ ở lại trong cửa hàng này và con gái tôi sẽ học được cách theo sát mẹ nó trong lúc mẹ con tôi đi dạo phố! Bà mẹ đáp, kéo cánh tay đứa con mạnh đến nỗi cô bé buộc phải buông chân của con thú bông to lớn. 

- Tilly sẽ vui thích nếu có một cô bạn, Julia cố nài. 

- Cô muốn làm hài lòng một con thú nhồi bông ư? Bà mẹ chất vấn, sững sờ. 

- Hôm nay là một ngày hơi đặc biệt một chút. Tilly và tôi sẽ lấy làm hạnh phúc, con gái bà cũng vậy, tôi tin là thế. Chỉ một câu đồng ý để ban tặng ba niềm hạnh phúc, chuyện này cũng đáng để cân nhắc đấy chứ, phải không nào? 

- Sao nào, câu trả lời là không! Alice sẽ không nhận được quà và quà từ một người không quen biết lại càng không. Chúc cô buổi tối tốt lành! Bà ta vừa nói vừa đi xa dần. 

- Alice xứng đáng chứ; bà sẽ không phải than phiền trong vòng mười năm tới! Julia buột miệng trong lúc cố nén giận. 

Người mẹ quay lại và nhìn cô chòng chọc bằng ánh mắt cao ngạo. 

- Cô này, cô đã sinh ra một con thú nhồi bông, còn tôi thì sinh ra một đứa trẻ, vậy nên nếu muốn thì cô hãy giữ những bài học cuộc sống lại cho riêng mình! 

- Đúng thế, các bé gái thì không giống thú nhồi bông, ta không thể vá tạm những chỗ rách đã gây ra cho chúng! 

Người phụ nữ ra khỏi cửa hàng, bực tức. Hai mẹ con đi xa dần trên vỉa hè của Đại lộ số 5 không quay nhìn lại lần nào. 

- Xin lỗi nhé, Tilly, Julia nói với con thú bông, tao nghĩ là tao đã cư xử không khôn khéo rồi. Mày biết rõ tao rồi đấy, đó không phải thế mạnh của tao mà. Đừng lo, rồi mày sẽ thấy, tao sẽ tìm được cho mày một gia đình khá khẩm, chỉ cho riêng mày thôi. 

Ông giám đốc nãy giờ không bỏ sót chi tiết nào tiến lại gần. 

- Rất vui được gặp cô, cô Walsh, đã hơn tháng nay không thấy cô ghé qua. 

- Mấy tuần vừa rồi tôi nhiều việc quá. 

- Chúng tôi thu được thành công vượt quá mong đợi với tác phẩm của cô, đây là phiên bản thứ mười chúng tôi đặt mua. Bốn ngày bày trong tủ kính và, hấp, chúng bốc hơi ngay tức khắc, viên giám đốc vừa nói chắc vừa đặt con thú bông lại chỗ cũ. Mặt dù phiên bản này đã ở đó từ gần hai tuần nay, nếu tôi nhớ không nhầm. Nhưng với một khoảng thời gian như thế...

- Thời gian chẳng có nghĩa lý gì trong chuyện này cả, Julia đáp. Chú Tilly này là bản gốc, thế nên nó khó tính hơn, nó cần phải tự mình chọn lấy gia đình sẽ tiếp nhận nó. 

- Cô Walsh, lần nào ghé qua thăm chúng tôi cô cũng nói vậy, viên giám đốc trả lời, vẻ thích thú. 

- Tất cả bọn chúng đều là nguyên bản, Julia vừa khẳng định vừa chào từ biệt ông ta. 

Mưa đã tạnh, Julia rời cửa hàng, tiếp tục cuốc bộ về phía Hạ Manhattan và bóng cô dần lẫn vào giữa đám đông.

° ° °

Cây cối trên Horatio Street oằn mình dưới sức nặng của những chiếc lá sũng nước. Vào cuối giờ chiều, mặt trời rốt cuộc cũng xuất hiện trở lại, lặn dần xuống mặt sông Hudson River. Một thứ ánh sáng màu tía êm dịu tỏa lan khắp những con phố hẹp của khu West Village. Julia chào ông chủ của nhà hàng Hy Lạp nhỏ nằm đối diện nhà cô; người đàn ông đang bận rộn bày biện ngoài sân hiên đáp lại câu chào của cô và hỏi liệu tối nay cô có muốn đặt trước một bàn không. Julia lịch sự từ chối và hứa ngày mai Chủ nhật sẽ ghé qua dùng bữa trưa. 

Cô xoay chìa khóa trong ổ khóa cửa ra vào của khu nhà nhỏ nơi cô sống và leo cầu thang bộ lên tầng hai. Stanley đang ngồi ở bậc thang trên cùng chờ cô. 

- Anh làm thế nào mà vào được? 

- Zimoure, ông chủ tiệm dưới nhà; ông ấy đang chuyển các thùng hàng xuống tầng hầm, anh đã giúp, bọn anh đã chuyện phiếm về bộ sưu tập giày mới nhất của ông ấy, đơn giản là một kỳ quan. Nhưng thời buổi này ai còn có thể tậu về cho mình những tác phẩm nghệ thuật ấy nhỉ? 

- Cứ nhìn đám đông người liên tục ra vào cửa tiệm của ông ấy vào dịp cuối tuần, trên tay đầy những gói hàng, tin em đi, rất nhiều người có thể làm vậy đấy, Julia đáp. Anh cần gì nào? Cô hỏi trong lúc mở cánh cửa dẫn vào căn hộ. 

- Không, nhưng em thì tối nay chắc chắn là cần bạn bè rồi. 

- Nhìn cái vẻ chó lông xù cụp tai của anh, em tự hỏi không biết ai trong hai ta mới là nạn nhân của nỗi cô đơn đây. 

- A, để bảo vệ lòng tự ái của em, anh nhận về mình toàn bộ trách nhiệm vì đã đến đây làm khách không mời! 

Julia cởi áo đi mưa ra rồi quẳng lên chiếc ghế bành gần lò sưởi. Căn phòng sực nức mùi thơm của cây đậu tía leo dọc mặt tiền bằng gạch đỏ. 

- Nhà em thú vị thật đấy, Stanley thốt lên, gieo mình xuống tràng kỷ. 

- Ít ra năm nay em cũng làm được chuyện này, Julia vừa nói vừa mở tủ lạnh. 

- Làm được chuyện gì? 

- Bố trí lại tầng gác của ngôi nhà cũ kỹ này. Anh uống bia nhé? 

- Mất dáng như chơi! Một ly vang đỏ được không? 

Julia nhanh chóng dọn hai bộ đồ ăn trên chiếc bàn gỗ; cô đặt lên đó một đĩa pho mát, mở nút chai, đặt đĩa nhạc của Count Basie 1 vào ổ CD và ra hiệu cho Stanley đến ngồi đối diện với mình. Stanley xem nhãn chai rượu vang và huýt gió vẻ thán phục. 

- Một bữa tiệc tối chính cống, Julia vừa đáp trả vừa ngồi vào bàn. Với hai trăm khách mời cùng vài lát bánh cắt, ta hầu như có thể nhắm mắt lại và hình dung đây là bữa tiệc tối sau lễ cưới của em. 

- Em muốn khiêu vũ không, em thân mến? Stanley hỏi. 

Không đợi Julia trả lời, anh đã kéo cô đứng dậy và dẫn cô vào điệu swing. 

- Em sẽ thấy tối nay dẫu sao vẫn cứ là một buổi tiệc, anh tươi cười nói. 

Julia gục đầu vào vai anh. 

- Không có anh em biết phải làm gì bây giờ, Stanley thân mến? 

- Chẳng làm gì hết, nhưng điều này thì anh đã biết từ lâu rồi. 

Bản nhạc kết thúc và Stanley quay trở lại ngồi vào bàn. 

- Ít ra em cũng đã gọi cho Adam rồi chứ? 

Julia đã tận dụng chuyến đi bộ khá tốn thời gian của mình để xin lỗi chồng chưa cưới. Adam hiểu nhu cầu được ở một mình của cô. Bản thân anh đang tự trách mình vì đã cư xử hết sức vụng về trong lễ tang. Mẹ anh, người anh đã trò chuyện cùng khi từ nghĩa trang trở về, đã trách mắng anh về thái độ thiếu tế nhị đến mức ấy. Tối nay, anh sẽ đến căn nhà nghỉ nông thôn của bố mẹ anh để cùng gia đình sum vầy nốt thời gian còn lại của kỳ nghỉ cuối tuần. 

- Có những lúc anh đến phải tự hỏi, liệu có phải bố em đã làm một việc tốt khi kéo mọi người đến dự lễ tang ông vào đúng ngày hôm nay không, Stanley vừa nói khẽ vừa rót thêm cho mình một ly rượu. 

- Đúng là anh không hề ưa anh ấy! 

- Anh chưa từng nói thế! 

- Em đã một thân một mình suốt ba năm trời trong cái thành phố có đến hai triệu người độc thân này. Adam vừa ga lăng, rộng lượng, lại vừa ân cần tử tế. Anh ấy chấp nhận khung giờ làm việc phi lý của em. Anh ấy làm hết khả năng để đem lại hạnh phúc cho em, và trên hết, Stanley ạ, anh ấy yêu em. Thế nên, làm ơn đi, hãy khoan dung với anh ấy. 

- Nhưng anh có phản đối gì chồng chưa cưới của em đâu nào, cậu ta hoàn hảo! Chỉ là anh muốn thấy trong đời em một người đàn ông thực sự lôi cuốn được em, ngay cả khi anh ta đầy nhược điểm đi chăng nữa, hơn là một kẻ khác chỉ giữ được chân em vì hắn có vài đức tính nào đó. 

- Dạy dỗ em thì dễ lắm, thế còn anh, tại sao anh lại một mình? 

- Anh không một mình, Julia, anh góa bụa, chuyện đó hoàn toàn khác. Và không phải vì người đàn ông anh yêu mất đi mà người ấy rời xa anh. Em phải thấy Edward vẫn còn đẹp trai đến thế nào trên giường bệnh kia. Căn bệnh không lấy đi được vẻ oai phong của anh ấy. Anh ấy vẫn còn hóm hỉnh cho đến câu nói cuối cùng. 

- Câu ấy là gì vậy? Julia hỏi và ấp tay mình lên tay Stanley. 

- Mình yêu cậu! 

Hai người bạn cứ thế nhìn nhau hồi lâu trong yên lặng. Stanley đứng dậy, mặc lại áo vest rồi hôn lên trán Julia. 

- Anh về ngủ đây. Tối nay thì em thắng rồi đấy, anh mới là nạn nhân của cô đơn. 

- Đợi đã nào. Những lời cuối cùng này đúng là để nói với anh rằng anh ấy yêu anh hả? 

- Chuyện nhỏ ấy mà, Edward mà dối anh thì tiêu đời ngay, Stanley mỉm cười đáp.

° ° °

Sáng ra, Julia, ngủ luôn trên tràng kỷ, mở mắt và nhìn thấy cái chăn choàng Stanley đã đắp cho cô. Lát sau, cô tìm thấy một mẩu giấy nhắn dưới cái bát đựng bữa sáng. Cô đọc trên đó: "Dù chúng ta có văng vào mặt nhau những lời độc địa đến mức nào, thì em vẫn cứ là cô bạn tốt nhất của anh, và anh cũng yêu em nữa, Stanley."

--------------------------------
1 William "Count" Basie (1904-1084) nhạc sĩ, nhạc công jazz nổi tiếng người Mỹ (các chú thích đều là của người dịch).


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
08/11/2011 12:11 # 4
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Mười giờ sáng, Julia rời khỏi căn hộ của mình, quyết định sẽ dành cả ngày hôm nay ở văn phòng. Công việc của cô đang chậm trễ và có ở nhà ăn không ngồi rồi hoặc tệ hơn là đi xếp dọn những thứ dĩ nhiên sẽ trở nên lộn xộn trong vài ngày tới cũng chẳng để làm gì. Gọi điện thoại cho Stanley cũng vô ích, anh hẳn vẫn đang ngủ nướng; ngày Chủ nhật, trừ phi kéo anh ra khỏi giường để rủ đi ăn bữa sáng gộp hay hứa rằng sẽ có bánh quế kếp, nếu không anh sẽ chỉ xuất đầu lộ diện vào tầm giữa chiều. 


Horatio Street vẫn còn ít người qua lại. Julia chào mấy người hàng xóm đang ngồi trong sân hiên quán Pastis rồi rảo bước. Trên đường ngược lên Đại lộ số 9, cô gửi qua di động một tin nhắm thắm thiết cho Adam, và sau hai ngã tư kế tiếp, cô bước vào tòa nhà Chelsea Farmer's Market. Nhân viên trực thang máy đưa cô lên tầng trên cùng. Cô quẹt tấm thẻ từ qua khe đọc đảm bảo an ninh lối vào khu văn phòng rồi đẩy cánh cửa kim loại nặng nề. 

Ba chuyên viên đồ họa đang ngồi làm việc. Cứ nhìn vẻ mặt họ, rồi số cốc giấy đựng cà phê bị vò nát trong thùng giấy kim loại, Julia hiểu rằng họ đã thức làm cả đêm qua. Vấn đề nan giải đang huy động toàn bộ ê kíp của cô từ nhiều ngày nay hẳn là vẫn chưa được giải quyết. Không ai thiết lập được thuật toán phức tạp cho phép truyền sự sống tới một đơn vị chuồn chuồn được giả định sẽ bảo vệ một tòa lâu đài khỏi sự xâm lược sắp tới của một đội quân bọ ngựa. Bằng kế hoạch được lập dán trên tường chỉ rõ rằng cuộc tấn công phải được lập trình xong muộn nhất là trước thứ Hai tuần tới. Nếu từ giờ đến đó mà phi đoàn chuồn chuồn không cất cánh nổi thì hoặc là thành trì sẽ thất thủ dưới tay quân địch không có chút kháng cự nào, hoặc là bộ phim hoạt hình mới sẽ chậm lại rất nhiều; cả hai phương án đều khó có thể chấp nhận. 

Julia đẩy chiếc ghế xoay tiến tới và ngồi chen vào giữa hai cộng sự. Sau khi đã tham khảo tiến trình công việc của họ, cô quyết định ngay lập tức đẩy nhanh tiến độ. Cô nhấc điện thoại và gọi, lần lượt từng người một, tất cả những thành viên của ê kíp. Cuộc gọi nào cũng kèm theo lời xin lỗi vì đã phá hỏng buổi chiều Chủ nhật của họ, cô triệu tập họ đến phòng họp trong vòng một tiếng nữa. Dù có phải sửa đổi toàn bộ dữ liệu và dù việc này có kéo dài hết đêm, cũng sẽ không có chuyện tới sáng thứ Hai vẫn chưa có lũ chuồn chuồn tràn ngập bầu trời Enowkry. 

Và trong khi ê kíp đầu tiên buông khí giới, Julia chạy xuống lối đi của khu chợ và chất đầy hai thùng các tông bánh ngọt và bánh sandwich đủ loại để tiếp viện lương thực cho đội quân của mình. 

Mười hai giờ trưa, ba mươi bảy người đã có mặt hưởng ứng lời kêu gọi. Và không gian tĩnh lặng của khu văn phòng buổi sáng đã nhường chỗ cho không gian của một tổ ong, nơi các chuyên viên hình họa, đồ họa, màu họa, lập trình và những chuyên gia dựng phim trao đổi những báo cáo, phân tích cùng những ý tưởng ngông cuồng nhất. 

Năm giờ chiều, một hướng giải quyết được phát hiện bởi một tân binh mới toanh đã phát động bầu không khí huyên náo cùng một cuộc tranh luận trong phòng họp lớn. Charles, kỹ sư tin học vừa được tuyển dụng tăng viện, vừa nhận việc cách đây tám ngày. Khi Julia yêu cầu cậu ta trình bày lý thuyết của mình, giọng Charles run run và chỉ thốt ra những câu lắp bắp. Trưởng ê kíp còn gây thêm khó khăn khi chế giễu cách nói năng diễn đạt của cậu ta. Nhưng chuyện đó chỉ kéo dài đến khi cậu thanh niên quyết định gõ lên bàn phím máy tính, trong những giây dài dằng dặc ấy, người ta có thể nghe thấy tiếng cười nhạo vang lên từ phía sau lưng cậu ta; nhưng tiếng cười nhạo ngưng bặt khi một con chuồn chuồn bắt đầu đập cánh giữa màn hình và bay vút lên, vẽ thành một vòng tròn hoàn hảo trên bầu trời Enowkry. 

Julia là người đầu tiên chúc mừng cậu ta, rồi ba mươi lăm đồng nghiệp của cô cùng vỗ tay tán thưởng. Giờ đây, việc còn lại chỉ là làm cất cánh bảy trăm bốn mươi con chuồn chuồn đeo giáp khác. Lần này, chàng kỹ sư tin học trẻ tuổi đã chắc thắng, cậu ta trình bày phương pháp nhờ đó người ta có thể bội nhân công thức của mình. Trong khi cậu ta trình bày chi tiết dự án của mình, chuông điện thoại reo vang. Người đồng nghiệp ra bắt máy ra hiệu cho Julia, cuộc gọi tìm gặp cô, và chuyện có vẻ gấp. Cô nhắc khẽ người ngồi cạnh nhớ thất kỹ những gì Charles đang giảng giải rồi rời khỏi phòng họp để về phòng mình nhận điện.

° ° °

Julia nhận ngay ra giọng của ông Zimoure, chủ tiệm giày nằm ở tầng trệt ngôi nhà trên Horatio Street. Chắc chắn là hệ thống vòi nước của nhà cô lại thêm một lần nữa chết tắc. Nước đã nhỏ tong tỏng qua trần xuống những bộ sưu tập giày của ông Zimoure, mỗi đôi trong số đó trị giá ngang bằng nửa tháng lương của cô, suốt một tuần trong đợt bán hàng hạ giá. Julia càng rõ chuyện này hơn vì đó chính xác là những gì hãng bảo hiểm của cô đã nói rõ khi trả cho ông Zimoure một tấm séc giá trị lớn hồi năm ngoái, để bồi thường những thiệt hại do cô gây ra. Julia đã quên khóa vòi nước trong cái máy giặt kiểu cổ khi ra khỏi nhà, nhưng ai mà lại chưa từng quên những kiểu chi tiết nhỏ nhặt như vậy chứ? 

Ngày hôm đó, đại diện hãng bảo hiểm đã cam đoan với cô rằng đây là lần cuối cùng họ chịu trách nhiệm bồi thường cho một tai nạn loại này. Chỉ vì Tilly là người hùng của lũ con anh ta, đồng thời là vị cứu tinh của chính anh ta vào mỗi sáng Chủ nhật kể từ khi anh mua cho chúng phiên bản DVD của bộ phim hoạt hình, nên anh ta đã muốn thuyết phục hãng không thẳng tay hủy hợp đồng bảo hiểm. 

Mối quan hệ giữa Julia với ông Zimoure đòi hỏi rất nhiều nỗ lực vun đắp. Một lời mời đến dự tiệc đêm vào dịp Lễ Tạ ơn tổ chức tại nhà Stanley, một lời kêu gọi đình chiến vào dịp Giáng sinh, cùng vô số sự ân cần khác là thiết yếu để không khí giữa hàng xóm láng giềng lại trở nên hòa thuận. Nhân vật được nhắc đến ở đây có bản tính không mấy niềm nở, chuyện gì cũng đem ra lý luận, và thường chỉ cười với những câu nói hóm hỉnh của bản thân. Julia nín thở, chờ người đối thoại thông báo mức độ thảm họa. 

- Cô Walsh ạ... 

- Ông Zimoure, dù đã xảy ra chuyện gì, xin ông biết cho rằng tôi vô cùng lấy làm tiếc. 

- Vẫn không thể bằng tôi đâu, cô Walsh ạ, tiệm của tôi đang chật ních khách hàng, và nhiều việc khác cần phải làm hơn là lo đến món hàng được giao đến nhà cô trong lúc cô vắng mặt. 

Julia cố làm dịu nhịp đập thình thịch nơi tim mình và cố hiểu xem vấn đề ở đây là gì. 

- Món hàng nào ạ? 

- Nhưng chính cô mới là người nói cho tôi biết chứ, thưa cô! 

- Tôi rất tiếc, tôi không đặt mua gì cả, va dù sao đi nữa, tôi lúc nào cũng đăng ký giao mọi thứ về nơi làm việc. 

- A, lần này thì dường như không phải vậy. Tôi đang thấy một chiếc xe tải to uỳnh đỗ ngay trước cửa hàng. Chủ nhật là ngày quan trọng nhất đối với tôi, chuyện này gây ra cho tôi một tổn thất khá lớn. Hai gã khổng lồ vừa dỡ cái hòm được gửi đến cho cô không chịu đi chừng nào ai đó chưa ký nhận. Tôi hỏi cô, chúng tôi biết phải làm gì bây giờ? 

- Một cái hòm ạ? 

- Chính xác là cái mà tôi vừa nói đấy thôi, cô còn muốn tôi nhắc lại từ đầu đến cuối thêm một lần nữa chăng, trong khi khách hàng của tôi đang phát sốt ruột? 

- Thật ngại quá, ông Zimoure, Julia nói tiếp, tôi không biết phải nói với ông thế nào nữa. 

- Thí dụ như nói tôi biết bao giờ thì cô về đến nơi, để tôi báo cho mấy quý ngài đây biết quãng thời gian mà cả đám chúng tôi sẽ mất nhờ có cô? 

- Nhưng nhất định tôi không thể quay về ngay bây giờ được, công việc chỗ tôi đang ngập đầu ngập cổ... 

- Thế cô nghĩ tôi đang ngồi làm bánh kẹp đấy chắc, cô Walsh? 

- Ông Zimoure ạ, tôi không chờ một món hàng nào cả, không thùng các tông, không phong bì chứ đừng nói đến một cái hòm! Vả chăng, đây dĩ nhiên là một sự nhầm lẫn. 

- Từ quầy kính trong tiệm, tôi không cần đến kính mà vẫn đọc thấy trên nhãn kê, bởi vì kiện hàng của cô được đặt ngay trước chỗ tôi mà, rành rành tên cô bằng chữ in hoa ngay trên địa chỉ khu nhà chúng ta và ngay dưới chữ "dễ vỡ"; hẳn là cô quên đấy thôi! Đây đâu phải lần đầu tiên trí nhớ của cô phản chủ, đúng không nào? 

Ai có thể là người gửi kiện hàng này nhỉ? Một món quà của Adam chăng, một món hàng cô đã đặt mua rồi quên chăng, hay một thiết bị dành cho văn phòng mà cô đã sơ suất đăng ký giao về địa chỉ nhà riêng? Dù thế nào chăng nữa, Julia cũng không thể bỏ mặc các cộng sự mà cô đã triệu tập đến xưởng phim vào một ngày Chủ nhật. Giọng của ông Zimoure buộc cô phải tìm cho ra một ý nào đó trong thời gian ngắn nhất, nếu không muốn nói là ngay tức khắc. 

- Tôi nghĩ là tôi có một giải pháp cho rắc rối của chúng ta rồi, ông Zimoure. Với sự giúp đỡ của ông, chúng ta có thể khắc phục tình hình. 

- Giờ thì tôi càng thêm nể phục cái đầu óc lô gíc của cô rồi đấy. Đáng lẽ cô nên nói rằng cô có thể giải quyết cái vấn đề cho tới lúc này vẫn là vấn đề của riêng mình cô, chứ không phải của tôi, nhờ thế mà không một lần nữa làm liên lụy đến tôi, cô làm tôi kinh ngạc đấy, cô Walsh ạ. Thế nên tôi đang lắng nghe cô cực kỳ chăm chú đây. 

Julia thổ lộ với ông rằng cô giấu một chìa khóa dự phòng dưới thảm trải cầu thang, ở bậc thứ sáu. Ông chỉ việc đếm bậc. Nếu không phải bậc thứ sáu thì sẽ là bậc thứ bảy hoặc có thể là bậc thứ tám. Như thế ông Zimoure có thể mở cửa cho những nhân viên giao vận và cô chắc chắn rằng ngay khi làm xong, họ sẽ rút đi không một giây chậm trễ với cái xe tải to đùng đang chắn trước cửa tiệm. 

- Và tôi hình dung rằng lý tưởng nhất là tôi phải đợi cho tới lúc họ đi khỏi để khóa lại cửa căn hộ của cô, có đúng không? 

- Lý tưởng, tôi sẽ không thể tìm ra từ nào chuẩn xác hơn, ông Zimoure ạ... 

- Nếu đây là một thiết bị điện gia dụng, thưa cô Walsh, tôi sẽ vô cùng biết ơn nếu cô cho thợ lành nghề đến lắp đặt. Cô hiểu tôi muốn nói gì rồi đấy! 

Julia muốn trấn an ông, cô không đặt mua bất kỳ thiết bị nào loại đó, nhưng người hàng xóm của cô đã gác máy. Cô nhún vai, suy nghĩ vài giây rồi quay lại với công việc đang choán hết toàn bộ trâm trí.

° ° °

Khi màn đêm buông xuống, tất cả mọi người tập hợp trước màn hình trong phòng họp lớn. Charles thao tác trên máy tính và những kết quả hiển thị trên màn hình có vẻ rất đáng khích lệ. Thêm vài giờ làm việc nữa và "cuộc chiến đấu của những chú chuồn chuồn" sẽ có thể diễn ra đúng giờ dự kiến. Các chuyên viên tin học kiểm tra lại các phép tính, các chuyên viên đồ họa hoàn thiện những chi tiết cuối cùng của phối cảnh và Julia bắt đầu cảm thấy sự xuất hiện của mình là vô ích. Cô tới phòng căng tin, ở đó cô gặp Dray, một chuyên viên hình họa đồng thời là một cậu bạn cô đã học cùng trong một khoảng thời gian dài. 

Thấy cô vươn vai, anh đoán chứng đau cột sống đã hạ gục cô và khuyên cô hãy về nhà nghỉ ngơi. Cô may mắn vì sống cách đây chỉ vài dãy phố, cô phải tận dụng lợi thế ấy. Anh sẽ gọi cho cô ngay khi những thử nghiệm hoàn tất. Julia cảm động trước cử chỉ ân cần ấy nhưng cô có nhiệm vụ ở lại sát cánh cùng các cộng sự; Dray bác lại rằng nhìn cô đi từ phòng này sang phòng khác chỉ dồn thêm áp lực không cần thiết vào nỗi mệt nhọc chung. 

- Và từ khi nào sự hiện diện của tớ lại trở thành một gánh nặng tại nơi này thế? Julia hỏi. 

- Đừng thổi phồng mọi chuyện như vậy, tất cả mọi người đều đang quá tải. Chúng ta đã không có được lấy một ngày nghỉ nào từ sáu tuần nay. 

Julia lẽ ra đang trong thời gian nghỉ phép cho tới Chủ nhật tuần sau và Dray thừa nhận rằng toàn bộ nhân viên đang hy vọng có thể tranh thủ dịp này để xả hơi một chút. 

- Cả đám bọn tớ cứ nghĩ cậu đang hưởng tuần trăng mật chứ... Đừng hiểu sai điều ấy, Julia. Tớ chỉ là phát ngôn viên của họ thôi, Dray nói tiếp vẻ bối rối. Đó là cái giá phải trả cho những trách nhiệm mà cậu đã nhận về mình. Từ ngày cậu được bổ nhiệm chức giám đốc bộ phận sáng tạo, cậu không còn đơn thuần là một đồng nghiệp nữa, cậu đại diện cho một uy quyền nào đó... Bằng chứng đây, hãy nhìn số người cậu đã huy động được chỉ với vài cuộc điện thoại và hơn nữa, lại vào một ngày Chủ nhật! 

- Tớ có cảm tưởng chuyện này cũng đáng công đấy chứ, phải không? Nhưng tớ tin là mình đã hiểu được bài diễn thuyết rồi, Julia trả lời. Bởi vì uy quyền của tớ có vẻ như đang đè nặng lên năng lực sáng tạo của người này người kia, tớ không làm phiền nữa. Chắc chắn gọi cho tớ lúc nào cậu xong nhé, không phải vì tớ là sếp đâu, mà vì tớ cũng là thành viên trong đội! 

Julia vớ cái áo đi mưa cô vắt trên thành ghế, kiểm tra xem chìa khóa còn ở đáy túi quần jean không rồi rảo bước về phía thang máy. 

Khi ra khỏi tòa nhà, cô bấm số điện thoại của Adam, nhưng chỉ nhận được tin nhắn thoại của anh. 

- Là em đây, cô nói, em muốn nghe giọng anh. Ngày thứ Bảy thê thảm và ngày Chủ nhật cũng buồn rầu không kém. Cuối cùng, em không biết liệu ở một mình có phải là một ý tưởng hay hay không. Ít ra thì em cũng giúp anh tránh được tâm trạng bực bội của em. Em hầu như vừa bị các đồng nghiệp đuổi khéo khỏi văn phòng. Em sẽ đi dạo một lát, anh có lẽ đã trở về từ nông thôn và đi ngủ rồi cũng nên. Em chắc là mẹ anh đã làm anh kiệt sức. Lẽ ra anh nên để lại cho em một lời nhắn. Hôn anh. Em định dặn anh gọi lại cho em, nhưng như thế ngốc quá vì chắc anh ngủ mất rồi. Dù thế nào đi nữa, em vẫn tin rằng tất cả những điều em vừa nói với anh là ngu ngốc. Hẹn mai gặp lại. Lúc nào dậy anh gọi cho em nhé. 

Julia cất điện thoại vào túi xách rồi bước dọc theo thân kè. Nửa tiếng sau, cô về đến nhà và nhìn thấy một chiếc phong bì được dán bằng băng dính trong ở cửa ra vào tòa nhà. Trên đó tên cô được viết thoáy. Cô mở ra, lòng hết sức tò mò. "Tôi đã mất một khách hàng trong khi lo đến món hàng được giao cho cô. Chìa khóa ở nguyên chỗ cũ. TB: Dưới bậc thứ mười một chứ không phải bậc thứ sáu, bảy hay tám! Chủ nhật tốt lành!" Lời nhắn khép lại bằng chữ ký của người gửi. 

- Ông ta lại còn vẽ đường cho bọn trộm nữa chứ! Cô vừa gắt gỏng vừa leo cầu thang. 

Càng lên gần đến tầng hai, cô càng cảm nhận rõ ràng nỗi sốt ruột muốn khám phá thứ đựng bên trong kiện hàng đang chờ cô trong nhà. Cô rảo bước nhanh hơn, lấy lại chìa khóa để dưới thảm, quyết định tìm cho nó một chỗ giấu khác rồi bật đèn khi bước vào nhà. 

Một cái hòm to kếch xù được đặt theo chiều dọc đang chễm trệ giữa phòng khách. 

- Nhưng là cái gì mới được nhỉ? Cô vừa nói vừa bỏ lại đồ đạc trên cái bàn thấp. 

- Mảnh nhãn dán bên hông, ngay dưới lời cảnh báo Dễ vỡ, ghi rõ tên cô. Julia bắt đầu bằng việc đi một vòng quanh cái hòm to tướng bằng gỗ sáng màu. Vật này quá nặng để cô nghĩ đến việc dịch chuyển nó, dù chỉ vài mét. Ít nhất cũng phải có một cây búa và chiếc tuốc nơ vít, ngoài ra cô không thấy còn cách nào để mở nó ra. 

Adam không bắt máy, chỉ còn lại mối chi viện quen thuộc của cô, cô bấm số của Stanley. 

- Em có phiền anh không? 

- Một buổi tối Chủ nhật, mà lại vào giờ này sao? Anh cứ chờ em gọi rủ anh đi chơi. 

- Nói để em yên tâm nào, anh không gửi đến nhà em một chiếc hòm ngớ ngẩn cao gần hai mét đấy chứ? 

- Em đang nói đến cái gì vậy, Julia? 

- Đúng như em đã nghĩ! Câu hỏi tiếp theo, người ta làm cách nào để mở một chiếc hòm ngớ ngẩn cao tới hai mét? 

- Nó làm bằng chất liệu gì? 

- Bằng gỗ! 

- Có lẽ là với một cái cưa chăng? 

- Cảm ơn anh đã giúp, Stanley, em nên trữ sẵn thứ đó trong túi xách của em hoặc trong tủ thuốc mới phải, Julia nói. 

- Anh mạn phép tò mò chút nhé, bên trong là gì vậy? 

- Là cái mà em đang rất muốn biết đây! Và nếu anh muốn có lời giải đáp, Stanley ạ, hãy lên ngay một chiếc taxi rồi đến phụ giúp em một tay. 

- Anh đang mặc đồ ngủ, em thân mến! 

- Em tưởng anh đang sửa soạn đi chơi? 

- Từ trên giường anh! 

- Em sẽ xoay xở một mình vậy. 

- Khoan đã, để anh suy nghĩ đã nào. Không có tay nắm à? 

- Không! 

- Thế còn bản lề? 

- Em không thấy có. 

- Đó có thể là một tác phẩm nghệ thuật hiện đại, một chiếc hộp không mở được, chế tác bởi một nghệ sĩ vĩ đại? Stanley vừa nói tiếp vừa cười châm chọc. 

Sự câm lặng của Julia khiến anh hiểu rằng đây hoàn toàn không phải là lúc để đùa cợt. 

- Em đã thử đơn giản là đẩy nhẹ một cái hay đá mạnh một cú, như để mở mấy cái cửa tủ quần áo ấy? Một cú đẩy và hấp... 

Và trong khi anh bạn tiếp tục cắt nghĩa, Julia đặt tay mình lên mặt gỗ. Cô ấn xuống như Stanley vừa gợi ý và mặt trước của cái hòm liền xoay đi chậm rãi. 

- Alô? Alô, Stanley hò hét hết hơi trong điện thoại. Em vẫn ở đó chứ? 

Điện thoại tuột khỏi tay Julia. Sửng sốt, cô lặng ngắm vật nằm bên trong hòm và thứ cô vừa phát hiện dường như khó mà tưởng tượng ra nổi. 

Giọng của Stanley vẫn tiếp tục lạo xạo trong chiếc di động rơi dưới chân cô. Julia chậm rãi cúi xuống để nhặt lại, mắt vẫn không rời khỏi cái hòm. 

- Stanley à? 

- Em làm anh sợ xanh cả mặt, mọi chuyện ổn chứ? 

- Có thể nói vậy. 

- Em có muốn anh mặc quần dài vào và đến chỗ em ngay lập tức không? 

- Không, cô đáp bằng một giọng đều đều không âm sắc, không cần đâu. 

- Em mở được hòm rồi à? 

- Vâng, cô lơ đễnh đáp, mai em gọi anh sau. 

- Em làm anh lo quá! 

- Ngủ lại đi, Stanley, hôn anh. 

Rồi Julia cúp máy. 

- Ai có thể gửi cho mình một thứ như thế này cơ chứ? Cô lớn tiếng, một mình đứng giữa căn hộ riêng.

° ° °

Bên trong hòm, một dạng tượng sáp bằng cỡ người thật, bản sao hoàn hảo của Anthony Walsh đang đứng trước mặt cô. Thứ đồ giả gây ấn tượng mạnh; chỉ cần nó mở mắt ra người ta có thể tin là nó sống. Julia khó khăn lắm mới thở được bình thường. Vài giọt mồ hôi chảy dọc trên gáy cô. Cô tiến lại gần từng bước một. Bản sao kích cỡ như người thật của bố cô thật phi thường, màu sắc và vẻ dáng của làn da giống thực đến đáng ngạc nhiên. Đôi giày, bộ quần áo màu xám chì, áo sơ mi vải cô tông trắng, tất cả giống hệt với những thứ y phục bất di bất dịch của Anthony Walsh. Cô những muốn chạm vào má ông, bứt một sợi tóc để tin chắc đó không phải là ông, nhưng Julia và bố cô từ lâu nay đã đánh mất niềm ham muốn đối với sự tiếp xúc dù là nhỏ nhất. Không một cái ôm khẽ nhất, không một nụ hôn, thậm chí không cả một cú sượt tay, không gì bề ngoài có thể giống với một cử chỉ âu yếm. Cái hố do năm tháng đào sâu không thể nào lấp đầy, đừng nói đến chuyện lấp đầy với một bản sao. 

Bây giờ cần phải giải quyết điều không thể tưởng tượng ra nổi. Ai đó đã nảy ra cái ý tưởng kinh khủng là đặt làm một bản sao của Anthony Walsh, dáng vẻ tương tự như những bản sao ta thường thấy trong một số bảo tàng nộm sáp ở Québec, Paris cũng như Luân Đôn, một hình nộm giống thật hơn tất cả những hình nôm cô nhìn thấy từ trước đến nay. Và hét lên chính xác là điều mà Julia đang ước chi mình có thể. 

Trong lúc quan sát tác phẩm điêu khắc, cô nhận thấy ở phần măng sét lật có một mẩu giấy nhắn được ghim vào, trên mẩu giấy là một mũi tên vẽ bằng mực xanh chĩa về phía túi trên của áo vest. Julia gỡ nó ra và đọc mấy chữ viết nguệch ngoạc trên mặt sau tờ giấy: "Kích hoạt bố đi". Cô ngay lập tức nhận ra nét chữ hết sức đặc biệt của bố mình. 

Từ túi áo được mũi tên chỉ rõ, nơi thông thường Anthony Walsh vẫn gài một chiếc khăn lụa nhỏ, nhô lên mỏm đầu của một thứ giống như thiết bị điều khiển từ xa. Julia chộp lấy. Thiết bị đó chỉ có một nút duy nhất trên bề mặt, nút bấm hình chữ nhật màu trắng. 

Julia tưởng như ngất đi được. Một cơn ác mộng, lát nữa cô sẽ tỉnh giấc, nhễ nhại mồ hôi, phá lên cười vì đã để bị cuốn theo một cơn mê sảng như vậy. Chính cô, người tuy vậy đang thề với mình là đã nhìn thấy cỗ quan tài của bố mình được hạ huyệt, rằng đám tang của ông đã kết thúc từ lâu, rằng cô sẽ không thể chịu đựng sự vắng mặt của ông ngay cả khi nó đã trở nên quen thuộc từ gần hai chục năm nay. Chính cô, kẻ hầu như vẫn tự hào về độ chín chắn, lại bắt đầu bị cái vô thức của bản thân gài bẫy như vậy, điều này gần như vô lý và nực cười. Bố cô đã rời khỏi những đêm thơ ấu của cô, nhưng không thể có chuyện ký ức về ông lại kéo đến ám ảnh những đêm trong quãng đời trưởng thành của cô. 

Tiếng động của chiếc xe ben chở rác xóc nảy trên mặt đường không có gì là phi thực tại. Julia đúng là đang thức và, trước mặt cô, một pho tượng với đôi mắt nhắm nghiền dường như đang đợi cô quyết định nhấn, hoặc không, lên nút của chiếc điều khiển từ xa có cấu tạo đơn giản. 

Chiếc xe tải đi xa dần trong phố, Julia những mong nó không đi mất; cô sẽ lao đến bên cửa sổ, sẽ van xin các nhân viên dọn vệ sinh tống khứ cơn ác mộng kỳ quặc này ra khỏi căn hộ của mình. Nhưng con phố lại lần nữa chìm trong tĩnh lặng. 

Ngón tay cô lướt nhẹ trên nút bấm, hết sức nhẹ nhàng, không tìm ra sức mạnh để đặt lên nó một áp lực nhỏ nhất. 

Phải kết thúc chuyện này đi thôi. Khôn ngoan nhất là đóng hòm lại, tìm trên mảnh nhãn địa chỉ liên lạc của hãng vận chuyển, gọi cho họ ngay đầu giờ sáng sớm, yêu cầu họ đến bốc dọn cái con rối thảm thê này đi và rốt cuộc cũng tìm ra tung tích tác giả của trò đùa tai quái. Ai có thể nghĩ ra một trò lường gạt tương tự, ai trong số những người thân cận có thể đùa ác như vậy? 

Julia mở toang cửa sổ và hít đầy phổi khí trời đêm dịu mát. 

Bên ngoài, thế giới vẫn hệt như cô để nó lại khi bước qua ngưỡng cửa vào nhà. Những chiếc bàn của nhà hàng Hy Lạp xếp chồng lên nhau, đèn trên biển hiệu đã tắt, một phụ nữ dắt chó đi dạo đang vượt qua ngã tư. Chú chó giống labrador màu sô cô la đang chạy theo hình chữ chi, kéo căng sợi dây buộc, khi thì để chạy đến hít ngửi chân một cột đèn đường, khi thì hít ngửi một bậu tường. 

Julia nín thở, siết chặt chiếc điều khiển từ xa trong tay. Cô cố sức xét kỹ lại danh sách người quen cũng vô ích, một cái tên duy nhất không ngừng trở đi trở lại, một người duy nhất có khả năng nghĩ ra một kịch bản như vậy, một sự dàn cảnh tương tự. Bị thôi thúc bởi cơn giận, cô quay phắt lại, băng ngang căn phòng, lúc này đã cương quyết xác minh cái linh cảm đã thuyết phục được cô là có căn cứ hay không. 

Ngón tay cô ấn nút, một tiếng "tách" nhỏ vang lên và mí mắt của thứ giờ đây đã không còn là pho tượng vén lên; khuôn mặt hé nở một nụ cười và giọng của bố cô cất lên: 

- Con đã phần nào nhớ bố rồi ư?



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
08/11/2011 12:11 # 5
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 - Con sắp thức dậy đây! Không gì trong số những chuyện xảy ra với con tối nay thuộc về thế giới thực cả! Hãy nói với con điều ấy trước khi con tin chắc rằng là mình đã loạn trí. 


- Thôi nào, thôi nào, bình tĩnh lại đi Julia, giọng bố cô đáp. 

Ông tiến lên trước để ra khỏi hòm rồi vừa vươn vai vừa nhăn mặt. Sự chính xác của những động tác, ngay cả những cử động trên nét mặt mới đây còn bất động, thật đáng ngạc nhiên. 

- Nhưng không, con đâu có loạn trí, ông tiếp; chỉ kinh ngạc thôi, và bố đồng ý với con, trong hoàn cảnh tương tự, phản ứng vậy âu cũng là bình thường. 

- Chẳng có gì là bình thường cả, bố không thể đứng đó được, Julia vừa thì thầm vừa lắc đầu, nhất định là không thể được!

- Đúng thế, nhưng không hoàn toàn là bố đang đứng trước mặt con . 

Julia đưa tay bịt miệng rồi đột nhiên cười phá lên. 

- Bộ não đúng là một cỗ máy khác thường! Con suýt nữa là tin vào chuyện này. Con đang dở giấc chứ đâu, trên đường về con đã uống thứ gì đó không hợp bụng lắm. Có phải vang trắng không nhỉ? Chính thế, con không ưa nổi vang trăng! Nhưng con mới ngốc làm sao, để bị cuốn theo trò chơi mà trí tưởng tượng của riêng mình bày ra, cô vừa tiếp tục vừa sải bước ngang qua phòng. Dù sao cũng cứ đồng ý với con rằng, trong số tất cả những giấc mơ của con, giấc mơ này xét về mặt nào đó vẫn là giấc mơ điên rồ nhất! 

- Thôi đi, Julia, bố cô nhã nhặn yêu cầu. Con rõ ràng đang thức, và con hoàn toàn tỉnh táo. 

- Không, cái này thì con nghi ngờ đấy, bở vì con đang nhìn thấy bố, bởi vì con đang trò chuyện cùng bố, và bởi vì bố thì đã chết rồi! 

Anthony Walsh quan sát cô vài giây, im lặng, rồi nhũn nhặn trả lời: 

- Nhưng đúng vậy mà, Julia, bố chết rồi! 

Và vì cô vẫn đứng nguyên đó, nhìn ông, tê liệt, ông đặt tay lên vai cô và chỉ cho cô chiếc tràng kỷ. 

- Con có muốn ngồi xuống một lát và nghe bố nói không? 

- Không! Cô nói và vùng thoát ra. 

- Julia, con thực sự cần phải nghe những điều bố cần phải nói với con. 

- Thế nếu con không muốn thì sao? Tại sao mọi chuyện lúc nào cũng phải diễn ra theo mọi sự sắp đặt của bố chứ? 

- Giờ thì không phải thế nữa. Con chỉ cần ấn nút trên chiếc điều khiển từ xa kia lần nữa là bố trở nên bất động. Nhưng con sẽ không bao giờ có lời giải thích về chuyện đang diễn ra. 

Julia ngắm nghía món đồ vật đang nằm gọn trong lòng bàn tay cô, cô suy nghĩ một lát, nghiến răng rồi miễn cưỡng ngồi xuống, vâng lời cái cổ máy kì lạ giống bố cô như đúc. 

- Con nghe đây! Cô thì thầm. 

- Bố biết từ đấu chí cuối chuyện này hơi gây hoang mang một chút. Bố cũng biết là đã lâu bố con ta không liên lạc với nhau. 

- Một năm lẻ năm tháng! 

- Lâu đến thế kia à? 

- Lẻ hai mươi hai ngày! 

- Con có nhớ chính xác không đấy? 

- Con còn nhớ khá rõ hôm sinh nhật mình. Bố dặn thư kí của bố gọi đến bảo rằng cứ dùng bữa tối, đừng đợi bố, lẽ ra bố phải trở về gặp chúng con giữa bữa ăn, nhưng bố không bao giờ có mặt! 

- Bố không nhớ chuyện đó! 

- Con thì có! 

- Dù thế nào đi nữa, đấy không phải là chuyện để bàn hôm nay. 

- Con không đặt ra vấn đề nào để bàn thảo cả, Julia sẵn giọng. 

- Bố không rõ nên bắt đầu từ đâu nữa. 

- Luôn có khởi đấu cho mọi sự, đó là một trong những câu cửa miệng muôn thuở của bố kia mà, thế nên hãy bắt đầu bằng việc giải thích cho con biết chuyện gì đang diễn ra đi. 

- Cách đây vài năm bố đã trở thành cổ đông của một công ty công nghệ cao, người ta gọi chúng như thế đấy. Sau vài tháng, nhu cầu tài chính của công ty tăng lên, phần vốn của bố cũng vậy, đủ để bố cuối cùng cũng kiếm được một chân tong hội đồng quản trị. 

- Thêm một doanh nghiệp nữa bị tập của bố thôn tính sao? 

- Không, lần này khoản đầu tư dưới danh nghĩa cá nhân; bố là một cổ đông như các cổ đông khác, nhưng dẫu sao cũng là một nhà đấu tư nặng ký. 

- Và cái công ty bố đã đầu tư cả ngần ấy tiền cho ra sản phẩm gì vậy? 

- Rô bốt! 

- Gì kia? Julia thốt lên. 

- Con nghe quá rõ rồi đấy thôi. Những con rô bốt mang hình dáng con người, nếu con thích. 

- Để làm gì? 

- Công ty bố không phải là những người đấu tiên nhắm tới mục tiêu chế tạo ra những cổ máy mang hình dáng con người, để giải phóng chúng ta khỏi những nhiệm vụ mà chúng ta không muốn thực hiện. 

- Bố quay trở lại cõi dương để rê cái máy hút bụi nhà con sao? 

- ... Đi chợ, trông nhà, trả lời điện thoại, đưa ra những câu trả lời cho đủ loại câu hỏi,những điều này trên thực tế chỉ là một phần trong những ứng dụng khả thi. Nhưng phải công nhận rằng công ty mà bố vừa nhắc với con đã khai triển một dự án chuyên sâu hơn. 

- Như? 

- Như mang lại khả năng dâng tặng cho những người thân thêm vài ngày hiện diện. 

Julia nhìn ông, sững sờ, không thực sự hiểu điều ông vừa giảng giải. Anthony Walsh bèn nói thêm... 

- Thêm vài ngày nữa, sau khi người ấy chết đi! 

- Đây là một trò đùa hay sao? Julia hỏi. 

- Cứ nhìn bộ dạng con khi mở hòm ra, cái mà con gọi là một trò đùa ấy cũng khá thành công đấy chứ, Anthony Walsh đáp và soi mình trong chiếc gương gần tên tường. Bố phải thừa nhận rằng bố gần như hoàn hảo. Mặc dù bố không tin mình đã từng có những nếp nhăn này trên trán. Họ đã vẽ nét này hơi đậm quá. 

- Bố đã có những nét nhăn đó từ hồi con còn bé, trừ phi bố căng lại da mặt, con không nghĩ chúng lại tự dưng biến mất. 

- Cảm ơn! Anthony Walsh mỉm cười đáp. 

Julia đứng dậy để xem xét ông kĩ hơn. Nếu đang đứng trước cô là một cỗ máy, phải công nhận rằng công trình thật là tinh xảo. 

- Không thể được, xét về mặt kĩ thuật là không thể được! 

- Hôm qua con đã hoàn thành cái gì trước màn hình máy tính, cái thao tác mà chỉ mới năm ngoái con vẫn nhất định cam đoan là không thể thực hiện được? 

Julia tới ngồi vào bàn bếp và giơ hai tay ôm đầu 

- Công ty bố đã đầu tư hàng đống tiền đã đạt đến thành quả này, và vắn tắt lại, bố mới chỉ là một nguyên mẫu. Con là khách hàng đấu tiên của công ty, dẫu rằng đối với con, dĩ nhiên là miễn phí. Đây là một món quà! Anthony Walsh nhã nhặn nói thêm. 

- Một món quà ư? Và ai đủ điên để muốn nhận món quà này cơ chứ? 

- Con có biết bao nhiên người đã tự nhủ vào những giây phút cuối cùng trong đời họ, rằng: "Giá như mình biết, giá như mình có thể nghe thấy hoặc hiểu được, miễm sao mình có thể nói với họ, giá như họ biết..." và vì Julia vẫn nín thinh, Anthony Walsh nói thêm: Thị trường cho mặt hàng này vô cùng rộng lớn! 

- Cái vật mà con đang trò chuyện cùng đây, có thật là bố không? 

- Gần như là thật! Cứ cho là cổ máy này chứa đựng bên trong nó kí ức của bố, một phần lớn vỏ não của bố, đó là một thiết bị hết sức quan trọng được tạo nên hàng triệu bộ xử lý, được trang bị một công nghệ tái tạo màu sắc và kết cấu của làn da có khả năng tạo ra tính chuyển động gần giống hoàn toàn với cổ máy sinh học của con người. 

- Tại sao? Để làm gì? Julia bàng hoàng hỏi. 

- Để chúng ta có được quãng thời gian vài ngày mà chúng ta luôn thiếu, vài giờ đánh cắp được từ cõi vĩnh hằng, đơn giản là để con và bố rốt cuộc cũng có thể cùng nhau sẻ chia mọi điều chúng ta chưa kịp nói.

° ° °

Julia đã rời khỏi chiếc tràng kỷ. Cô đi đi lại lại trong phòng khách, đôi lúc chấp nhận hoàn cảnh mà cô phải đối mặt, lúc khác lại chối bỏ nó. Cô đi vào bếp tìm một ly nước, uống một hơi cạn sạch và quay trở lại với Anthony Walsh. 

- Sẽ chẳng ai tin lời con đâu! Cô nói phá vỡ bầu không khí im lặng. 

- Đó chẳng phải câu con thường tự nhủ mỗi khi con hình dung ra một trong những câu chuyện của con sao? Đó không phải câu hỏi vẫn thường lấn bấn toàn bộ tâm trí con khi ngòi bút trong tay con tung hoành để tìm sinh khí cho các nhân vật của con sao? Không phải con đã nói rằng bố thiếu hiểu biết, không hiểu gì về quyền năng của những giấc mơ, khi bố từ chối không tin tưởng nghề nghiệp của con sao? Không phải con đã nhiều lần giải thích cho bố rằng hàng ngàn trẻ em dẫn dắt bố mẹ chúng vào những thế giới mà chúng tưởng tượng mà con cùng các bạn của con đã tạo ra trên màn hình máy tính đó sao? Không phải con đã nhắc bố nhớ rằng bố không muốn tin vào sự nghiệp của con trong khi chính nghề này đã ban tặng cho con một phần thưởng đó sao? Con đã cho ra đời một con rái cá với màu sắc bộ lông vô lý, và con đã tin ở nó. Bây giờ con định nói với bố, bởi một con người không chắc tồn tại đang cử động trước mắt con, rằng con từ chối tin vào điền đó, bởi vì con người ấy thay vì mang bề ngoài của một con vật kì lạ thì lại mang hình dáng của bố con ư? Nếu câu trả lời của con là có, thì như bố đã nói với con rồi đấy, con chỉ việc ấn nút! Anthony Walsh kết luận, chỉ tay vào chiếc khiển từ xa Julia đã bỏ lại trên bàn. 

Julia vỗ tay tán thưởng. 

- Đừng có lợi dụng bố mất rồi mà cư xử hổn hào nhé! 

- Nếu đúng là con chỉ cần ấn nút này để rốt cuộc cũng khóa được miệng bố thì con sẽ kiềm chế! 

Và trong khi gương mặt bố cô hiện rõ điệu bộ quen thuộc để lộ cơn giận của ông thì câu chuyện của họ bị cắt ngang bởi hai tiếng còi xe nhỏ vọng lên từ dưới phố. 

Tim của Julia bắt đầu đập thình thịch. Cô vẫn nhận ra giữa hàng trăm thứ âm thanh khác tiếng "rắc" vang lên từ hộp số mỗi khi Adam cho xe chạy lùi. Không còn nghi ngờ gì nữa, anh đang cố đỗ xe dưới chân tòa nhà nơi cô ở. 

- Khỉ thật! cô thì thầm và chạy vội về phía của sổ. 

- Ai thế? Bố cô hỏi. 

- Adam! 

- Ai cơ? 

- Người lẽ ra con phải kết hôn cùng hôm thứ Bảy . 

- Lẽ ra? 

- Thứ Bảy tuần rồi con bận dự đám tang bố! 

- Ra thế! 

- Ra thế...! Chúng ta sẽ nói lại chuyện này sau! Trong lúc chờ đợi, bố trở vào trong hòm ngay đi! 

- Gì kia? 

- Ngay khi Adam đổ xe xong, mà thao tác ấy chỉ cho chúng ta được vài phút, anh ấy sẽ lên tới nơi. Con đã hủy đám cưới để dự đám tang bố , nếu chúng ta có thể tránh được việc anh ấy nhìn thấy bố xuất hiện trong căn hộ của con, chuyện đó sẽ tiện cho con lắm! 

- Bố không hiểu tại sao lại phải giữ những bí mật vô ích chứ. Nếu đó đã là người con muốn chia sẻ cả cuộc đời, con nên tin cậu ta mới phải! Bố hoàn toàn có thể giải thích tình huống với cậu ta như vừa giải thích với con. 

- Trước tiên, hãy rút ngay cái thời quá khứ chưa hoàn thành này lại, đám cưới chỉ bị hoãn lại thôi! Còn về lời giải thích của bố, đấy mới đúng là rắc rối, con đã khó khăn lắm mới tin nổi, đừng đòi hỏi ở anh ấy điều bất khả. 

- Biết đâu cậu ta chịu tiếp thu hơn con? 

- Adam không biết vận hành một cái máy quay phim, thế nên, về chuyện rô bốt, con nghi ngờ lắm. Trở vào hòm của bố đi, khỉ thật! 

- Cho phép bố được nói với con rằng đó là một ý tưởng thật ngớ ngẩn! 

Julia nhìn bố, phẫn nộ. 

- Ồ, không cần giận dỗi như thế, ông ngay lập tức nói tiếp. Con chỉ cần nghỉ hai giây thôi.Một cái hòm kín mít cao hai mét ngay giữa phòng khách nhà con, con không nghĩ cậu ta sẽ muốn biết thứ đựng bên trong à? 

Và vì Julia không trả lời, Anthony Walsh hài lòng nói thêm: "Đúng như bố nghĩ mà!" 

- Bố nhanh lên, Julia vừa nằn nì vừa nghiêng người qua cửa sổ, nấp tạm vào đâu đó đi, anh ấy vừa tắt máy rồi. 

- Nhà con chật đến lạ, Anthony Walsh vừa huýt sáo vừa nhìn quanh. 

- Thế mới vừa với nhu cầu và khả năng tài chính của con! 

- Phải nghĩ là không mới đúng. Giá như có, bố không rõ nữa, một phòng khách nhỏ, một thư viện, một phòng bi-a, hay cái thường được gọi là phòng giặt đồ chẳng hạn, ít ra bố có thể lánh vào đó chờ con. Những căn hộ kiểu này chỉ gồm một phòng lớn duy nhất... Cung cách sống mới kì cục làm sao! Nếu con muốn một chút riêng tư ở chỗ này thì phải làm thế nào? 

- Đa phần mọi người đều không có thư viện hay phòng chơi bi-a trong căn hộ riêng. 

- Đấy là tính trong đám bạn của con thôi, con yêu ạ! 

Julia quay lại nhìn ông và ném về phía ông một cái nhìn bực bội. 

- Khi còn sống bố đã phá hỏng đời con, chết đi rồi mà bố vẫn thuê chế tạo cái cỗ máy giá trị ba tỷ đô này để tiếp tục gây phiền nhiễu cho con ư? Thật thế ư? 

- Ngay cả khi bố là một nguyên mẫu, cỗ máy này như con đã nói, còn lâu mới trị giá một khoản tiền khổng lồ như vậy, nếu không, con cứ nghĩ rằng chẳng ai muốn tậu nó cho mình đâu. 

- Có lẽ là đám bạn của bố chăng? Julia ranh mãnh vặc lại. 

- Con đúng là hay chơi xỏ, Julia của bố ạ. Được hãy thôi lần chần đi bởi vì dường như chúng ta đang cần hô biến bố của con khẩn cấp, ngay khi ông vừa mới tái xuất. Chúng ta có gì ở tầng trên ấy nhỉ? Một căn gác mái hay nóc nhà? 

- Một căn hộ khác! 

- Bên trong là một cô láng giềng mà con quen biết đủ để bố lên bấm chuông và hỏi xin bơ hay muối chẳng hạn, khoảng thời gian đủ để con tống khứ chồng chưa cưới của con? 

Julia chạy về phía những ngăn kéo tủ bếp, cô mở lần lượt từng ngăn một. 

- Con tìm gì vậy? 

- Chìa khóa, cô nói nhỏ trong khi nghe thấy giọng Adam đang gọi cô từ dưới phố. 

- Con có chìa khóa căn hộ tầng trên sao? Bố bảo trước, nếu con định đẩy bố xuống tầng hầm, có nhiều khả năng bố sẽ chạm mặt chồng chưa cưới của con trong cầu thang đấy. 

- Con chính là chủ nhân của căn hộ tầng trên! Con đã mua nó hồi năm ngoái nhờ khoản tiền thưởng, nhưng con chưa có tiền để sửa sang lại, thế nên trên đó hơi lộn xộn! 

- Tại sao, ở đây thì được coi là quy củ ấy hả? 

- Con sẽ giết bố nếu bố còn tiếp tục! 

- Lấy làm tiếc vì phải nói trái ý với con, nhưng từ nay trở đi, đã quá muộn để thực hiện ý định đó. Vả lại nếu căn hộ của con thật sự ngăn nắp thì con đã phát hiện ra chùm chìa khóa mà bố đang thấy treo trên chiếc đinh gần lò nướng kia. 

Julia ngẩng đầu lên và chạy vội về phía chùng chìa khóa. Cô chộp lấy nó và đưa cho bố. 

- Lên đi và chớ có gây tiếng động nào. Anh ấy biết là tầng trên không có người ở đâu! 

- Con đến mà nói chuyện với cậu ta thay vì dạy dỗ bố, cố sức rống tên con trong phố, cậu ta rốt cuộc sẽ đánh thức tất cả láng giềng dậy mất. 

Julia chạy đến bên cửa sổ và nghiêng người qua khung cửa. 

- Anh bấm chuông ít nhất là mười lần rồi! Adam nói và lùi lại một bước trên vỉa hè. 

- Điện thoại nội bộ hỏng rồi, em xin lỗi, Julia đáp. 

- Em không nghe thấy anh gọi à? 

- Có chứ, à mà cho đến vừa nãy thì không. Em đang xem vô tuyến. 

- Em mở cửa cho anh chứ? 

- Vâng, tất nhiên, Julia ngập ngừng đáp, vẫn đứng bên cửa sổ, trong khi cánh cửa ra vào căn hộ khép lại theo bước chân của bố cô. 

- Này, có lẽ chuyến ghé thăm bất ngờ của anh khiến em hài lòng đến phát điên ấy nhỉ! 

- Dĩ nhiên rồi! Sao anh lại nói vậy? 

- Bởi vì anh vẫn đang đứng trên vỉa hè. Anh cứ ngỡ đã hiểu khi nghe tin nhắn thoại của em rằng em không được khỏe lắm, rốt cuộc thì anh thấy có vẻ như... thế nên anh đã ghé qua trên đường về, nhưng nếu em muốn anh đi thì... 

- Không đâu, em mở cửa cho anh ngay đây! 

Cô đi về phía điện thoại nội bộ của tòa nhà và ấn nút điều khiển khóa cửa. Then chặn cửa kêu lạch xạch dưới tầng trệt và cô nghe thấy tiếng bước chân của Adam trong câu thang bộ. Cô chỉ vừa đủ thời gian để chạy vội về phía kệ bếp, chộp lấy một chiếc điều khiển từ xa, rồi ngay lập tức quẳng nó đi với vẻ kinh hãi- chiếc điều khiển này chẳng có tác dụng gì với ti vi cả-, cô mở ngăn kéo bàn, tìm ra điều khiển ti vi và cầu mong nó vẫn còn pin. Ti vi bật lên đúng lúc Adam đẩy cửa bước vào. 

- Em không cài chốt an toàn của căn hộ nữa sao? Anh hỏi khi bước vào. 

- Có chứ, nhưng em vừa mở cho anh thôi, Julia ứng biến, trong thâm tâm phát cấu với bố mình. 

Adam cởi áo vest rồi vắt lên một chiếc ghế. Anh ngắm những vệt nhiễu li ti trên màn hình vô tuyến. 

- Em đang xem ti vi thật à? Anh cứ ngỡ em sợ ti vi. 

- Một lần thì đâu có chết ai, Julia vừa đáp vừa cố hoàn hồn. 

- Anh phải nói rằng chương trình em đang theo dõi không thuộc hàng những chương trình lí thú nhất. 

- Đừng giễu em, em đã thử tắt nó đi, em ít khi dùng đến nó lắm, hẳn là em đã bấn nhầm nút. 

Adam nhìn quanh rồi phát hiện ra đồ vật khác thường ngự giữa phòng khách. 

- Gì thế? Julia hỏi với vẻ rõ ràng là đang vờ vịt. 

- Nếu em còn chưa nhận thấy, thì trong phòng khách nhà em có một cái hòm cao cỡ hai mét. 

Julia đánh liều đưa ra một lời giải thích mơ hồ. Đây là thùng chuyển hàng đặc biệt, được tạo ra để gửi trả lại một chiếc máy tính bị hỏng. Các nhân viên giao hàng đã gửi nhầm đến nhà cô, thay vì đến nơi làm việc. 

- Chắc nó phải vô cùng dễ vỡ nên em mới phải đóng vào một cái hộp cao cỡ này. 

- Đây là một cỗ máy hết sức phức tạp, Julia nói thêm, một dạng đồ vật cồng kềnh và đúng, quả nhiên là rất dễ vỡ! 

- Và họ nhầm địa chỉ? Adam hỏi tiếp vẻ tò mò. 

- Vâng, rốt cuộc chính em mới là người nhầm khi điền vào phiếu yêu cầu. Với cơn mỏi mệt tích tụ mấy tuần gần đây, em đã ra nông nổi có thể làm đủ mọi chuyện và bất cứ chuyện gì. 

- Coi chừng, người ta có thể buộc tội em biển thủ tài sản công ty đấy. 

- Không, chẳng ai buộc tội em chuyện gì đâu, Julia đáp, âm sắc giọng nói để lộ tâm trạng nôn nóng. 

- Em muốn kể anh nghe chuyện gì à? 

- Sao anh hỏi vậy? 

- Vì anh đã bấm chuông mười lần và gào lên trong phố em mới đến được cửa sổ, vì anh trông em đang hoảng hốt, ti vi thì bật, trong khi dây ăng ten thậm chí còn chưa nối, em nhìn mà xem! Bởi vì em rất khác so với mọi khi, chỉ thế thôi. 

- Nhưng anh muốn em giấu anh chuyện gì nào, Adam? Julia bẻ lại, không hề tìm cách che giấu cơn giận của mình. 

- Anh không rõ, anh chưa hề nói em đang giấu anh chuyện gì cơ mà, hay chính em phải nói điều đó với anh. 

Julia mở toang cửa dẫn vào phòng ngủ, rồi cánh cửa tủ quần áo sau lưng; sau đó cô tiến về phía bếp và bắt đầu mở lần lượt từng ô tủ hốc tường, đầu tiên là hốc tủ phía trên bồn rửa bát, rồi hốc tủ kế bên, ô tiếp theo cho tới ô cuối cùng. 

- Khỉ thật, em làm gì vậy? Adam hỏi. 

- Em đang tìm chỗ có thể giấu tình nhân của em, đó chính là cái anh đang hỏi em mà, không phải sao? 

- Julia! 

- Julia gì cơ? 

Cuộc tranh cãi vừa nổ ra bị cắt ngang bởi tiếng chuông điện thoại. Cả hai nhìn máy điện thoại, tò mò, Julia nhấc máy. Cô nghe người gọi đến nói một lúc lâu, cảm ơn họ vì đã gọi và chúc mừng họ trước khi gác máy. 

- Ai thế? 

- Văn phòng. Họ rốt cuộc đã giải quyết được vấn đề đang cản trở việc thực hiện bộ phim hoạt hình, công việc sản xuất có thể tiếp tục tiến hành, bọn em sẽ hoàn thành đúng thời hạn. 

- Em thấy đấy, Adam nói, giọng đã dịu lại, lẽ mai sáng ra chúng mình sẽ khởi hành theo kế hoạch đã định, em thậm chí sẽ được bình tâm trong chuyến trăng mật của ta. 

- Em biết chứ, Adam, em thật lòng lấy làm tiếc, nếu anh biết là em tiếc đến mức nào! Ngoài ra em còn phải trả anh vé nữa, em để ở văn phòng. 

- Em có thể vứt nó đi, hoặc giữ làm kỉ niệm, những tấm vé đó không đổi được mà cũng chẳng hoàn tiền được. 

Julia phát một cử chỉ thường thấy ở cô. Mỗi lần tránh bình luận về một chủ đề mà bản thân không mấy thích thú, cô thường nhướng mày. 

- Đừng nhìn anh như thế, Adam ngay lập tức tự bào chữa. Em phải thừa nhận là khá hiếm trường hợp người ta hủy bỏ chuyến đi trăng mật của mình chỉ ba ngày trước thời điểm khởi hành! Và chúng ta dù sao cũng vẫn có thể lên đường... 

- Vì những chiếc vé anh đã mua không được hoàn tiền ư? 

- Ý anh không phải vậy. Adam vừa nói vừa ôm cô vào lòng. Được, tin nhắn của em nói không sai về tâm trạng của em, anh không nên đến mới phải. Em cần được ở một mình, anh đã nói với em rằng anh có thể thông cảm, anh sẽ giữ lời. Anh về đây, mai sẽ là một ngày mới. 

Khi anh chuẩn bị bước qua ngưỡng cửa, một tiếng "rắc" nhỏ vang lên qua trần nhà. Adam ngẩng đầu và nhìn Julia. 

- Em xin anh đó, Adam! Chắc là một con chuột chạy trên đó. 

- Anh không hiểu em làm thế nào để sống trong cái nơi ngổn ngang đồ đạt này. 

- Em thấy ổn mà, một ngày nào đó em sẽ đủ tiền để dọn đến ở trong một căn hộ rộng rãi, rồi anh sẽ thấy. 

- Mình lẽ ra đã cưới vào dịp cuối tuần rồi, em nên nói là chúng ta mới phải! 

- Xin lỗi, ý em không phải vậy. 

- Em định đi đi lại lại như con thoi giữa nhà em và căn hộ hai phòng của anh mà theo ý em là quá chật chội đến bao giờ đây? 

- Chúng ta sẽ không lại khơi mào cuộc tranh luận muôn thuở này, không phải tối nay. Em hứa với anh, ngay khi chúng ta có thể tự cho phép mình tiến hành công việc sửa chửa và nối thông hai tầng gác với nhau, sẽ có đủ chỗ cho cả hai ta. 

- Chính vì yêu em nên anh mới chấp nhận không kéo em ra khỏi cái nơi mà em hình như có vẻ gắn bó với nó còn hơn cả anh, nhưng nếu em thực sự muốn thì ta có thể ở đó ngay từ bây giờ. 

- Anh ngụ ý gì vậy? Julia hỏi. Nếu anh muốn ám chỉ đến tài sản của bố em, em đã không bao giờ muốn có nó từ ngày ông còn sống, và không phải bây giờ ông mất đi mà em đổi ý. Em phải đi ngủ đây, thay vì đi du lịch, ngày mai em có một ngày bận rộn. 

- Em có lý, đi ngủ đi, anh sẽ quy kết lời phê phán cuối cùng của em là do quá mệt mỏi. 

Adam nhún vai và đi ra, thậm chí đến chân cầu thang cũng không quay lại để thấy Julia đang vẫy tay tạm biệt anh. Cánh cửa ra vào tòa nhà khép lại.

° ° °

- Cảm ơn về chuyện con chuột! Bố nghe thấy cả rồi! Anthony Walsh thốt lên khi quay trở lại căn hộ 

- Thế bố muốn con nói rằng một con rô bốt đời mới nhất, mang diện mạo của bố con, đang đi bách bộ ở tầng trên... để anh ấy gọi một chiếc xe cứu thương và lập tức đưa con vào trại thương điên chắc? 

- Cũng thú vị đấy chứ! Anthony Walsh đáp với vẻ thích thú. 

- Điều ấy có nghĩa là, nếu bố muốn chúng ta tiếp tục nói chuyện bằng lời lẽ lịch thiệp, Julia nói tiếp, thì xin cảm ơn bố vì đã phá hỏng buổi hôn lễ của con. 

- Xin lỗi vì đã chết, con yêu! 

- Cũng xin cảm ơn bố vì đã gây bất hòa giữa con với ông chủ tiệm giày dưới nhà, ông ta sẽ mặt nặng mày nhẹ với con trong hàng tháng nữa. 

- Một lão buôn giày ư? Ai thèm quan tâm cơ chứ? 

- Không phải chân bố vẫn đang đi giày đó sao? Cũng cám ơn vì đã phá rối bữa tối duy nhất trong tuần con được nghỉ ngơi.

- Ở tuổi của con, bố chỉ nghỉ bữa tối ngày Lễ Tạ ơn! 

- Con biết! Và cuối cùng, cảm ơn, vì đã xuất sắc hơn thường ngày, nhờ có bố mà con đã cư xử như một con quái vật với chồng chưa cưới của mình. 

- Bố không phải là nguyên nhân gây ra cãi cọ giữa hai đứa, hãy trách tính cách của con ấy, bố tuyệt đối không liên quan! 

- Bố mà không liên quan ấy à? Julia gào lên. 

- Thôi được, có lẽ chỉ liên quan chút ít thôi... ta giảng hòa nhé? 

- Giảng hòa cho tối nay, cho hôm qua, cho những năm bố im lặng hay cho tất cả những cuộc chiến giữa hai chúng ta? 

- Bố chưa bao giờ gây chiến với con, Julia. Vắng mặt thì chắc rồi, nhưng chưa bao giờ thù địch. 

- Con hy vọng bố đang đùa, phải không? Bố đã luôn cố gắng kiểm soát mọi việc từ xa, không chính đáng tí nào. Nhưng con đang làm gì thế này? Con đang trò chuyện với một người đã chết! 

- Nếu muốn, con có thể hủy bố đi. 

- Hẳn nhiên đó là điều con nên làm. Đặt lại bố vào trong hòm và gửi trả về địa chỉ của công ty công nghệ cao nào con không rõ. 

- 1-800-300 00 01 mã 654. 

Julia nhìn ông, ngẫm nghĩ. 

- Đó là cách để liên lạc với công ty, ông nói tiếp. Con chỉ cần bấm số này, báo mã, họ thậm chí có thể hủy bố từ xa nếu con không đủ dũng khí để làm việc đó, và trong vòng hai mươi tư giờ họ sẽ tống khứ bố ra khỏi nhà con. Nhưng cứ nghĩ cho kĩ đi. Có bao nhiêu người muốn được có thêm vài ngày với người cha hay người mẹ vừa từ giã cõi đời? Con sẽ không có được cơ hội thứ hai đâu. Chúng ta có sáu ngày, không hơn. 

- Tại sao lại là sáu? 

- Đó là một giải pháp công ty đưa ra để giải quyết vấn đề đạo đức. 

- Nghĩa là sao? 

- Con thực sự nghĩ rằng một phát minh tương tự sẽ không đặt ra vài vấn đề trong phạm trù đạo đức ư? Công ty đã cân nhắc và thấy điều quan trọng là không đ63 các khách hàng kịp gắn bó đối với loại máy móc này, vì chúng đã được hoàn thiện đến mức đó cơ mà. Đã từng tồn tại nhiều cách thức để giao thiệp sau khi chết, di chúc, sách vở, các ghi chép bằng hình ảnh hoặc âm thanh. Cứ cho rằng ở đây, phương pháp đã được cải tiến và nhất là, có tính tương tác, Anthony Walsh hăng hái nói thêm chẳng khác nào đang thuyết phục một khách hàng. Vấn đề chỉ đơn giản là tặng cho người sắp chết một phương tiện được chế tạo công phu hơn là giấy hoặc băng video để truyền đạt những nguyện vọng cuối cùng của họ, và tặng cho người còn sống cái may mắn được tận hưởng thêm vài ngày ở bên người thân yêu của họ. Vì vậy, công ty không thể cho phép tiến hành chuyển cảm xúc sang một cổ máy. Công ty bố đã rút ra được bài học về sản phẩm ra lò trước .Bố không biết con còn nhớ không, nhưng những con búp bê trẻ nhũ nhi đã được chế tạo thành công đên mức một vài người mua rốt cuộc xử sự với chúng như thể đó là trẻ sơ sinh thực thụ. Công ty bố không muốn lại sản sinh ra lối hành xử sai lệch như vậy. Không có chuyện khách hàng được giữ mãi trong nhà họ phiên bản vô tính của ông bố hay bà mẹ. Ngay cả khi điều này nghe chừng hết sức hấp dẫn. 

Anthony quan sát vẻ mặt đầy hoài nghi của Julia. 

- Tóm lại, hẳn là không liên quan đến chúng ta.... Thế nên, qua một tuần, pin sẽ hết kiệt, và không có cách nào sạc lại được. Toàn bộ dữ liệu trong bộ nhớ sẽ tự xóa và những hơi thở cuối cùng của sự sống sẽ được trả lại cho cái chết. 

- Và không có khả năng nào để ngăn được điều này? 

- Không, mọi chuyện đã được dự liệu. Nếu một đứa láu cá thử động đến bộ pin, bộ nhớ sẽ ngay lập tức bị xóa sạch. Thật buồn khi phải nói rằng, ít ra là đối với bố, bố như một chiếc đèn pin dùng một lần rồi bỏ!Sáu ngày sáng rồi sau đó là một bước nhảy lớn vào cõi mịt mồng. Sáu ngày, Julia ạ, sáu ngày ngắn ngủi để gỡ lại quãng thời gian đã mất, tùy con định đoạt. 

- Đúng là chỉ có bố mới nảy ra những ý tưởng gàn dở như vậy. Con chắc chắn bố không đơn giản là một cổ đông bình thường của công ty này. 

- Nếu con quyết định chấp nhận cuộc chơi, và đủ lâu để con không nhấn nút cái điều khiển từ xa kia để hủy bố đi, bố muốn con tiếp tục nói chuyện với bố ở thời hiện tại. Nếu muốn con cứ việc coi đó như một khoản thưởng thêm dành cho bố. 

- Sáu ngày? Lâu lắm rồi con không nghỉ chừng ấy thời gian. 

- Quả táo không bao giờ rụng xa cây 1, phải không? 

Julia nhìn xoáy vào bố. 

- Bố nói điều đó như vậy, con không buộc phải hiểu mọi chuyện theo nghĩa đen! Anthony nói tiếp. 

- Và con sẽ nói gì với Adam đây? 

- Ban nãy con có vẻ rất giỏi xoay xở trong việc nói dối cậu ta còn gì. 

- Con không nói dối anh ấy, con giấu anh ấy việc gì đó, hai chuyện ấy khác nhau mà. 

- Tha lỗi cho bố, bố đã quên khuấy mất thế nào là tế nhị rồi. Con chỉ việc tiếp tục... che giấu cậu ta việc gì đó. 

- Thế còn với Stanley? 

- Cậu bạn đồng tính của con chứ gì? 

- Bạn thân nhất của con, không thêm gì nữa! 

- Thì đấy, bố đang nói đến cậu ta chứ ai! Anthony Walsh đáp. Nếu đó thực sự là bạn thân nhất của con, con sẽ phải khôn khéo hơn nữa. 

- Và bố sẽ ở lại đây cả ngày trong khi con ở văn phòng sao? 

- Con vẫn có vài ngày phép để đi nghỉ tuần trăng mật phải không? Con có thể vắng mặt được mà! 

- Sao bố biết con phải đi? 

- Sàn trong căn hộ của con, hay là trần nhà, con muốn gọi gì tùy thích, đâu có được thiết kế cách âm. Đó luôn là vấn đề của những khu chung cư đổ nát không được bảo dưỡng đúng cách. 

- Anthony! Julia thét lên. 

- Chà, bố năn nỉ con đấy, ngay cả khi bố chỉ là một cổ máy, hãy gọi bố là bố, bố phát sợ khi nghe con gọi bố bằng tên. 

- Nhưng, khỉ thật, con đã không thể gọi bố là bố từ hai mươi năm nay! 

- Thêm một lí do để tận dụng triệt để sáu ngày tới đây! Anthony Walsh đáp với bụ cười tươi tắn. 

- Con không có chút hình dung nào, dù là nhỏ nhất, về việc con phải làm, Julia thì thầm và bước tới bên khung cửa sổ. 

- Con đi ngủ đi, màn đêm sẽ cho lời khuyên. Con là người đầu tiên trên trái đất được trao quyền lựa chọn kiểu này, điều này cũng đáng để bình tâm suy nghĩ. Sáng mai, con sẽ đưa ra quyết định và dù nó có là gì đi nữa, đó cũng sẽ là một quyết định đúng đắn. Trong trường hợp xấu nhất, nếu con hủy bố đi, con sẽ có chút chậm trễ trong công việc ở văn phòng. Đám cưới của con xứng với một tuần vắng mặt, cái chết của bố con cũng nên xứng với vài giờ làm việc bị mất chứ, phải không? 

Julia quan sát hồi lâu người bố xa lạ đang nhìn cô đăm đăm. Giá như đó chỉ là người đàn ông cô đã luôn cố gắng tìm hiểu, cô ngỡ đã phát hiện ra một chút âu yếm dịu dàng trong ánh mắt ông hướng về cô. Và dẫu cho ông chỉ là một bản sao, cô suýt đã chúc ông buổi tối tốt lành nhưng rồi lại thôi. Cô khép cửa phòng ngủ lại và tới nằm dài trên giường. 

Những phút nối nhau trôi qua, một tiếng trôi qua, rồi tiếng tiếp theo. Những bức rèm đã được vén sang hai bên và ánh sáng của màn đêm đã chiếu trên bộ ván giá nơi kệ sách. Phía bên trong cửa sổ mặt trăng tròn đầy như đang trôi bồng bềnh trên mặt sàn phòng ngủ của cô. Nằm trên giường, Julia tìm lại được những kỉ niệm thời thơ ấu. Đã có biết bao đêm, đêm nào cũng như đêm nào, cô rình đợi người ấy trở về, cái người tối nay lại trở thành người phải đợi ở phía bên kia bức tường. Biết bao đêm trằn trọc ở tuổi thiếu niênkhi cơn gió tái tạo lại những chuyến đi của bố cô, miêu tả vô vàn xứ sở với những đường biên giới tuyệt vời. Bấy nhiêu đêm trải qua để tạc thành hình của những giấc mơ. Thói quen ấy theo năm tháng vẫn không hề mất đi. Cần biết bao nhiêu nét chì, nhát tẩy để các nhân vật do cô sáng tạo ra bước vào cuộc sống, gặp gỡ nhau và đáp ứng nhu cầu yêu thương của chúng, từ hình ảnh này sang hình ảnh khác. Từ lâu nay, Julia vẫn biết rằng khi tưởng tượng,người ta luôn hoài công tìm kiếm ánh sáng của buổi ban mai, rằng chỉ cần từ bỏ những giấc mơ của mình trong giây lát là những giấc mơ đó sẽ tiêu tan, khi chúng được trưng ra dưới ánh sáng quá chói gắt của thực tại. Lằn ranh tuổi thơ ấu của chúng ta là ở đâu nhỉ? 

Một con búp bê Mexico nhỏ xinh nẳm ngủ bên cạnh bức tượng chú rái cá bằng thạch cao, khuôn đúc đầu tiên của một niềm hy vọng không chắc chắn, ấy vậy mà đã trở thành sự thực. Julia ngồi dậy và ôm gọn nó trong lòng bàn tay. Trực giác đã luôn là đồng minh tin cậy nhất của cô, thời gian đã nuôi dưỡng trí tưởng tượng của cô. Vậy thì tại sao lại không tin? 

Cô đặt lại món đồ chơi vào chỗ cũ, khoác lên mình chiếc áo choàng bông, rồi mở cửa phòng ngủ. Anthony Walsh đang ngồi trên tràng kỉ phòng khách, ông đã bật ti vi và xem một bộ phim truyền hình phát trên kênh NBC. 

- Bố mạo muội đấu lại dây cáp, ngốc thật, nó thậm chí còn không được nối với giắc ngầm trong tường! Trước giờ bố vẫn hâm mộ mục tiểu phẩm này. 

Julia ngồi xuống cạnh ông. 

- Rốt cuộc bố đã không thể xem tập này, hay ít ra nó cũng không tồn tại trong bộ nhớ của bố, bố cô nói tiếp. 

Julia cầm lấy chiếc điều khiển từ xa và tắt tiếng. Anthony Walsh ngước mắt nhìn trần nhà. 

- Bố muốn chúng ta nói chuyện chứ gì? Cô nói, vậy thì chúng ta nói chuyện đi thôi. 

Họ ngồi im lặng phải đến hơn mười lăm phút. 

- Bố rất vui, rốt cuộc bố không thể xem tập phim này, hay ít ra nó cũng không xuất hiện trong bộ nhớ của bố, Anthony Walsh nhắc lại rối bấm điều khiển cho to tiếng lên. 

Lần này thì Julia tắt luôn ti vi. 

- Bố bị lỗi rồi, bố vừa nói hai lần cùng một câu đó. 

Tiếp theo là mười lăm phút im lặng nữa. Anthony Walsh ngồi nguyên tại chỗ, đôi mắt dán chặt vào màn hình ti vi đen ngòm. 

- Vào một tối sinh nhật con, bố nghĩ là chúng ta mừng sinh nhật con chín tuổi thì phải, sau khi cùng nhau dùng bữa tối trong một nhà hàng Trung Hoa mà con đặc biệt ưa thích, chúng ta đã dành trọn bữa tối để xem ti vi, như thế, không ai khác ngoài hai bố con. Con nằm dài thượt trên giường bố và ngay cả khi chương trình ti vi đã hết, con vẫn tiếp tục ngắm nghía những vệt nhiễu trên màn hình; con không thể nhớ được chuyện ấy đâu, lúc bấy giờ con còn quá nhỏ. Cuối cùng con thiu thiu ngủ vào khỏang hai giờ sáng. Bố đã muốn dắt con về phòng của con, nhưng tay con vẫn ghì vào chiếc gối dựa vốn được khâu vào đầu giường bố, chặt đến nỗi bố không tài nào tách con ra được. Con ngủ theo chiều ngang của tấm ga trải và con chiếm hết cả chỗ. Thế là bố phải ra nằm trên ghế phô tơi, đối diện với con, và bố đã ngắm con cả đêm. Không, con không thể nhớ được chuyện ấy đâu, bấy giờ con mới có chín tuổi. 

Julia không nói gì, Anthony Walsh bật lại vô tuyến. 

- Họ kiếm đâu ra chuyện này thế nhỉ? Cần có một trí tưởng tượng cực kì phong phú. Chuyện này luôn khiến bố phải thán phục! Ngộ nhất là rốt cuộc người ta lại đâm ra gắn bó với cuộc đời của những nhân vật này. 

Julia cùng bố cô cứ ngồi đó, bên cạnh nhau, không nói gì thêm. Tay người này đặt cạnh tay người kia và không một khoảnh khắc nào chúng xác lại gần nhau và không một lời nào khoấy động không gian tĩnh mịch của cái đêm hết sức đặt biệt này. Khi những tia sáng lờ mờ của buổi ban mai lọt vào phòng, Julia đứng dậy, vẫn lặng im, đi xuyên qua phòng khách và trên ngưỡng cửa phòng ngủ, cô quay lại. 

- Chúc bố ngủ ngon.

--------------------------------
1 Cách ngôn Pháp, nghĩa là: Gieo nhân nào gặt quả nấy.
 


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
Các thành viên đã Thank Carnation vì Bài viết có ích:
08/11/2011 22:11 # 6
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Trên bàn đầu giường, chiếc radio-báo thức đã chỉ chín giờ, Julia mở mắt và nhảy phắt khỏi giường. 


- Khỉ thật! 

Cô chạy vội về phía phòng tắm, bàn chân đá phải khung cửa. 

- Đã là thứ Hai rồi, cô nổi cáu. Đêm gì thế không biết! Cô kéo tấm ri đô che quanh vòi sen, bước vào bồn tắm và để nước xối thật lâu trên da. Một lúc sau, trong khi cô chải răng, nhìn gương mặt mình trong chiếc gương gắn phía trên chậu rửa mặt, cô bật cười điên dại. Cô quấn một chiếc khăn tắm quanh eo, quấn một chiếc khác quanh đầu, và quyết định sẽ đi pha trà buổi sáng. Khi đi ngang qua phòng ngủ, cô tự hứa ngay khi uống trà xong sẽ gọi cho Stanley. Anh mà biết được cơn mê sảng hoang tưởng của cô hồi đêm thì không phải là không có nguy cơ đâu, anh chắc chắn sẽ muốn dùng vũ lực ép cô đi khám bác sĩ tâm lý. Chống lại cũng vô ích, cô sẽ không bao giờ trụ nổi nửa ngày mà không gọi cho anh, nếu không phải là ghé qua chỗ anh. Một giấc mơ huyền hoặc đến thế cần phải được kể lại cho người bạn thân nhất của cô biết. 

Nụ cười trên môi, cô đến mở cánh cửa phòng ngủ dẫn ra phòng khách thì tiếng động phát ra từ những bộ đồ ăn khiến cô giật bắn mình. 

Tim cô lại một lần nữa nện thình thịch. Bỏ lại hai chiếc khăn tắm trên sàn nhà, cô hối hả mặc một chiếc quần jeans và áo sơ mi thể thao, bới lại tóc cho gọn gàng một chút, quay trở lại phòng tắm và khi đang đứng trước gương thì quyết định rằng một chút phấn cũng chẳng hại gì. Rồi cô hé mở cánh cửa dẫn ra phòng khách, thò đầu ra và gọi nhỏ, giọng lo lắng. 

- Adam à? Stanley à? 

- Bố không biết con dùng cà phê hay trà, nên bố pha cà phê, bố cô từ trong góc bếp nói vọng ra, chỉ cho cô thấy bình cà phê nghi ngút khói ông đang giơ ra với vẻ đắc thắng. Hơi đặc một chút, đúng kiểu bố thích! Ông vui vẻ nói thêm. 

Julia nhìn chiếc bàn gỗ cũ kỹ; bộ đồ ăn của cô đã được bày sẵn. Hai lọ mứt cùng lọ mật ông tạo thành một đường chéo hoàn hảo. Xa hơn một chút, hộp bơ nằm vuông góc với gói ngũ cốc. Một hộp sữa đứng thẳng trước lọ đường. 

- Ngừng lại! 

- Gì kia? Bố lại gây ra chuyện gì nữa thế? 

- Trò chơi xuẩn ngốc của ông bố kiểu mẫu. Bố chưa từng chuẩn bị bữa sáng cho con, bố sẽ không bắt đầu làm việc đó vào lúc này, khi mà bố... 

- Ôi không, không dùng thời quá khứ chưa hoàn thành! Đó là quy tắc chúng ta đã định ra cho nhau cơ mà. Tất cả đều được diễn đạt ở thời hiện đại...tương lai là một sự xa xỉ vượt quá khả năng của bố. 

Anthony rót cà phê vào tách của Julia. 

- Thêm sữa không? Ông hỏi. 

Julia mở vòi nước ở bồn rửa và lấy đầy cái ấm điện. 

- Thế nào, con đã quyết định chưa? Anthony Walsh hỏi, rút hai miếng bánh mì nướng ra khỏi lò. 

- Nếu mục đích là để trò chuyện cùng nhau thì buổi tối qua của chúng ta chưa đủ sức thuyết phục cho lắm, Julia đáp bằng giọng nhỏ nhẹ. 

- Bố thì rất thích cái khoảng thời gian chúng ta đã cùng nhau trải qua, con không thích à? 

- Hôm đó không phải là sinh nhật con chín tuổi; chúng ta đã mừng sinh nhật con mười tuổi. Dịp nghỉ cuối tuần đầu tiên không có mẹ. Hôm đó là Chủ nhật, mà mẹ thì đã nhập viện từ hôm Thứ Năm. Nhà hàng Trung Hoa đó có tên là Wang, năm ngoái nó đã dẹp tiệm. Sáng tinh mơ ngày thứ Hai, trong khi con còn đang ngủ, bố đã thu dọn hành lý rồi lên máy bay mà không qua chào từ biệt con. 

- Bố có cuộc hẹn ở Seattle vào đầu giờ chiều! À không hình như ở Boston thì phải. Chà, thế rồi...bố không nhớ nữa. Bố quay về hôm thứ Năm...hay thứ Sáu ấy nhỉ? 

- Tất cả những chuyện này để làm gì? Julia hỏi khi ngồi vào bàn. 

- Chỉ trong hai câu ngắn ta vừa nói với nhau được không ít chuyện, con không thấy sao? Trà của con sẽ không đời nào xong được nếu con không ấn vào cái nút trên ấm. 

Julia hít hà cái tách đặt được mặt cô. 

- Con nghĩ là cả đời mình sẽ không bao giờ nuốt nổi cà phê, cô vừa nói vừa nhấp môi vào món đồ uống. 

- Vậy thì làm sao con có thể biết được là con không thích nó? Anthony Walsh vừa hỏi vừa nhìn cô con gái uống một hơi cạn tách. 

- Thì bởi vậy! cô đáp, nhăn mặt, và đặt cái tách xuống bàn. 

- Người ta làm quen với vị đắng...thế rồi rốt cuộc người ta thích sự hấp dẫn toát ra từ đó, Anthony nói. 

- Con phải đi làm đây, Julia nói tiếp và mở lọ mật ong. 

- Con đã quyết định rồi hay chưa? Cái tình cảnh này thật khó chịu, dù sao bố cũng có quyền được biết chứ! 

- Con không biết nói với bố gì đây, đừng đòi hỏi ở con điều không thể. Bố cùng những người hùn vốn đã quên đi một vấn đề khác cũng liên quan đến đạo đức. 

- Cứ nói đi, chuyện này khiến bố quan tâm đấy. 

- Làm xáo trộn cuộc sống của ai đó, cái người đã không hề yêu cầu gì cả. 

- Ai đó ấy à? Anthony Walsh hỏi lại bằng một giọng lạnh lùng. 

- Đừng có bắt bẻ chuyện chữ nghĩa. Con không biết nói với bố thế nào, hãy làm như bố muốn, hãy nhấc điện thoại lên, gọi cho họ, đọc cho họ mã và để họ quyết định thay cho con từ xa. 

- Sáu ngày, Julia, không gì khác ngoài sáu ngày để con chịu tang bố mình chứ không phải một kẻ xa lạ nào đó, con chắc chắn là không muốn đích thân lựa chọn sao? 

- Vậy thì sáu ngày dành cho bố! 

- Bố không còn ở trên đời này nữa, con muốn bố được lợi gì trong chuyện này nào? Bố không hình dung ngày nào đó mình nói ra câu này, ấy vậy mà ngày ấy lại đến. Vả lại, khi nghĩ đến nó thì cũng khá kỳ cục, Anthony Walsh tiếp, vẻ thích thú. Chuyện này cũng không như người ta dự kiến đâu. Lạ lắm! Con sẽ công nhận ra rằng cho đến khi thực hiện phát minh thiên tài này, thật khó mà hình dung ra cảnh mình nói với con gái là mình đã qua đời, trong khi theo dõi phản ứng của nó. Không phải thế sao? Được, bố thấy rằng chuyện này thậm chí cũng chẳng khiến con mỉm cười, rốt cuộc nó cũng không buồn cười lắm. 

- Quả là không! 

- Bố có một tin xấu cho con đây. Bố không thể gọi cho họ được. Chuyện đó là không thể. Người duy nhất có thể ngừng chương trình là người thụ hưởng. Mặt khác, bố quên mất mật mã bố nói với con rồi, nó sẽ lập tức tự xoá trong bộ nhớ của bố. Bố hy vọng con đã ghi lại...phòng trường hợp... 

- 1-800-300 00 01 mã 654 

- Ồ, ra là con đã nhớ rất kỹ! 

Julia đứng dậy và để tách của cô vào bồn rửa. Cô quay lại nhìn bố mình thật lâu rồi nhấc điện thoại gắn trên tường nhà bếp lên. 

- Tớ đấy, cô nói với anh bạn đồng nghiệp. Tớ sẽ làm theo lời khuyên của cậu, gần như thế...tớ nghỉ cả hôm nay và ngày mai, có thể nhiều hơn, tớ còn chưa biết, nhưng tớ sẽ báo với cậu sau. Tối nào cũng gửi mail thông báo tớ biết nếu các cậu gặp phải vấn đề, dù là nhỏ nhất. Một điều cuối cùng, hãy dành toàn bộ sự chú ý cho anh chàng Charles này, cái cậu lính mới ấy, chúng ta phải chịu ơn cậu ấy nhiều đấy. Tớ không muốn cậu ấy bị tách ra, hãy giúp cậu ấy hoà nhập với ê kíp. Tớ thực sự trông cậy vào cậu đấy, Dray. 

Julia đặt ống nghe vào chỗ cũ, vẫn không rời mắt khỏi ông bố. 

- Để mắt đến các cộng sự của mình là tốt đấy, Anthony Walsh thông báo, bỗ vẫn luôn nói rằng một doanh nghiệp dựa trên ba cột chống: những ê kíp của nó, những ê kíp của nó và những ê kíp của nó! 

- Hai ngày! Con cho chúng ta hai ngày, bố nghe rõ rồi chứ? Bố tự quyết có nhận nó hay không. Bốn mươi tám tiếng nữa, bố trả con về cuộc sống của con, còn bố... 

- Sáu ngày! 

- Hai! 

- Sáu! Anthony Walsh tiếp tục mặc cả. 

Tiếng chuông điện thoại làm cuộc thương lượng tạm thời gián đoạn. Anthony nhấc máy, Julia lập tức giành lại, túm chặt lấy ống nghe trong tay mình và ra hiệu cho bố cô tuyệt đối giữ im lặng. Adam lo lắng vì gọi đến văn phòng mà không gặp được cô. Anh trách mình đã tự ái và ngờ vực cô. Cô xin lỗi vì tối qua đã nóng giận, cảm ơn anh vì đã đáp lại tin nhắn của cô và đã ghé qua thăm cô. Và ngay cả khi thời khắc đó không nằm trong số những khoảnh khắc tuyệt vời nhất, sự xuất hiện bất ngờ của anh dưới khung cửa sổ rốt cuộc cũng có khía cạnh hết sức lãng mạn. 

Adam đề nghị sẽ đến đón cô khi kết thúc ngày làm việc. Và trong khi Anthony Walsh rửa bát, với những tiếng động nhất có thể, Julia giải thích rằng cái chết của bố cô đã tác động đến cô nhiều hơn là bản thân cô muốn thừa nhận. Đêm nào cô cũng gặp ác mộng, cô đã kiệt sức. Không nên tái diễn sự thể hôm qua. Một buổi chiều yên ổn, một buổi tối cô có thể ngủ sớm rồi ngày mai, muộn nhất là ngày kia, họ sẽ gặp nhau. Từ giờ tới lúc ấy, cô sẽ tìm lại được vẻ bề ngoài đúng mực của người phụ nữ trẻ anh muốn cưới làm vợ. 

- Đúng như bố đã nói, quả táo không bao giờ rụng xa cây, Anthony Walsh lặp lại khi Julia dập máy. 

Cô nhìn xoáy vào ông. 

- Lại gì nữa thế? 

- Bố chưa từng rửa cái đĩa nào cả! 

- Con thì biết gì về chuyện ấy, với lại bát đĩa đang nằm trong chương trình mới của bố rồi! Anthony Walsh vui vẻ đáp. 

Julia bỏ rơi ông và vớ lấy xâu chìa khoá treo trên đinh. 

Con đi đâu đấy? bố cô hỏi. 

- Con đi lên gác thu xếp một phòng cho bố. Không thể có chuyện bố đi bách bộ cả đêm trong phòng khách nhà con, con phải ngủ bù vài tiếng, nếu bố hiểu ý con muốn nói gì. 

- Nếu là tiếng ti vi thì bố có thể vặn nhỏ đi... 

- Tối nay bố lên trên gác, bố phải quyết định đi! 

- Dù sao con cũng không xếp bố ở tầng áp mái đấy chứ? 

- Bố hãy đưa ra một lý do hợp lý để không làm vậy. 

- Có chuột...chính con nói thế còn gì, bố cô tiếp với ngữ điệu của một đứa trẻ vừa bị phạt. 

Và trong khi Julia chuẩn bị ra khỏi căn hộ, bố cô gọi cô lại bằng một giọng cương quyết. 

- Chúng ta sẽ không bao giờ có thể nói chuyện được ở đây! 

Julia khép cửa lại và leo cầu thang bộ. Anthony Walsh tra giờ trên mặt đồng hồ của lò vi sóng, ngần ngừ giây lát, rồi đi tìm chiếc điều khiển từ xa màu trắng mà Julia đã bỏ lại trên bàn làm việc. 

Ông nghe thấy tiếng bước chân cô con gái phía trên đầu, tiếng động phát ra từ những đồ đạc cô đang dịch chuyển, tiếng động phát ra từ ô cửa sổ cô mở ra rồi lại đóng vào. Khi cô trở xuống, bố cô đã đứng lại vào hòm, tay cầm điều khiển từ xa.

- Bố đang làm gì vậy? cô hỏi ông. 

- Bố sẽ tự huỷ bố đi, có lẽ như thế sẽ tốt hơn cho cả hai bố con mình, mà nhất là cho con, bố thấy rõ là bố đang gây phiền toái. 

- Con cứ ngỡ bố không thể làm được chuyện đó? Cô vừa nói vừa giật lấy chiếc điều khiển từ tay ông. 

- Bố đã nói với con là người duy nhất có thể gọi đến công ty và cung cấp mã, nhưng bố nghĩ mình vẫn có thể ấn vào nút chứ! ông vừa gắt gỏng vừa bước ra khỏi hòm. 

- Thế thì cứ làm theo ý bố đi, cô đáp và trả lại ông thiết bị điều khiển. Bố làm con kiệt sức! 

Anthony Walsh đặt lại nó trên bàn thấp và đến đứng trước mặt con gái. 

- Xét cho cùng, các con định đi nghỉ ở đâu vậy? 

- Đi Montréal, tại sao? 

- Nói xem nào, cậu ta cũng không chịu khó cất công lắm nhỉ, vị hôn phu ấy, ông tròn miệng huýt sáo. 

- Bố phản đối Québec ở điểm gì nào? 

- Không gì hết! Montréal là một thành phố hoàn toàn thú vị, bố thậm chí đã từng trải qua những khoảnh khắc hết sức dễ chịu tại đó! Rốt cuộc, vấn đề không nằm ở đó, ông húng hắng ho. 

- Vậy vấn đề của bố là gì? 

- Chỉ là... 

- Là gì? 

- Một chuyến đi nghỉ trăng mật cách một giờ bay...thực sự là một sự bỡ ngỡ mới hay ho làm sao! Và tại sao con không đi tới đó bằng xe cắm trại chuyên dụng để tiết kiệm tiền khách sạn luôn đi! 

- Mà nếu chính con đã chọn điểm đến này thì sao? Nếu con thích đến mê mẩn thành phố này, nếu Adam và con, bọn con từng có những kỷ niệm tại đó thì sao? Bố thì biết gì về chuyện ấy? 

- Nếu chính con chọn trải qua đêm tân hôn của mình ở nơi cách nhà con một giờ bay, con đã không phải là con gái bố, có thế thôi! Anthony khẳng định bằng giọng mỉa mai. Bố chấp nhận được chuyển con thích món xi rô vị cây thích, nhưng đến nước này thì... 

- Bố sẽ chẳng bao giờ bỏ được những lời tiên nghiệm của bố nhỉ? 

- Bố đồng ý với con rằng giờ đã hơi muộn rồi. Hoặc, cứ cho là vậy, con đã quyết định qua cái đêm đáng nhớ nhất trong đời mình tại một thành phố mà con đã biết. Vĩnh biệt nhé, mong muốn khám phá! Vĩnh biệt nhé, sự lãng mạn! Hãy dọn lên cho chúng tôi bữa ăn quen thuộc, chồng sắp cưới của tôi, nên nói thế nào nhỉ, chồng mới cưới của tôi ghét phải thay đổi thói quen! 

Anthony Walsh cười phá lên. 

- Bố nói xong chưa? 

- Rồi, ông xin lỗi. Có Chúa chứng giám, chết cũng có cái hay, người ta dựa vào đó để nói tất cả những gì được truyền vào mình qua mạch điện, thú vị ra phết! 

- Bố có lý, chúng ta sẽ không bao giờ làm được! Julia nói, chấm dứt trận cười bột phát của bố cô. 

- Dù thế nào đi nữa cũng không phải ở đây. Bố con ta cần một lãnh thổ trung lập. 

Julia nhìn ông, bối rối. 

- Chúng ta hãy ngừng chơi trò ú tim trong căn hộ này đi, được không? Ngay cả khi tính đến căn phòng trên gác, nơi con muốn xếp dọn cho bố ấy, cũng không có đủ chỗ và không còn đủ nữa những phút giây quý giá mà bố con ta đang lãng phí như hai đứa trẻ ranh. Chúng sẽ không quay trở lại nữa đâu. 

- Bố đề xuất gì nào? 

- Một chuyến đi ngắn ngày. Không có các cuộc gọi từ văn phòng của con, không có sự xuất hiện bất ngờ của chàng Adam của con, không có buổi tối ngồi nhìn nhau trừng trừng trước ti vi, thay vào đó là những cuộc dạo chơi, hai bố con ta có thể trò chuyện. Chính vì điều này mà bố trở lại từ nơi xa đến vậy. Một khoảnh khắc, vài ngày, không ai khác ngoài hai bố con ta, chỉ dành cho hai bố con ta mà thôi! 

- Bố đang đòi hỏi con phải tặng cho bố thứ mà bố chưa bao giờ muốn tặng cho con, có đúng thế không? 

- Đừng có gây chiến với bố nữa, Julia. Sau đó con sẽ có toàn bộ thời gian để tiếp tục cuộc chiến, những vũ khí của bố lúc bấy giờ sẽ chỉ còn tồn tại trong ký ức của con thôi. Sáu ngày, đó là tất cả những gì chúng ta còn có được, đó là điều bố thỉnh cầu ở con. 

- Và chúng ta sẽ du lịch ngắn ngày ở đâu? 

- Ở Montréal! 

Julia không thể nén nổi nụ cười rạng rỡ vừa bừng sáng trên gương mặt cô. 

- Ở Montréal ấy ạ? 

- Thì bởi vì cặp vé không được hoàn tiền cơ mà!...lúc nào ta cũng có thể thử đăng ký đổi tên của một trong hai hành khách... 

Và vì Julia đã cột tóc, vắt áo khoác qua vai và rõ ràng là sắp sửa đi khỏi mà không trả lời ông, Anthony Walsh bèn đứng chắn trước cửa. 

- Đừng giận dỗi như thế chứ, Adam đã nói là con thậm chí có thể vứt nó đi kia mà! 

- Anh ấy đề nghị con giữ những tấm vé lại làm kỷ niệm, và nếu câu ấy thoát được khỏi đôi tai thóc mách của bố thì thật trở trêu đấy. Con không nghĩ anh ấy gợi ý là con nên đi cùng ai đó khác. 

- Cùng bố con, không phải ai đó khác! 

- Bố làm ơn tránh đường! 

- Con đi đâu? Anthony Walsh vừa hỏi vừa nhường đường cho cô. 

- Hít thở không khí. 

- Con giận à? 

Thay cho câu trả lời, ông nghe thấy tiếng bước chân cô con gái đang xuống cầu thang.

° ° °

Một chiếc taxi đi chậm lại ở ngã tư Greenwich Street, Julia vội leo lên xe. Không cần ngước nhìn về phía mặt tiền toà nhà, cô vẫn biết hẳn Anthony Walsh đang quan sát từ khung cửa sổ phòng khách. Chiếc Ford màu vàng đang đi xa dần về phía Đại lộ số 9. Ngay khi cô biến mất ở ngã tư, ông đi thẳng vào bếp, nhấc điện thoại lên và gọi hai cuộc. 

Julia xuống xe ở lối vào khu phố SoHo. Lúc bình thường, hẳn cô sẽ cuốc bộ quãng đường cô đã thuộc làu này. Chưa đầy mười lăm phút đi bộ, thế nhưng, để trốn chạy khỏi nhà mình, cô đã muốn đánh cắp một chiếc xe đạp ai đó để quên, một chiếc không khoá ở góc phố nhà cô. Cô đẩy cánh cửa ra vào của một tiệm đồ cổ nhỏ, một tiếng chuông vang lên. Ngồi trong chiếc ghế phô tơi phong cách Ba rốc, Stanley ngước lên từ cuốn sách đang đọc dở. 

- Greta Garbo trong phim Hoàng hậu Christine cũng không thể làm tốt hơn! 

- Anh đang nói về chuyện gì cơ? 

- Về cách em đi vào, Công chúa của anh ạ, cùng lúc uy nghi và kinh khủng! 

- Hôm nay không phải là ngày thích hợp để anh giễu cợt em đâu. 

- Chẳng có ngày nào, dù có đẹp thế này chăng nữa, có thể nhịn chút ít bông đùa. Em không làm việc à? 

- Julia tiến lại gần một giá sách cổ và nhìn chăm chú chiếc đồng hồ quả lắc mạ vàng tinh xảo được đặt trên tầng giá cao nhất. 

- Em bỏ việc đi chơi để đến tra giờ ở thế kỷ XVIII ưu? Stanley hỏi, đẩy cặp kính đang ngự trên chóp mũi lên cao hơn. 

- Nó đẹp quá. 

- Ừ, mà anh cũng thế, em làm sao vậy? 

- Không sao, em ghé qua thăm anh, chỉ thế thôi. 

- Thế đấy, và anh sẽ nhanh chóng dừng Louis XVI lại để bắt đầu pop'art! Stanley bẻ lại và buông rơi quyển sách của mình. 

Anh đứng dậy ngồi ghé vào mép chiếc bàn gỗ gụ. 

- Một vụ sập hầm lò ẩn dưới khuôn mặt xinh xắn này chăng? 

- Thứ gì đó gần giống như vậy, phải rồi. 

Julia tựa đầu vào vai Stanley. 

- À phải rồi, quả nhiên là rất nặng! anh nói và vòng tay ôm cô. Anh sẽ pha cho em một thứ trà một người bạn đã gửi cho anh Việt Nam. Đó là một thứ đồ uống giải độc, rồi em sẽ thấy, chẳng có gì phải nghi ngờ về khả năng của nó, có lẽ là vì anh bạn này không có chút khả năng nào. 

Stanley lấy trên giá một ấm pha trà. Anh bật cái ấm điện đặt trên một bàn viết cổ đang được dùng làm quầy thu ngân. Vài phút cần thiết để hãm trà và thứ đồ uống thần diệu được rót đầy hai chiếc tách sứ, vừa được lấy ra từ một chiếc tủ cổ. Julia hít lấy hương thơm của hoa nhài đang toả lan rồi nhấp một ngụm nhỏ. 

- Anh nghe em nói đây, đừng tìm cách chống lại, thứ nước thần này được xem như dùng để moi những bí mật thuộc hàng khó nói nhất. 

- Anh sẽ đi nghỉ tuần trăng mật với em chứ? 

- Nếu anh đã cưới em rồi thì tại sao lại không nhỉ...nhưng lẽ ra em phải tên là Julien cơ, Julia ạ, nếu không, chuyến nghỉ trăng mật của chúng ta sẽ thiếu đi nét độc đáo. 

- Stanley, nếu anh đóng cửa hàng không đến một tuần và để em bắt cóc anh... 

- Hết sức lãng mạn đấy, đi đâu nào? 

- Tới Montréal. 

- Không đời nào! 

- Anh cũng thế, anh phản đối Québec ở điểm gì nào? 

- Anh đã sống qua sáu tháng đày ải đến không thể chịu nổi để giảm ba ki lô, làm thế nào không phải để thu lại số cân nặng đó chỉ trong vài ngày. Những nhà hàng ở Québec hấp dẫn không cưỡng nổi, mặt khác các chàng phục vụ cũng vậy! Và lại anh ghét cái ý nghĩ mình là lựa chọn thứ hai. 

- Sao anh nói vậy? 

- Trước anh, ai đó đã từ chối đi cùng em nào? 

- Không quan trọng! Dù sao anh cũng đừng nghĩ như thế chứ. 

- Có lẽ nếu em bắt đầu giải thích anh nghe chuyện đang khiến em lo lắng... 

- Ngay cả khi em kể lại với anh từ đầu chí cuối, anh cũng sẽ không tin được đâu. 

- Cứ cho anh là một tên ngốc đi...Lần cuối cùng em tự cho phép mình nghỉ nửa ngày giữa tuần là khi nào nhỉ? 

Đối diện với sự câm lặng của Julia, Stanley nói tiếp: 

- Em bất thần ghé qua tiệm của anh vào một buổi sáng thứ Hai, hơi thở em nồng nặc mùi cà phê, một người ghét cà phê như em. Dưới lớp phấn chay này, đánh chẳng đều tí nào, giấu một bộ mặt non choẹt của ai đó mà thời gian ngủ hẳn chỉ được tính bằng phút, em đột ngột yêu cầu anh thế chân hôn phu của em trong chuyến nghỉ tuần trăng mật. Có chuyện gì vậy? Em đã qua đêm với người đàn ông khác ngoài Adam à? 

- Ôi không! Julia kêu lên. 

- Anh đặt lại câu hỏi nhé. Em đang sợ ai hay sợ cái gì nào? 

- Không gì cả. 

- Anh đang bận việc, em thân mến ạ, vậy nên nếu em không còn tin anh đủ để tâm sự với anh nữa, thì anh sẽ quay lại với bảng kiểm kê của anh, Stanley vờ đi về phía phòng sau cửa tiệm. 

- Lúc em vào anh đang ngáp trước một cuốn sách đọc dở! Anh nói dối mới tệ làm sao! Julia vừa nói vừa cười. 

- Tóm lại là bỏ cái vẻ mặt u ám rầu rĩ ấy đi! Em muốn chúng ta đi dạo không? Các cửa hàng của khu phố sẽ sớm mở cửa thôi, chắc chắn là em cần một đôi giày mới. 

- Giá mà anh nhìn thấy tất cả những đôi giày đang nằm đắp chiếu trong tủ quần áo mà em chẳng bao giờ đi đến. 

- Anh không nói đến chuyện làm thoả mãn đôi chân em, mà là tinh thần của em! 

Julia nhấc chiếc đồng hồ quả lắc mạ vàng lên. Mặt kính bảo vệ không còn. Cô lướt đầu ngón tay trên đường viền mặt đồng hồ. 

- Nó đẹp thật đấy, cô vừa nói vừa đầy lùi kim chỉ phút. 

Và dưới lực đẩy của tay cô, kim giờ cũng bắt đầu quay ngược. 

- Thật là hay nếu ta có thể quay trở lại quá khứ. 

Stanley nhìn Julia chăm chú. 

- Quay ngược thời gian? Em sẽ không vì thế mà trả món đồ cổ này về với tuổi thanh xuân của nó đấy chứ. Hãy nhìn mọi vật khác đi, chính nó mới dâng tặng cho chúng ta vẻ đẹp của thời đại sản sinh ra nó, Stanley đáp và đặt chiếc đồng hồ lên giá. Rốt cuộc em sẽ nói cho anh biết điều gì đang khiến em bận lòng chứ? 

- Nếu người ta đề nghị anh thực hiện một chuyến đi, khởi hành lần theo dấu vết cuộc đời của bố anh, anh sẽ chấp nhận chứ? 

- Có rủi ro bất trắc gì nào? Về phần anh, nếu có phải đi đến tận cùng thế giới, dù chỉ để tìm thấy ở đó một đoạn đời mẹ anh, anh đã ngồi lên máy bay để gây phiền toái cho các cô tiếp viên hàng không rồi, thay vì mất thời gian với một kẻ điên rồ, ngay cả khi đó là người anh đã chọn làm bạn thân nhất của mình. Nếu em có cơ hội có được một chuyến đi như thế, hãy lên đường đừng ngần ngại. 

- Và nếu như thế là quá muộn? 

- Quá muộn, đó chỉ là khi mọi việc đã trở nên bất khả vãn hồi. Ngay cả khi đã qua đời, bố em vẫn tiếp tục sống bên cạnh em. 

- Anh đừng đa nghi tới mức ấy! 

- Dù em có muốn nói nhăng nói cuội gì đi nữa thì em vẫn cứ nhớ ông ấy. 

- Từ bao năm nay em đã tập quen với sự vắng mặt của ông. Em đã học được cách sống mà không cần đến ông.. 

- Em thân mến ơi, ngay cả những đứa trẻ chưa từng biết bố mẹ đẻ của chúng sớm hay muộn rồi cũng cảm thấy nhu cầu được nối lại với cội rễ của chúng. Chuyện đó thường khiến chúng phải xót xa, nhưng bản chất con người được tạo nên như vậy. Một khi không biết mình từ đâu đến người ta bước trên đường khó nhọc hơn. Thế nên, nếu em cần phải thực hiện một chuyến đi nào anh không rõ cuối cùng sẽ dẫn em đến chỗ biết được bố em là ai, sẽ giải hoà quá khứ của em và quá khứ của ông ấy, thì hãy thực hiện nó đi. 

- Bố con em không có nhiều kỷ niệm chung, anh biết đấy. 

- Có lẽ nhiều hơn là em tưởng. Hãy một lần quên lòng tự tôn vẫn khiến anh mê mẩn đi và thực hiện chuyến đi này! Nếu em không thực hiện nó cho bản thân mình, hãy làm cho một trong những người bạn gái vĩ đại nhất của anh, ngày nào đó anh sẽ giới thiệu em với cô ấy, đó là một bà mẹ tuyệt vời. 

- Ai thế? Julia hỏi với một chút ganh tị trong giọng nói. 

- Là em, trong một vài năm nữa. 

- Anh là người bạn tuyệt nhất của em, Stanley ạ, Julia nói và hôn lên má anh. 

- Nhưng anh không liên quan gì trong chuyện này cả, em thân mến, là món nước hãm này! 

- Nhớ chúc mừng anh bạn của anh bên Việt Nam nhé, thứ trà của anh ấy đúng là nó có những tính năng tuyệt vời, Julia nói thêm lúc rời khỏi. 

- Nếu em thích thứ trà này đến thế, anh sẽ mua cho em vài hộp, chúng sẽ chờ sẵn ở đó khi em trở về. Anh mua ở ngay tiệm thực phẩm góc phố ấy mà!



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
08/11/2011 22:11 # 7
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Julia leo cầu thang bốn bậc một và bước vào căn hộ. Phòng khách vắng tanh vắng ngắt. Cô gọi nhiều lần nhưng không nhận được lời thưa nào. Phòng khách, phòng ngủ, phòng tắm, một cuộc khám xét trên tầng xác nhận rằng mọi nơi đều trống trải. Cô nhận ra bức ảnh chụp Anthony Walsh lồng trong chiếc khung nhỏ bằng bạc vừa mới được đặt trên lò sưởi. 


- Con đi đâu về thế? - bố cô hỏi làm cô giật nảy người. 

- Bố làm con sợ chết khiết. Thế còn bố, bố biến đi đâu thế? 

- Bố hết sức cảm động thấy con lo lắng cho bố đấy. Bố đi dạo. Ở đây một mình chán lắm. 

- Cái gì đây? - Julia hỏi và chỉ chiếc khung ảnh trên tấm chắn lò sưởi. 

Bố sắp dọn đồ đạc phòng bố trên gác, vì tối nay bố sẽ bị di tản lên đó mà, và bố tìm ra vật này hoàn toàn tình cờ,... dưới một đám bụi. Bố sẽ không ngủ với một bức ảnh của mình trong phòng đâu! Bố đặt nó ở đây, nhưng nếu muốn, con có thể đặt nó ra chỗ khác. 

- Bố vẫn muốn đi du lịch chứ? Julia hỏi 

- Bố vừa ở chỗ hãng lữ hành đầu phố nhà con về. Chẳng gì có thể thay thế được sự tiếp xúc giữa người với người. Một thiếu nữ xinh đẹp, vả lại trông cô ấy có phần giống con đấy, thêm vào đó là nụ cười... bố nói đến đâu rồi nhỉ? 

- Đoạn một thiếu nữ xinh đẹp... 

- Chính xác là thế đấy! Cô ấy muốn phạt theo quy định. Sau khi đã gõ mổ cò lên bàn phím máy tính hết quá nửa tiếng đồng hồ, kể ra bố cứ nghĩ cô ấy đang cố chép lại trọn bộ tác phẩm của Hemingway cơ đấy, cô ấy rốt cuộc đã in lại được chiếc vé có tên bố. Bố đã tranh thủ đổi vé của hai bố con mình sang vé hạng sang hơn! 

- Thật không sao tin nổi bố! Nhưng điều gì khiến bố tin rằng con sẽ chấp nhận...? 

- Chà, chẳng gì hết; chỉ có điều, dù phải dán tấm vé này trong cuốn album ảnh kỷ niệm con sẽ có trong tương lai, thì dẫu sao chúng cũng là vé hạng nhất. Vấn đề là địa vị xã hội của gia đình, con thân mến ạ. 

Julia đi nhanh về phía phòng ngủ, Anthony Walsh hỏi cô còn định đi đâu nữa. 

- Chuẩn bị một chiếc túi du lịch, cho hai ngày, cô trả lời, nhấn mạnh vào con số, đó có đúng là điều bố muốn không? 

- Chuyến phiêu lưu của bố con ta kéo dài sáu ngày, ngày giờ không đổi được; bố đã năn nỉ Eslodie vô ích, cô thiếu nữ xinh đẹp của hãng lữ hành mà ban nãy bố nhắc với con đấy, cô ấy rất cố chấp về khoản ngày giờ. 

- Hai ngày! Julia hét lên từ phòng tắm. 

- Ồ, cứ việc làm như con muốn, tệ nhất chúng ta sẽ mua cho con một chiếc quần dài khác ngay tại chỗ. Phòng trường hợp con không nhận ra nhé, quần jean của con rách rồi, bố thấy một mảng đầu gối con kìa! 

- Thế còn bố, bố tay không lên đường sao? Julia hỏi, thò đầu qua cửa sổ. 

Anthony Walsh tiến về cái hòm gỗ ngự ở giữa phòng khách và nâng tấm cửa trượt giấu đi phần đáy kép. Bên trong có một chiếc va ly nhỏ da màu đen. 

- Họ đã trữ sẵn một hộp đồ dùng cá nhân nhỏ, thứ giúp ta giữ được vẻ thanh lịch trong suốt sáu ngày, thời gian xấp xỉ bằng độ bền của pin! Ông nói, không phải là không có chút hài lòng... Trong lúc con vắng mặt, bố đã tự cho phép mình lấy lại giấy chứng minh thư mà người ta giao lại cho con. Bố cũng mạo muội lấy lại chiếc đồng hồ đeo tay, ông vừa nói thêm vừa hãnh diện giơ cổ tay mình ra. Con không thấy bất tiện khi bố đeo tạm nó một thời gian chứ? Sau này nó sẽ thuộc về con; rốt cuộc con hiểu ý bố muốn nói gì rồi đấy... 

- Nếu bố có thể dừng việc lục lọi ở nhà con, con rất cảm ơn bố đấy! 

- Lục lọi nhà con, con thân mến ạ, sẽ là chấn hưng khoa nghiên cứu hang động đấy! Bố đã tìm ra những vật dụng cá nhân của bố trong một chiếc phong bì bằng giấy bồi, đã bị bỏ quên trên căn hộ áp mái của con, giữa đống hỗn độn! 

Julia đóng hành lý của mình lại rồi để ngay ở lối đi. Cô báo cho bố biết mình ra ngoài một lát và sẽ quay về sớm nhất có thể. Giờ cô phải đi giải thích cho Adam về chuyến đi của cô. 

- Con định nói gì với cậu ta? Anthony Walsh hỏi. 

- Con nghĩ chuyện đó chỉ liên quan đến anh ấy và con thôi, Julia đáp. 

- Bố không bận tâm chuyện liên quan đến cậu ta, chính là chuyện liên quan đến con khiến bố quan tâm. 

- Vậy sao? Chuyện đó cũng nằm trong chương trình mới của bố à? 

- Dù con có viện ra lý do nào đi nữa, bố cũng khuyên con không nên nói cho cậu ta biết bố con ta sẽ đi đâu. 

- Và con cho rằng mình sẽ phải nghe theo lời khuyên của một ông bố đã quá dày dạn trong việc giữ bí mật. 

- Hãy coi đó chỉ như một lời khuyên giữa người với người. Bây giờ thì đi mau đi, muộn nhất là hai tiếng nữa bố con ta cần phải rời khỏi Manhattan.

° ° °

Chiếc taxi thả Julia xuống Đại Lộ Mỹ, trước số nhà 1350. Cô bước nhanh vào tòa nhà ốp kính đồ sộ bên trong có trụ sở của ban văn học thiếu nhi của một nhà xuất bản lớn tại New York. Di động của cô không còn sóng khi vào đến đại sảnh, cô tiến lại quầy tiếp tân và xin nhân viên trực tổng đài kết nối điện thoại với ông Coverman. 

- Mọi chuyện ổn cả chứ? Adam hỏi khi nhận ra giọng của Julia 

- Anh đang họp à? 

- Anh đang duyệt ma két, mười lăm phút nữa bọn anh xong việc. Em có muốn anh đặt trước một bàn lúc tám giờ tối tại nhà hàng Ý của chúng ta không? 

Ánh mắt Adam dừng lại trên mặt đồng hồ của máy điện thoại. 

- Em đang ở dưới nhà à? 

- Chỗ quầy lễ tân ạ... 

- Em đến không đúng lúc rồi, tất cả bọn anh đang dự cuộc họp giới thiệu ấn phẩm mới... 

- Mình cần nói chuyện, Julia ngắt lời anh 

- Không thể đợi đến tối nay được sao? 

- Em không thể ăn tối với anh được, Adam. 

- Anh xuống ngay đây! Anh đáp và gác máy. 

Anh gặp Julia ở đại sảnh, vẻ mặt cô rầu rĩ báo trước một tin xấu. 

- Dưới tầng hầm có một quán cà phê, anh dắt em xuống đó nhé, Adam nói. 

- Đi dạo trong công viên thì hơn, ra bên ngoài mình sẽ thấy dễ chịu hơn 

- Chuyện nghiêm trọng đến thế sao? Anh hỏi trên đường ra khỏi tòa nhà. 

Julia không trả lời. Họ đi ngược lên Đại lộ số Sáu. Thêm ba dãy nhà nữa. Họ vào đến công viên trung tâm. 

Những lối đi xanh rợp hầu như vắng bóng người, vài người chạy bộ thể dục với tai nghe trên tai đang duy trì tốc độ vừa phải, tập trung vào nhịp chạy của mình, mang vẻ bí hiểm đối với thế giới, với những người chỉ bằng lòng với cuộc dạo chơi đơn giản. Một chú sóc với bộ lông màu hung tiến về phía họ, và đứng thẳng trên hai chân sau kiếm thức ăn. Julia thò tay vào trong túi áo khoác dài, quỳ xuống và chìa cho chú một nắm quả phỉ. 

Con vật nhỏ bé thuộc họ gặm nhấm nhởn nhơ tiến lại gần, do dự giây lát, hau háu nhìn đống chiến lợi phẩm chú đang thèm muốn. Sự thèm muốn vượt qua nỗi sợ, bằng một động tác mau lẹ, chú chộp lấy quả phỉ và chạy xa vài mét để nhấm nháp nó dưới ánh mắt cảm thương của Julia. 

- Lúc nào em cũng có quả phỉ trong túi áo khoác sao? Adam hỏi một cách thích thú. 

- Em biết em sẽ dẫn anh đến đây mà, em đã mua một gói trước khi lên taxi, Julia vừa đáp vừa chìa một hạt khác cho chú sóc giờ đã kéo thêm vài chiến hữu khác tới. 

- Em không kéo anh ra khỏi một cuộc họp chỉ để cho anh thấy tài huấn luyện thú của em chứ? 

Julia tung phần còn lại của gói quả phỉ lên bãi cỏ và đứng dậy để tiếp tục tản bộ. Adam theo cô sát gót. 

- Em sẽ đi, cô nói giọng buồn bã. 

- Em bỏ anh sao? Adam lo lắng. 

- Ôi, không. Ngốc ạ. Chỉ đi vài ngày thôi. 

- Mấy ngày? 

- Hai, có thể sáu, không hơn. 

- Hai hay sáu? 

- Em không biết nữa. 

- Julia, em bất ngờ xuất hiện tại văn phòng anh, em yêu cầu anh đi theo em như thể thế giới xung quanh em vừa sụp đổ, em có thể tránh cho anh việc phải moi khỏi miệng em từng từ một như thế này không? 

- Thời gian của anh quý giá đến thế ư? 

- Em đang giận, đó là quyền của em, nhưng không phải em đang giận anh. Anh không phải là kẻ thù, Julia ạ, anh bằng lòng là người yêu thương em và chuyện đó không phải lúc nào cũng dễ dàng. Đừng bắt anh phải trả giá vì những chuyện không hề liên quan tới anh. 

- Viên thư ký của bố em mới gọi cho em sáng nay. Em phải giải quyết một số công việc giao dịch của ông ở bên ngoài New York. 

- Ở đâu? 

- Mạn Bắc Vermon, vùng biên giới Canada. 

- Tại sao cả hai chúng ta không tới đó vào cuối tuần này? 

- Chuyện gấp mà, không thể trì hoãn được. 

- Chuyện này có liên quan tới việc hãng lữ hành liên lạc với anh à? 

- Họ bảo anh thế nào? Julia hỏi, giọng không mấy tự tin. 

- Ai đó đã ghé qua gặp họ. Và vì một lý do anh còn chưa thực sự hiểu, họ đã điều chỉnh giá vé của anh, còn vé của em thì không. Họ không muốn giải thích thêm. Lúc đó anh đang họp, rồi anh không còn thời gian để nấn ná lâu. 

- Đó hẳn là tác phẩm của viên thư ký của bố em, ông ấy rất có khiếu trong những việc kiểu này. Ông ấy được đào tạo bài bản mà. 

- Em sang Canada à? 

- Sang biên giới thôi, em đã nói với anh rồi mà. 

- Em thực sự muốn đi chuyến này? 

- Em tin chắc là có, cô đáp với vẻ rầu rĩ. 

Adam kéo Julia sát lại và ôm cô thật chặt. 

- Vậy thì hãy đến nơi em cần phải đến. Anh sẽ không đòi hỏi ở em hơn nữa. Anh không muốn nhận về mình hai lần liên tiếp cái rủi ro bị coi là người không tin tưởng em, mà anh phải quay lại làm việc đây. Em đi cùng anh về văn phòng chứ? 

- Em sẽ ở lại đây thêm chút nữa. 

- Với bầy sóc của em à? Adam hỏi, vẻ giễu cợt 

- Vâng, với bầy sóc của em. 

Anh đặt một nụ hôn lên trán cô, lùi lại vài bước, vẫy tay chào và đi xa dần. 

- Adam này? 

- Gì kia? 

- Không may là anh đang bận họp, thực lòng là em đang rất muốn... 

- Anh biết, nhưng mấy ngày vừa qua thì anh và em, chúng ta chẳng được may mắn lắm. 

Adam gửi đến cô một nụ hôn gió 

- Thực sự anh phải đi đây. Lúc nào đến Vermon, hãy gọi về báo cho anh biết là em đã đến nơi an toàn nhé? 

Rồi Julia nhìn thấy anh đi xa dần.

° ° °

- Mọi chuyện ổn cả chứ? Anthony Walsh hỏi, dáng điệu vui vẻ khi cô con gái vừa về đến nơi. 

- Tuyệt vời! 

- Thế tại sao con phải mang cái vẻ mặt đưa đám ấy? Dù sao đi nữa, chẳng thà muộn còn hơn không... 

- Con đang tự hỏi mình điều ấy đây! Có thể bởi đây là lần đầu tiên con nói dối người mình yêu chăng? 

- Ôi không, đây là lần thứ hai, Julia của bố ạ, con đã quên chuyện hôm qua rồi... Nhưng nếu con muốn, ta có thể nói rằng đó là một sự thử nghiệm chóng vánh và như thế thì không tính. 

- Ngày càng khá hơn rồi đấy! Con đã phản bội Adam lần thứ hai chỉ trong có hai ngày, còn anh ấy, anh ấy thật tuyệt vời vì đã lịch sự để con đi mà không hề đặt ra cho con bất kỳ câu hỏi nào. Lúc lên taxi, con đã thấy mình trong bộ dạng của một người phụ nữ mà con đã tự hứa với mình là sẽ không bao giờ trở thành. 

- Đừng phóng đại thế chứ! 

- Lại còn không à? Còn gì ghê tởm hơn là lừa dối một người đã tin tưởng bố đến mức không hề đặt câu hỏi nào với bố? 

- Vì quá bận bịu đến công việc của mình để thực sự quan tâm đến cuộc sống của người khác? 

- Nếu đến từ bố, đây là một nhận xét không đáng tin lắm. 

- Phải, nhưng như con nói đấy, nó xuất phát từ một người đã thừa chín chắn trong lĩnh vực này! Bố cho là ô tô đang đợi dưới nhà rồi... chúng ta không nên quá chậm trễ. Với những điều lệ an ninh này, từ nay về sau ta sẽ mất nhiều thời gian ngồi ở sân bay hơn là trên máy bay mất thôi. 

Trong khi Anthony Walsh xách hai va ly hành lý của họ xuống dưới nhà, Julia đảo qua một vòng quanh căn hộ. Cô nhìn chiếc khung ảnh bằng bạc đặt trên lò sưởi, quay tấm ảnh của bố cô hướng vào tường rồi khép cánh cửa lại sau lưng.

° ° °

Một giờ sau, chiếc limousine đi theo tuyến đường dẫn tới trạm cuối của sân bay John Fitzgerald Kennedy. 

- Lẽ ra chúng ta có thể bắt một chiếc taxi, Julia vừa nói vừa nhìn qua cửa kính, những chiếc máy bay đang đỗ trên mặt đường rải nhựa. 

- Đúng thế, nhưng con sẽ phải công nhận rằng, những chiếc xe hơi này tiện nghi hơn nhiều. Bởi vì lúc ở nhà con, bố đã lấy lại quyển sổ séc, và vì bố hiểu chắc rằng con không muốn nhận tài sản thừa kế từ bố, hãy để bố được quyền tự tay phung phí nó. Nếu con biết được số người đã dành cả đời họ để gom góp tiền bạc và mong có thể, như bố đây, tiêu tiền sau khi chết đi, đó là một sự xa xỉ phi thường khi người ta nghĩ đến! Nào, Julia, hãy dẹp bỏ giúp bố cái vẻ mặt u ám trên mặt con. Chỉ vài ngày nữa là con sẽ gặp lại anh chàng Adam của con và cậu ta sẽ càng tình tứ hơn khi con trở lại. Hãy tận hưởng trọn vẹn vài khoảnh khắc này với bố của con. Lần cuối cùng chúng ta đi du lịch cùng nhau là khi nào ấy nhỉ? 

- Hồi con bảy tuổi, mẹ vẫn còn sống và cả hai mẹ con con đã trải qua kỳ nghỉ quanh một bể bơi trong khi bố thì qua kỳ nghỉ trong phòng điện thoại của khách sạn để giải quyết việc làm ăn của mình, Julia đáp và bước xuống khỏi chiếc limousine vừa đỗ dọc theo vỉa hè. 

- Dù sao thì cũng không phải lỗi của bố nếu như lúc bấy giờ điện thoại di động còn chưa xuất hiện! Anthony Walsh kêu lên và mở cửa xe bên phía mình.

° ° °

Khu vực dành cho các chuyến bay quốc tế đầy ắp người. Anthony ngước mắt nhìn trời và đến nhập hội những hành khách đang rồng rắn xếp hàng cho tới tận bàn làm thủ tục đăng ký. Một khi đã nhận được thẻ vào sân bay, hạt vừng kiên cường thu được với cái giá là một sự chờ đợi liên miên, bài tập thực hành lại được nhắc lại, lần này là để qua cổng an ninh. 

- Hãy nhìn trạng thái kích động ở tất cả những con người này, sự bất tiện phá tan cả thú vui du lịch. Mà làm sao trách họ được, làm thế nào để chiến thắng tâm trạng sốt ruột khi họ bắt ta phải đứng như thế suốt hàng tiếng đồng hồ, người này thì với con cái họ trên tay, người khác thì với sức nặng tuổi tác đè trĩu trên đôi chân. Con có thực sự nghĩ rằng người phụ nữ trẻ đứng đằng trước bố con ta đã giấu chất nổ trong cái bình sữa bé xíu dành cho đứa trẻ sơ sinh của cô ta không? Thuốc nổ được chế dưới dạng mứt mơ và táo - đại hoàng! 

- Tin con đi, chuyện gì cũng có thể xảy ra! 

- Thôi nào, phải có chút lương tri chứ. Mà các quý ông hào hoa phong nhã người Anh chuyên ngồi rung đùi uống trà vào lúc nguy cấp biến đi đâu rồi nhỉ? 

- Dưới những quả bom chăng? Julia thì thào, phát ngượng lên vì Anthony nói quá to. Còn bố, bố không hề mất đi cái tính hay cự nự. Đồng thời, nếu con giải thích cho nhân viên an ninh rằng người đàn ông con đang du lịch cùng đây hoàn toàn không phải là bố con và trình bày chi tiết hoàn cảnh tế nhị của chúng ta, có lẽ anh ta sẽ được quyền đánh mất một chút lương tri, không phải thế sao? Bởi vì, con thì con đã từ bỏ lương tri của mình trong cái hòm bằng gỗ nằm chình ình giữa phòng khách nhà con rồi. 

Anthony nhún vai và tiến lên trước, đã đến lượt ông bước qua cổng an ninh. Julia nghĩ lại câu mình vừa nói và ngay lập tức gọi ông lại, để lộ trong giọng nói sự khẩn thiết bỗng chốc khiến cô hoạt bát hẳn lên. 

- Lại đây, cô nói, gần như phát hoảng. Chúng ta rời khỏi nơi này thôi, máy bay là một ý tưởng ngu xuẩn. Hãy thuê một chiếc xe, con sẽ cầm lái, sáu tiếng nữa chúng ta sẽ tới Montréal, và con hứa là dọc đường chúng ta sẽ nói chuyện. Ngồi trong xe, chúng ta sẽ nói thỏa thích hơn, không phải thế sao? 

- Xảy ra chuyện gì với con vậy, Julia của bố, chuyện gì khiến con sợ hãi đến thế? 

- Bố không hiểu à? Cô ghé vào tai ông nói thầm. Bố sẽ tự làm lộ mình trong vòng hai giây. Bố đang bị nhồi đầy những vi mạch điện tử, khi bố đi qua, những thiết bị dò tìm này sẽ rú ầm lên. Cảnh sát sẽ ập đến bắt giữ bố, lục soát người bố, chụp tia X bố từ đầu đến chân, và rồi họ sẽ tháo rời bố ra thành từng mảnh để hiểu làm thế nào mà chế tạo ra được một kỳ quan công nghệ như thế. 

Anthony mỉm cười và tiến một bước về phía viên sỹ quan phụ trách an ninh. Ông mở hộ chiếu của mình ra, giở một lá thư gài trong phần nắp trật của bìa hộ chiếu và chìa nó ra. 

Nhân viên thừa hành đọc lướt qua, gọi cho cấp trên của mình và mời Anthony Walsh vui lòng đứng sang bên. Trưởng trạm kiểm soát đến lượt mình tìm hiểu tài liệu rồi chuyển sang một thái độ rất mực cung kính. Anthony Walsh được dẫn riêng ra một chỗ, người ta rờ mó ông vô cùng lịch sự và người ta cho phép ông, ngay sau khi lục soát xong, được đi lại thoải mái. 

Julia phải tuân theo trình tự thủ tục bắt buộc đối với mọi hành khách khác. Người ta yêu cầu cô cởi giầy và thắt lưng quần jean. Người ta tịch thu của cô cái cặp tóc, được cho là quá dài và quá nhọn, một chiếc cắt móng tay bị để quên trong hộp đựng đồ trang điểm - đầu dũa móng tay gắn trong đó dài hơn hai centimet. Người giám sát còn quở mắng cô vì lỗi khinh suất. 

Những tấm biển với cỡ chữ khá to không nêu rõ danh sách những vật dụng bị cấm mang lên máy bay sao? Cô đánh liều trả lời rằng sẽ đơn giản hơn nếu niêm yết những thứ được phép mang theo, và nhân viên an ninh lấy giọng của một viên đội hỏi cô rằng có phải cô gặp rắc rối với quy định hiện hành không. Julia cam đoan với anh ta rằng không phải vậy, chuyến bay của cô sẽ cất cánh trong vòng bốn mươi lăm phút nữa, cô không đợi phản ứng của người đối thoại để lấy lại túi xách của mình và đi nhanh tới chỗ Anthony đang đứng quan sát cô từ xa, cái nhìn đầy vẻ giễu cợt. 

- Con có thể biết tại sao bố lại được đặc cách như vậy không? 

Anthony khua lá thư ông vẫn cầm trong tay và đưa cho con gái, vẻ thích thú. 

- Bố mang máy trợ tim ư? 

- Từ mười năm nay rồi, Julia ạ. 

- Tại sao? 

- Vì bố đã mắc chứng nhồi máu cơ tim, và tim của bố cần phải được hỗ trợ. 

- Chuyện xảy ra khi nào? 

- Nếu bố nói với con rằng chuyện xảy ra vào đúng ngày giỗ mẹ con, con sẽ lại buộc tội bố là đóng kịch. 

- Tại sao con chưa bao giờ biết chuyện này? 

- Có lẽ bởi con quá bận rộn để sống cuộc sống của riêng con chăng? 

- Chẳng ai báo cho con biết cả. 

- Còn phải biết gặp con ở đâu nữa chứ... Ồ, mà đừng dông dài về chuyện đó nữa! Những tháng đầu tiên, bố phát cáu vì phải mang theo một cái máy. Thế mà hôm nay bố buộc phải nghĩ rằng chính là một cái máy mang theo bố! Ta đi chứ? Chúng ta sẽ lỡ chuyến bay này mất thôi. Anthony Walsh vừa nói vừa tra bảng niêm yết giờ khởi hành. Ôi không, ông nói tiếp, họ thông báo rời lại một tiếng. Chỉ còn thiếu mỗi điều các chuyến bay đúng giờ nữa thôi. 

Julia tranh thủ quãng thời gian còn lại để đi xem xét tỉ mỉ các tầng giá của một kiot bán báo. Nép mình sau một giá bày, cô quan sát Anthony không để ông nhận ra. Ngồi trong phòng chờ, mắt nhìn hút theo đường băng cất cánh, ông đăm đăm nhìn về một nơi xa và lần đầu tiên, Julia có cảm giác thiếu vắng ông. Cô quay người lại để bấm số gọi Stanley. 

- Em đang ở sân bay, cô nói rất nhỏ vào máy. 

- Em sắp bay sao? Bạn cô hỏi lại bằng một giọng cũng chỉ vừa đủ nghe 

- Anh đang có khách trong tiệm à, em có làm phiền không? 

- Anh đang định hỏi em câu đó đây. 

- Ôi không, vì chính em gọi cho anh cơ mà, Julia đáp. 

- Vậy thì tại sao em lại thì thào? 

- Em không nhận thấy thế. 

- Em nên ghé qua thăm anh thường xuyên hơn, em mang lại may mắn cho anh đấy, anh bán được cái đồng hồ quả lắc thế kỷ XVIII chỉ một giờ sau khi em đi khỏi. Tính đến nay là tròn hai năm anh chưa tống khứ được nó. 

- Nếu quả thật nó có niên đại từ thế kỷ XVIII, nó đã chỉ nằm đó vài tháng thôi. 

- Nó cũng biết nói dối khéo lắm. Anh không biết em đang ở với ai và anh cũng không muốn biết chuyện đấy, nhưng đừng coi anh như một tên đần, anh ghê chuyện đó lắm. 

- Chuyện không phải như anh nghĩ đâu. 

- Nghĩ hay tin là vấn đề tôn giáo, em thân mến ạ. 

- Em sẽ nhớ anh, Stanley ạ. 

- Hãy thoải mái tận hưởng mấy ngày sắp tới; những chuyến đi tạo nên tuổi thanh xuân mà. 

Rồi anh gác máy, không để Julia có chút cơ may nào kịp nói lời cuối cùng. Khi cuộc gọi đã kết thúc, anh nhìn vào điện thoại và nói thêm: 

- Cứ việc đi du lịch với ai tùy thích, nhưng chớ phải lòng anh chàng Canada nào đó sẽ giữ em ở lại xứ sở của anh ta. Một ngày không có em thật dài, và anh đã bắt đầu bực mình rồi đây!



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
08/11/2011 22:11 # 8
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Lúc năm rưỡi chiều, chuyến bay American Airline 4742 hạ cánh xuống đường băng sân bay Pierre-Trudeau của Montréal. Họ qua trạm hải quan không gặp phải trở ngại nào. Một chiếc ô tô đang đợi sẵn. Đường thông thoáng, nửa giờ sau, họ đi ngang qua khu phố thương mại. Anthony chỉ một tòa tháp cao ốp kính. 


- Bố đã chứng kiến nó được xây nên, ông thở dài. Nó cùng tuổi với con đấy. 

- Sao bố lại kể con nghe chuyện này? 

- Bởi vì con đặc biệt quyến luyến thành phố này, bố để lại cho con một kỷ niệm ở đây. Một ngày nào đó, con sẽ dạo qua đây và con sẽ biết rằng bố con đã từng làm việc trong tòa cao ốc này vài tháng. Con phố này sẽ trở nên đặc biệt hơn trong mắt con. 

- Con sẽ ghi nhớ điều này, cô nói. 

- Con không hỏi bố làm gì trong đó sao? 

- Con đoán là công việc kinh doanh? 

- Ồ không; vào thời đó, bố đang bằng lòng trông coi một ki ốt nhỏ bán báo. Con không sinh ra với một chiếc thìa bạc trong miệng đâu. Chiếc thìa bạc sau này mới xuất hiện. 

- Bố bán báo lâu không? Julia hỏi, vẻ ngạc nhiên. 

- Một hôm, bố nảy ra ý bán kèm mấy món đồ uống nóng. Và từ đó, bố đã thực sự bắt đầu công việc kinh doanh! Anthony nói tiếp, mắt sáng long lanh. Mọi người ùa vào tòa nhà, lạnh cóng bởi gió rét ngay từ cuối thu và chỉ thở hổn hển vào mùa xuân. Con phải nhìn thấy họ đổ xô về phía những cốc cà phê, những cốc sô cô la nóng và trà mà bố bán cho họ ... gấp đôi giá ngoài chợ. 

- Rồi sau đó? 

- Sau đó, bố thêm vào thực đơn món sandwich. Mẹ con chuẩn bị bánh từ sáng sớm tinh mơ. Bếp của căn hộ nhà ta nhanh chóng biến thành một phòng thí nghiệm chính cống. 

- Bố và mẹ, hai người từng sống ở Montréal ấy ạ? 

- Bố mẹ sống với rau trộn, những lát giăm bông và giấy bọc giữ nhiệt vây xung quanh. Khi bố bắt đầu đưa ra dịch vụ giao bánh và đồ uống đến từng tầng của tòa tháp này cùng với tòa vừa được xây dựng bên cạnh, bố đã phải tuyển dụng nhân viên đầu tiên. 

- Ai thế ạ? 

- Mẹ con chứ ai! Mẹ trông ki ốt trong khi bố đi giao đồ ăn theo yêu cầu. Mẹ con đẹp đến nỗi các khách hàng đặt món đến bốn lần mỗi ngày, chỉ để được nhìn thấy bà. Thời ấy bố mẹ gặp nhiều chuyện vui lắm. Mỗi khách hàng có một thẻ riêng và mẹ con thì nhớ mặt từng người. Anh chàng kế toán của văn phòng số 1407, si mê mẹ con, những chiếc sandwich của anh ta luôn có đồ bày kèm nhiều gấp đôi; ông giám đốc nhân sự tầng muời một thường bị dành cho phần vét của lọ mù tạt, và những lá xà lách héo, mẹ con trông chừng ông ta rất sát. 

Họ đến trước cửa khách sạn. Người giữ hành lý đi cùng họ đến tận quầy tiếp tân. 

- Chúng tôi chưa đặt phòng trước, cô vừa nói vừa đưa hộ chiếu cho nhân viên lễ tân. 

Người đàn ông kiểm tra trên màn hình máy tính những phòng còn trống có ghi trên bảng tổng hợp. Anh ta gõ họ của khách hàng. 

- Có mà, hai vị có đặt một phòng, mà không phải phòng bất kỳ đâu nhé? 

Julia nhìn anh ta, ngạc nhiên, trong khi Anthony lùi lại vài bước. 

- Ông bà Walsh ... Coverman! nhân viên lễ tân kêu lên, và nếu tôi nhớ không nhầm thì các vị lưu lại với chúng tôi trọn tuần.

- Bố dám làm thế sao? Julia nói thầm với bố cô, người đang phô ra một vẻ ngây thơ nhất trần đời. 

Nhân viên lễ tân cứu nguy cho ông khi xen vào câu chuyện của họ. 

- Các vị đã đặt phòng hạng sang... rồi khi nhận thấy sự chênh lệch tuổi tác giữa ông và bà Walsh bèn nói thêm với giọng nói đã chuyển điệu: ... dành cho vợ chồng mới cưới. 

- Dù sao bố cũng có thể chọn một khách sạn khác cơ mà! Julia ghé vào tai bố cô. 

- Đây là một chương trình trọn gói mà! Anthony tự bào chữa. Chồng tương lai của con đã chọn một gói du lịch đầy đủ, vé máy bay cộng thêm chi phí lưu trú. Còn hơn thế nữa, ta xoay xở tốt, cậu ta đã từ chối chế độ bán lưu trú không kèm ăn trưa. Nhưng bố hứa với con là chuyện này không gây tốn kém chút nào cho cậu ta, chúng ta sẽ thanh toán hóa đơn bằng thẻ tín dụng của bố. Con là người thừa kế của bố, vậy thì chính con là người mời bố đấy! ông đùa. 

- Thật ra đó không phải chuyện làm cho con lo lắng! Julia hét lên. 

- Ra thế? Vậy là chuyện gì? 

- Phòng hạng sang ... dành cho vợ chồng mới cưới. 

- Không có gì phải lo cả, bố đã xác minh chỗ hãng lữ hành rồi, nó gồm có hai phòng ngủ nối với nhau bằng một phòng khách, ở tầng trên cùng. Bố hy vọng con không bị chóng mặt chứ? 

Và trong khi Julia mải trách móc bố cô, người thường trực của khách sạn đưa cho cô chiếc chìa khóa và chúc cô một kỳ nghỉ tuyệt vời... 

Người phụ trách hành lý dẫn họ về phía thang máy. Julia quay trở lại và nhảy xổ về phía nhân viên tiếp tân. 

- Hoàn toàn không phải như anh nghĩ đâu! Đây là bố tôi. 

- Nhưng tôi không nghĩ gì cả, thưa bà, anh này ngượng nghịu đáp. 

- Có đấy có đấy, anh có nghĩ, và anh nhầm rồi! 

- Thưa cô, tôi xin đảm bảo với cô rằng từ ngày vào nghề đến giờ tôi đã thấy đủ thứ chuyện rồi, anh ta vừa nói vừa nghiêng người qua quầy để không ai nghe lỏm được cuộc chuyện trò của họ. Tôi thạo nhất là khoản giữ mồm miệng mà, anh ta cam đoan bằng giọng muốn trấn an người khác! 

Và trong khi Julia sắp sửa phun ra một lời đối đáp sắc lẻm, Anthony túm lấy cánh tay cô và kéo cô ra xa khỏi quầy tiếp tân. 

- Con quá bận tâm đến chuyện người khác nghĩ gì đấy! 

- Chuyện này thì liên quan gì đến bố? 

- Con mất vào đó một chút tự do cùng rất nhiều óc hài hước của bản thân. Nào, người giữ hành lý đang giữ cửa thang máy và bố con ta không phải những người duy nhất muốn đi lại trong cái khách sạn này!

° ° °

Căn phòng đúng như mô tả của Anthony. Những khung cửa sổ của hai phòng ngủ, ngăn cách bởi một phòng khách nhỏ, trông ra thành phố cổ kính. Vừa đặt túi xách lên giường, Julia đã phải quay ra mở cửa. Một nhân viên phục vụ tầng đứng đợi đằng sau chiếc bàn đẩy bên trên có bày một chai sâm banh đựng trong xô, hai chiếc cốc cao và một gói giấy đựng sô cô la. 

- Cái gì đây? Julia hỏi. 

- Cùng với lời chúc của khách sạn, thưa bà, cậu nhân viên đáp. Dịch vụ của chúng tôi dành cho "vợ chồng trẻ mới cưới". 

Julia gườm gườm nhìn anh ta, giật lấy tấm thiệp chúc mừng đặt trên khăn trải bàn. Giám đốc khách sạn cảm ơn ông bà Walsh-Coverman đã chọn khách sạn của họ để hưởng tuần trăng mật. Toàn bộ nhân viên khách sạn sẵn sàng phục vụ hai người, để biến kỳ nghỉ này thành kỷ niệm không thể nào quên. Julia xé tan tấm thiệp, lịch sự đặt lại những mảnh giấy vụn lên cái bàn đẩy rồi đóng sập cửa phòng ngay trước mũi cậu nhân viên. 

- Nhưng thưa bà, những thứ này đã được tính vào tiền phòng rồi mà! cô nghe thấy gióng nói từ hành lang vọng vào. 

Cô không trả lời, những bánh xe đấy kêu rít lên về phía thang máy. Julia lại mở cửa ra, tự tin bước một bước về phía chàng trai trẻ, cầm lấy gói sô cô la rồi ngay lập tức quay trở lại. Cậu nhân viên giật nảy mình khi cánh cửa phòng 702 sập mạnh lần thứ hai. 

- Chuyện gì vậy? Anthony Walsh hỏi khi ra khỏi phòng ngủ của mình. 

- Không có gì ạ! Julia đáp, ngồi ghé lên bậu cửa sổ nơi phòng khách nhỏ. 

- Quang cảnh tuyệt đẹp, phải thế không? ông vừa nói vừa chăm chú quan sát con sông Saint-Laurent thấp thoáng từ đằng xa. Thời tiết đang dịu, con có muốn bố con ta đi dạo một vòng không? 

- Thà thế còn hơn ở lại đây! 

- Không phải bố chọn phòng này đâu nhé? Anthony trả lời và đặt một chiếc áo đan chui đầu lên vai con gái.

° ° °

Những đường phố của Montréal cổ kính, với những phiến gạch lát nằm chéo, đua tranh vẻ duyên dáng với những khu phố đẹp nhất của châu Âu. Cuộc dạo chơi của Anthony và Julia bắt đầu từ quảng trường Armes; Anthony Walsh tự giao cho mình nhiệm vụ phải kể cho con gái nghe về cuộc đời của ngài Maisonneuve, tượng ngài ngự giữa một cái bồn nhỏ. Cô ngắt lời ông bằng một cái ngáp và bỏ mặc ông trước công trình tưởng niệm người sáng lập ra thành phố, để lại gần xem xét một quầy kẹo rong đang đứng cách đó vài mét. 

Lát sau cô quay lại, giơ ra cho bố một gói đầy ắp kẹo mứt, ông từ chối lời mời "bĩu môi" như người Québec vẫn nói. Julia hết nhìn tượng Maisonneuve trên bệ lại nhìn sang bố cô, lại nhìn sang bức tượng bằng đồng thanh, rồi lắc đầu ra hiệu đồng tình. 

- Gì thế? Anthony hỏi. 

- Hai người thật xứng đôi, hai người rất hợp ý nhau. 

Rồi cô kéo ông về phía phố Notre-Dame. Anthony muốn dừng lại trước mặt tiền căn nhà số 130. Đây là ngôi nhà cổ nhất của thành phố, ông giải thích với con gái rằng luôn có một vài giáo sĩ thuộc giáo đoàn Thánh Sulpice từng một thời là những chúa đảo sống trong đó. 

Lại một cái ngáp của Julia đang rảo bước khi đi ngang qua nhà thờ kiểu basilia, sợ rằng bố cô sẽ vào bên trong. 

- Con không hình dung được cái mình bỏ lỡ đâu! ông hét với theo trong khi cô càng rảo bước hơn. Mái vòm cho thấy cả một bầu trời đầy sao, tuyệt đẹp! 

- Vậy sao, giờ thì con biết rồi! cô nói từ xa. 

- Mẹ con và bố đã làm lễ rửa tội cho con trong đó! Anthony gào lên. 

Julia lập tức dừng lại và quay về phía bố cô đang nhún vai. 

- Đi xem cái vòm trời sao của bố nào! cô đầu hàng, trí tò mò bị kích thích, leo lên những bậc thềm của nhà thờ Notre-Dame của Montréal. 

Cảnh tưởng do gian giữa nhà thờ đem lại quả thực rất đẹp. Được viền quanh bằng gỗ lát tường lộng lẫy, vòm và lối đi trung tâm dường như được rải bằng đá da trời. Thán phục, Julia tiến tới bệ thờ. 

- Con chưa từng hình dung được thứ gì lại đẹp đến vậy, cô thì thầm. 

- Con thấy bố đang vui vì điều đó đấy, Anthony đáp, vẻ đắc thắng. 

Ông dẫn cô đến nhà thờ nhỏ được cung hiến cho Thánh tâm. 

- Thật là bố mẹ đã làm lễ rửa tội con ở đây ạ? Julia hỏi. 

- Dĩ nhiên là không! Mẹ con là người vô thần, bà ấy sẽ không đời nào để bố làm vậy. 

- Thế tại sao bố nói với con câu ấy? 

- Bởi vì con chưa từng hình dung ra thứ gì đẹp đến thế! Anthony trả lời và quay trở phía những cánh cửa gỗ uy nghiêm. 

Nhìn quanh phố Saint-Jacques, trong giây lát Julia ngỡ như đang đứng ở mạn Nam Manhattan, bấy nhiêu mặt tiền màu trắng của những tòa nhà với hàng cột giống như những mặt tiền của Wall Street. Những cột đèn đường ở phố Sainte-Hélène vừa bật sáng. Cách đấy không xa, trong khi họ tiến vào một quảng trường có những lối đi và suýt ngã ngửa. Ông dùng tay ra hiệu trấn an Julia đang hối hả chạy về phía ông. 

- Không sao, ông nói, một lỗi khác, lần này là trong xương bánh chè đầu gối. 

Julia giúp ông ngồi xuống ghế. 

- Bố đau lắm à? 

- Than ôi, đã mấy ngày nay bố không còn biết đau đơn là gì nữa, ông vừa nói vừa nhăm mặt. Phải công nhận rằng chết cũng có vài điều lợi. 

- Đừng nói thế! Sao bố lại làm ra cái mặt ấy? Bố có vẻ đau thật mà. 

- Chương trình, bố cho là thế! Ai đó thấy khó chịu trong người mà lại không biểu lộ nét mặt đau đớn sẽ mất đi độ chân thực. 

- Thế được rồi! Con không muốn nghe tất cả những chi tiết ấy. Con không thể giúp gì sao? 

Anthony rút từ trong túi ra một cuốn sổ bìa đen rồi đưa nó cho Julia cùng với một cây bút. 

- Con có thể ghi lại rằng ngày thứ hai chân bên phải hình như lại giở quẻ như mọi khi. Chủ nhật tuần sau, con phải chú ý giao lại cho họ cuốn sổ này đấy. Điều này nhất định sẽ giúp cải tiến những mẫu mới trong tương lai. 

Julia không nói lời nào; ngay khi cô muốn ghi lại trên tờ giấy trắng câu mà bố cô đã yêu cầu, ngòi bút trong tay cô run lên. 

Anthony chăm chú quan sát con gái và gỡ cây bút khỏi tay cô. 

- Không hề gì. Con thấy đấy, bố có thể lại đi lại bình thường, ông nói và đứng dậy. Một chi tiết dị thường sẽ được tự khắc phục. Không cần báo lại. 

Một cỗ xe mui gập do ngựa kéo xuất hiện trên quảng trường Youville; Julia khẳng định đã luôn mơ ước thực hiện một chuyến đi dạo kiểu này. Vô vàn ngày đi dạo trong Công viên Trung tâm mà không dám nghĩ đến chuyện mơ ước thành hiện thực, đây là thời điểm lý tưởng. Cô vẫy người xà ích. Anthony nhìn cô, hốt hoảng, nhưng cô ra hiệu cho ông biết bây giờ không phải lúc để tranh cãi. Ông ngước mắt nhìn trời và leo lên cỗ xe. 

- Lố bịch, chúng ta trông thật lố bịch! ông thở dài. 

- Con cứ tưởng không cần phải bận tâm đến chuyện người khác nghĩ gì? 

- Phải rồi, rốt cuộc cũng chỉ đến một mức độ nào đó thôi! 

- Bố muốn hai chúng ta đi du lịch cùng nhau, sao nào, chúng ta đang du lịch cùng nhau đấy thôi! cô nói. 

Rụng rời, Anthony nhìn phần phía sau con vật đang đi từng bước kiệu nhỏ. 

- Xin báo để con hay, nếu bố nhìn thấy đuôi của loài thú da này phác lên dù chỉ một cử động là bố xuống xe đấy. 

- Ngựa không thuộc lớp thú da này! Julia chữa lại. 

- Với bộ mông như thế kia, cho phép bố được nghi ngờ chuyện đó!

° ° °

Cỗ xe ngựa dừng lại trên bến cảng cũ, trước quán cà phê của những người coi đập. Những hầm ủ hạt tươi rộng mênh mông trên bờ kè cối xay gió che khuất bờ sông phía đối diện. Đường cong đậm nét của chúng dường như nổi trên mặt nước để leo về phía đêm. 

- Đi nào, chúng ta rời khỏi đây thôi, Anthony nói, ủ dột. Bố chưa bao giờ thích những con quái vật bằng bê tông rạch toạc đường chân trời này. Bố không hiểu tại sao người ta còn chưa phá đi. 

- Con nghĩ chúng thuộc về một di sản, Julia đáp. Và chăng, có thể một ngày kia ta sẽ thấy ở chúng một vẻ đẹp nào đó. 

- Cái ngày ấy, bố sẽ không còn ở trên đời này để nhìn thấy chúng và bố có thể cá rằng cả con cũng vậy! 

Ông kéo con gái dọc theo lối đi dạo của khu cảng cũ. Cuộc dạo chơi tiếp tục qua những khoảng không gian xanh viền theo bờ sông Saint-Laurent. Julia đi trước ông vài bước. Một chú chim mòng biển cất cánh làm cô ngước đầu lên nhìn. Cơn gió nhẹ buổi tối vờn quanh một lọn tóc của cô. 

- Bố đang nhìn gì vậy? Julia hỏi bố. 

- Con chứ ai! 

- Và khi nhìn con bố nghĩ gì? 

- Nghĩ gì con rất xinh, con giống hệt mẹ con, ông đáp, mỉm cười. 

- Con đói! Julia thông báo. 

- Bố con ta sẽ chọn một cái bàn hợp với con, xa hơn chút nữa. Đoạn kè sông này đầy rẫy những nhà hàng nhỏ... toàn chỗ tồi tệ! 

- Nhà hàng nào là ghê rợn nhất, theo bố? 

- Con đừng lo, bố tin ở chúng ta; nếu cả hai cùng bắt tay tìm kiếm thì thế nào cũng ra! 

Dọc đường, Julia và Anthony lững thững dạo qua các cửa hiệu, qua điểm giao của bờ kè Événements. Bến tàu cũ nhô ra trên sông Saint-Laurent. 

- Người đàn ông đằng kia! Julia thốt lên, tay chỉ một bóng người đang len vào đám đông. 

- Người nào? 

- Gần ông bán kem ấy, người mặc áo vest đen, cô tả rõ. 

- Bố không thấy gì cả! 

Cô kéo cánh tay Anthony, buộc ông rảo bước. 

- Nhưng sao con nổi giận vô cớ vậy? 

- Đừng lề mề mất thì giờ nữa, chúng ta sẽ để mất dấu ông ta mất! 

Julia đột nhiên bị cuốn theo một đám đông khách tham quan đang tiến vào đê chắn sóng. 

- Nhưng rốt cuộc thì con làm sao vậy? Anthony càu nhàu vì khó khăn lắm mới theo được cô. 

- Đi nào, con sẽ giải thích sau! cô nằn nì nhưng không dừng lại đợi ông. 

Nhưng Anthony từ chối không bước thêm bước nào nữa, ông ngồi xuống một băng ghế và Julia bỏ ông lại đó, đi như chạy tìm kiếm người đàn ông bí hiểm dường như đang thu hút toàn bộ sự chú ý của cô. Lát sau cô trở lại, thất vọng. 

- Con để sổng ông ta rồi. 

- Con sẽ giải thích cho bố biết con đang chơi trò gì chứ? 

- Phía dưới đó, gần những người bán hàng rong. Con chắc chắn đã nhìn thấy người thư ký riêng của bố. 

- Thư ký của bố có vẻ bề ngoài chẳng mấy đặc biệt. Ông ta giống tất cả mọi người và tất cả mọi người đều giống ông ta. Con nhầm rồi, chuyện chỉ có thế. 

- Vậy thì tại sao bố dừng lại đột ngột như vậy? 

- Xương bánh chè của bố ..., Anthony Walsh đáp bằng giọng than vãn. 

- Con cứ nghĩ bố không thấy đau chứ! 

- Lại là cái chương trình ngớ ngẩn này. Vả lại, con hãy tỏ ra khoan dung một chút, bố không điều khiển được mọi việc, bố là một cỗ máy hết sức tinh vi ... Và dù Wallace có ở đây đi chăng nữa thì đó cũng là quyền của anh ta. Anh ta có toàn quyền sử dụng thời gian của mình, lúc này khi anh ta đã nghỉ hưu. 

- Có thể, nhưng dù sao đây cũng là một sự trùng hợp lạ thường. 

- Thế giới này quá nhỏ bé! Nhưng bố có thể khẳng định với con rằng con đã nhầm ông ta với ai đó khác. Không phải con đã nói với bố là con đói đó sao? 

- Julia giúp bố đứng dậy. 

- Bố tin là mọi chuyện đã trở lại bình thường rồi, ông khẳng định khi lắc lắc chân. Con xem, bố lại nhảy nhót được rồi. Bố con ta hãy dạo thêm mấy bước nữa trước khi ngồi vào bàn nhé.

° ° °

Ngay khi mùa xuân quay trở lại, những người bán hàng giả hiệu và đồ lưu niệm, đồ trang sức mĩ ký cho khách du lịch đủ loại liền dựng lại quầy bán hàng của họ dọc theo lối đi dạo. 

- Đi thôi, đến đằng kia, Anthony nói và kéo con gái đi về đê chắn sóng phía trước. 

- Con tưởng chúng ta đi ăn tối? 

Anthony để ý một thiếu phụ xinh đẹp đang ký họa khách qua đường bằng chì than với giá mười đô la. 

- Nét vẽ mới tuyệt làm sao! Anthony thốt lên khi ngắm nhìn tác phẩm của cô. 

Vài bức ký họa được treo trên một tấm lưới sắt phía đằng sau chứng thực cho tài năng của cô, và bức chân dung của một du khách cô đang hoàn thành ngay lúc ấy chỉ xác nhận thêm tài năng đó. Julia không chú ý chút nào đến cảnh tưởng. Khi sự thèm ăn đang mời gọi cô, không gì khác đáng kể nữa. Ở cô, cơn đói thường giống như một ham muốn mãnh liệt không thể cưỡng lại. Tốc độ xúc của cô luôn khiến những người đàn ông ngồi cạnh phải kinh ngạc. Dù đó là đồng nghiệp hay những người đã có dịp chia sẻ cùng cô một vài khoảnh khắc trong cuộc sống. Một hôm Adam đã thách thức cô trước một núi bánh kếp, Julia nhanh chóng ăn đến chiếc bánh thứ bảy, trong khi người đi cùng cô đã bỏ cuộc từ cái thứ năm, bắt đầu trải qua những giây phút đầu tiên của một chứng khó tiêu nhớ đời. Điều bất công nhất là đường nét cơ thể cô dường như không bao giờ chịu phình ra theo. 

- Ta đi chứ? cô nằn nì. 

- Chờ đã! Anthony đáp, ngồi vào chỗ người khách du lịch vừa rời khỏi. 

Julia ngước mắt nhìn trời. 

- Bố làm gì vậy? cô hỏi, vẻ sốt ruột. 

- Bố làm mẫu vẽ chân dung! Anthony đáp, giọng hồn nhiên. Và vừa quan sát nữ họa sĩ chuốt ngòi bút chì, ông vừa hỏi: chính diện hay nghiêng nhỉ? 

- Một bức chếch nhé? người phụ nữ trẻ đề xuất. 

- Trái hay phải? Anthony vừa hỏi vừa xoay người trên chiếc ghế gấp. Người ta bảo tôi rằng mặt nhìn nghiêng của tôi từ phía bên này trông sẽ lịch lãm hơn. Cô nghĩ sao? Cả con nữa, Julia, con thấy thế nào? 

- Chẳng thế nào cả! Tuyệt đối chẳng thế nào hết! cô vừa nói vừa xoay lưng lại phía ông. 

- Với cả đống kẹo dẻo con vừa ngốn ban nãy, dạ dày của con có thể đợi một chút xíu mà. Bố thậm chí không hiểu tại sao con vẫn còn đói được sau khi đã nhồi bằng ấy đồ ngọt. 

Nữ họa sĩ chân dung, vẻ mặt hiền hòa, mỉm cười với Julia. 

- Đây là bố tôi, chúng tôi đã không gặp nhau từ nhiều năm nay - quá bận rộn để quan tâm đến bản thân -, lần gần nhất chúng tôi cùng đi dạo như lúc này đây, ông đã đưa tôi đến vườn trẻ. Ông đã nối lại quan hệ kể từ giờ phút này đây! Đừng nhắc với ông rằng tôi đã quá ba mươi nhé, chuyện ấy sẽ khiến ông sốc đấy! 

Người phụ nữ trẻ đặt cây bút xuống và nhìn Julia. 

- Tôi sẽ làm hỏng bức ký họa mất nếu hai người tiếp tục làm tôi cười thế này. 

- Con thấy đấy, Anthony tiếp tục, con đang gây rối cho công việc của quý cô đây. Hãy đến xem những bức tranh đang treo ở kia, sẽ không lâu đâu. 

- Ông ấy hoàn toàn có cần bức tranh, ông ấy ngồi đó là bởi thấy chị đẹp thôi! Julia giải thích với nữ họa sĩ. 

Anthony ra hiệu cho con gái lại gần, như thể ông sẽ tiết lộ cho cô một điều bí mật. Mày mặt cau có, ông nghiêng người về phía ông. 

Theo con, ông ghé vào tai cô thì thầm, có bao nhiêu phụ nữ trẻ mơ ước được nhìn thấy bố mình ngồi làm mẫu chân dung ba ngày sau khi qua đời, bố hỏi con thế đấy? 

Không tìm được lý lẽ nào, Julia bỏ ra xa. 

Vẫn giữ nguyên tư thế, Anthony quan sát cô con gái trong khi cô ngắm những bức vẽ chưa tìm được người mua hoặc những bức nữ nghệ sĩ trẻ thực hiện tùy hứng, để luyện cọ. 

Rồi bỗng nhiên, nét mặt của Julia khựng lại. Mắt cô mở to, miệng cô hé ra như thể thiếu không khí để thở. Lẽ nào một bức họa chì than lại đủ phép thuật mở ra cả một ký ức như vậy? Gương mặt trong bức họa được treo trên một tấm lưới sắt ấy, lúm đồng tiền được phác ra phía chân cằm ấy, xương gò má hơi nhô cao ấy, ánh mắt cô đang nhìn thấy trên mặt giấy và nó dường như cũng đang nhìn lại cô ấy, vầng trán gần như trêu ngươi ấy, kéo cô về với bao năm trước, về phía biết bao những cảm xúc đã qua. 

Tomas đấy ư? cô ấp úng...



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
08/11/2011 22:11 # 9
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


... Julia tròn mười tám tuổi vào ngày đầu tiên của tháng Chín năm 1989. Và để mừng sinh nhật, cô đã rời bỏ trườngcollege nơi Anthony ghi danh cho cô, để tham dự một chương trình trao đổi quốc tế một lĩnh vực hoàn toàn khác với lĩnh vực bố cô đã chọn. Tiền tiết kiệm mấy năm vừa qua nhờ làm gia sư, mấy tháng trước nhờ làm người mẫu chui trong các phòng thực hành của khoa nghệ thuật hình họa, tiền ăn được của các bạn chơi trong vafi ván bài hăng say, phụ thêm vào suất học bổng rốt cuộc cô đã giành được. Phải nhờ đến sự tiếp tay của viên thư ký của Anthony Walsh thì Julia mới có thể giành được nó mà không bị ban chủ nhiệm khoa bác đơn khi xét đến khối tài sản của bố cô. Wallace đã miễn cưỡng và với rất nhiều câu kiểu như "Thưa cô, cô bảo tôi làm gì thế này, nếu bố cô biết chuyện", chấp nhận ký vào mẫu chứng thực rằng, từ lâu nay, chủ của ông không còn chu cấp cho các nhu cầu của con gái nữa. Và khi trình ra những giấy chứng nhận để làm việc, Julia đã thuyết phục được phòng tài vụ của trường đại học. 

Một tấm hộ chiếu lấy lại được trong chuyến thăm ngắn ngủi và huyên náo tại ngôi nhà bố cô đang sống trên Đại lộ Công viên, một tiếng sập cửa mạnh và Julia ngồi lên một chiếc xe bus chạy thẳng hướng sân bay JFK, hạ cánh xuống Paris lúc sáng sớm ngày mồng 6 tháng Mười năm 1989, 

Một căn phòng ký túc mà cô bất ngờ gặp lại. Chiếc bàn bằng gỗ kê sát cửa sổ, với quang cảnh độc nhất vô nhị hướng ra mái của Đài Thiên văn; chiếc ghế sắt tây, cây đèn sót lại từ thế kỷ trước; chiếc giường với những tấm trải hơi thô ráp, nhưng tỏa ra mùi thơm dễ chịu, hai cô bạn cùng tầng, tên họ vẫn bị cầm tù trong quá khứ. Đại lộ Saint-Michel cô vẫn thả bộ mỗi ngày để đến trường Mỹ thuật. Tiệm cà phê nằm ở góc đại lộ Arago và những người ngồi ở quầy vừa hút thuốc vừa uống thứ cà phê pha lẫn rượu cô nhắc vào buổi sáng. Giấc mơ độc lập của cô đã thành hiện thực và không một anh chàng ve vãn nào có thể phá rối được chuyện học của cô. Từ tối đến sáng rồi từ sáng tới tối, Julia vẽ. Cô đã ngồi thử gần như hết những băng ghế trong vườn hoa Luxembourg, dọc ngang khắp các lối đi, nằm dài trên những bãi cỏ có biển cấp giẫm lên, để quan sát trên đó dáng đi vụng về của những chú chim, những kẻ duy nhất được phép đặt chân lên cỏ. Tháng Mười trôi qua, và mở đầu của mùa thu đầu tiên của cô tại Paris đã bị bôi xóa trong những ngày đầu tiên âm u của tháng Mười một. 

Trong quán cà phê Arago, một tối như mọi tối khác, các sinh viên trường Sorbonne thảo luận hăng say về tình hình chiến sự tại Đức. Từ đầu tháng Chín, hàng nghìn người Đông Đức đã vượt biên giới với Hungary để cố vượt sang phía Tây. Hôm qua, một triệu người Đông Đức đã diễu hành biểu tình trên các đường phố Berlin. 

- Đúng là một sự kiện lịch sử! một người trong số họ kêu lên. 

Cậu ta là Antoine. 

Và một đống kỷ niệm sống lại trong ký ức của cô. 

- Phải đến đó thôi, một người đề xuất. 

Cậu này là Mathias. Em còn nhớ, cậu ta hút thuốc suốt ngày, nổi khùng vì chuyện không đâu, nói liên mồm và khi chẳng còn gì để nói, cậu ta hát lầm rầm. Em chưa từng gặp ai sợ sự yên lặng đến thế. 

Một nhóm người được hình thành. Một chiếc ô tô sẽ xuất phát ngay trong đêm đó, thẳng hướng biên giới với Đức. Thay phiên nhau cầm lái, họ sẽ đến Berlin tầm mười hai giờ trưa. 

Điều gì đã xui khiến Julia giơ tay giữa quán cà phê Arago vào tối hôm đó? Sức mạnh nào đã dẫn cô tới ngồi vào bàn của đám sinh viên Sorbonne? 

- Tôi có thể đi cùng các bạn không? Cô hỏi khi tiến lại gần họ. 

Em còn nhớ rõ từng từ một. 

- Tôi biết lái xe và tôi đã ngủ cả ngày hôm nay rồi. 

Em đã nói dối. 

- Tôi có thể lái xe hàng giờ liền. 

Antoine hỏi ý kiến cử tọa. Là Antoine hay Mathias nhỉ? Có quan trọng gì đâu bởi vì sự biểu quyết - gần như đa số - đã sát nhập cô vào sự nghiệp hào hùng sắp diễn ra. 

- Một cô gái người Mỹ, ta phải cho họ thấy điều này! Mathias thêm vào trong khi Antoine hãy còn lưỡng lự. 

Rồi anh vừa giơ tay vừa kết luận: 

- Ngày nào đó, khi trở về nước, cô ấy sẽ làm chứng cho thiện cảm của người Pháp đối với tất cả những cuộc cách mạng đang được tiến hành. 

Người ta dịch ghế ra, Julia đã ngồi giữa những người bạn mới. Một lát sau, họ ôm hôn nhau trên đại lộ Arago, những nụ hôn tặng cho những gương mặt mà cô không quen biết, nhưng vì cô tham gia vào chuyến đi cần phải nói lời tạm biệt với những người ở lại Paris. Cả nghìn kilomet phải vượt qua, không có thời gian để lần chần. Đêm ngày mồng 7 tháng Mười một ấy, khi ngược dòng sông Seine dọc theo bờ kè Bercy, Julia không một giây nào ngờ được rằng cô đang vĩnh biệt Paris và sẽ không bao giờ thấy lại mái của Đài Thiên văn từ khung cửa sổ phòng ký túc của mình nữa. 

Senlis, Compiègne, Amiens, Cambrai, bao nhiêu cái tên bí ẩn ghi trên những bảng chỉ đường lần lượt diễu qua trước mắt cô là chừng ấy thành phố còn xa lạ. 

Trước nửa đêm, họ cho xe chạy về hướng biên giới Bỉ, Julia bắt đầu cầm lái từ Valenciennes. 

Ở biên giới, các nhân viên hải quan ngạc nhiên vì tấm hộ chiếu Mỹ mà Julia xuất trình cho họ, nhưng tấm thẻ sinh viên đại học Mỹ thuật thay cho giấy thông hành và chuyến đi lại tiếp tục. 

Mathias hát không ngừng khiến Antoine phát cáu, nhưng em thì bắt đầu cố gắng nhớ lời bài hát mà không phải lúc nào em cũng hiểu được, và chuyện ấy giữ em tỉnh táo. 

Cái ý nghĩ ấy khiến Julia bật cười và những kỷ niệm khác dồn dập kéo đến. Điểm dừng chân đầu tiên tại bại đỗ dọc theo xa lộ. Sau khi đếm tiền đem theo; cả bọn đã chọn bánh mỳ que kèm vài lát giăm bông. Một chai Coca-Cola được mua để chào mừng cô, cuối cùng cô chỉ uống được một ngụm. 

Những người bạn đồng hành nói quá nhanh và nhiều câu cô không tài nào hiểu nổi. Chính cô, người cứ ngỡ rằng sáu năm học tiếng Pháp hầu như đã biến cô thành người thông thạo hai ngôn ngữ. Tại sao bố lại muốn em học thứ tiếng này nhỉ? Có phải để tưởng nhớ quãng thời gian vài tháng sống tại Montréal không? Nhưng đã phải tiếp tục lên đường rồi. 

Sau Mons, họ đã rẽ nhầm đường tại ngã tư La Louvière. Chuyến đi qua Bruxelles trở thành một cuộc phiêu lưu. Bên đó người ta cũng nói tiếng Pháp, nhưng với một ngữ điệu khiến cho tiếng Pháp trở nên dễ hiểu hơn đối với một người Mỹ ngay cả khi nhiều thành ngữ cô hoàn toàn chưa được biết. Và tại sao chuyện đó lại khiến Mathias cười nhiều đến vậy, khi một người qua đường lịch sự chỉ cho họ đường dẫn đến Liège. Antoine thực hiện lại những tính toán, phải đi vòng sẽ khiến họ mất hơn một giờ đường và Mathias năn nỉ họ hãy tăng tốc. Cuộc cách mạng sẽ không đợi họ. Một điểm mới trên bản đồ, quay trở lại ngay lập tức, đường phía Bắc sẽ quá dài, họ sẽ đi bằng đường phía Nam, theo hướng Düseldorf. 

Nhưng trước tiên phải vượt qua tỉnh Brabant thuộc vùng Flandré. Ở đây, tiếng Pháp bị xóa sổ. Xứ sở mới kỳ lạ làm sao, người ta nói ba thứ tiếng kahsc nhau đến thế với khoảng cách chỉ vài cây số! "Xứ sở của phim hoạt hình và sự hóm hỉnh" Mathias đã trả lời trong khi truyền đạt với Julia mệnh lệnh tăng tốc hơn nữa. Khi tới gần Liège, hai mí mắt cô trĩu xuống, và chiếc ô tô lạng đi một cách đáng lo ngại. 

Phải dừng lại trên làn đường dành cho trường hợp khẩn cấp để tĩnh tâm lại, lời quở trách của Antoine và cách ly ra băng ghế sau. 

Hình phạt không gây đau đớn, Julia không bao giờ nhớ được chuyến qua đồn biên phòng Tây Đức. Mathias, người có giấy thông hành ngoại giao nhờ có bố làm đại sứ, đã dỗ dành nhân viên hải quan để vào cái giờ muộn này người ta không đánh thức cô chị cùng cha khác mẹ của mình dậy. Cô ấy vừa đến từ châu Mỹ. 

Cảm thông, nhân viên hải quan bằng lòng xem xét những giấy tờ còn lại trong hộc đựng găng. 

Khi Julia lại mở mắt ra, họ đã tới Dortmund. Với sự nhất trí chỉ trừ một phiếu - vì người ta đâu có hỏi ý kiến cô -, một trạm dừng chân - bữa sáng trong một quán cà phê thích hợp - đã được bỏ phiếu thông qua. Đó là buổi sáng ngày mồng 8 tháng Mười một và là lần đầu tiên trong đời, Julia thức dậy trên lãnh thổ Đức. Hôm sau, thế giới mà cô hằng biết cho tới thời điểm đó sẽ hoàn toàn đảo lộn, cuốn cuộc đời thiếu nữ của cô vào một hành trình không định trước. 

Qua Bielefeld rồi, họ tiến gần đến Hanovre, Julia lại cầm lái. Antoine muốn phản đối, nhưng cả anh lẫn Mathias đều không còn đủ tỉnh táo để lái xe trong khi Berlin vẫn còn xa. Hai bạn đồng hành nhanh chóng ngủ thiếp đi và Julia rốt cuộc cũng tận hưởng được vài giây phút yên tĩnh ngắn ngủi. Lúc bấy giờ họ đã đến gần Helmstedt. Ở đây đường đi sẽ nguy hiểm hơn. Phía trước họ là những hàng rào dây thép gai ấn định biên giới của Đông Đức. Mathias mở hé một mắt và ra lệnh cho Julia nhanh chóng tấp vào vệ đường. 

Nhiệm vụ được phân công, Miathias phải cầm lái, Antoine ngồi đằng trước còn Julia xuống ngồi ghế sau. Hộ chiếu ngoại giao của anh sẽ là câu thần chú để thuyết phục các nhân viên hải quan để họ tiếp tục lên đường. "Tổng diễn tập" Mathias ra chỉ thị. Không hé một lời nào về mục đích thực sự của họ. Khi người ta hỏi họ mục đích chuyến đi đến RDA 1, Mathias sẽ đáp rằng anh đến thăm bố anh, nhà ngoại giao đang làm việc tại Berlin, Julia sẽ lợi dụng quốc tịch Mỹ của cô, bố cô cũng sẽ trở thành viên chức làm việc tại Berlin. "Thế còn tôi?" Antoine hỏi. "Còn cậu sẽ ngậm miệng lại?" Mathias đáp và lại cho xe khởi động. 

Bên phải, một cánh rừng lãnh sam rậm rạp viền theo con đường. Ở bìa rừng hiện ra những khối tối thẫm của đồn biên phòng. Khu vực này rộng đến mức trông giống như một nhà ga liên vận. Chiếc ô tô lách vào giữa hai xe tải. Một viên sĩ quan ra hiệu cho họ đổi làn đường. Mathias không còn mỉm cười nữa. 

Vượt qua các ngọn cây mất hút về phía xa, hai cây cột cổng có trang bị đèn chiếu mọc lên ở cả hai bên. Ngay bên dưới là bốn chòi canh. Một tấm biển ghi rõ "Marienborn, Border Check-point" nhô ra trên những cánh cổng có chăng lưới sắt đóng lại sau mỗi lần có một xe đi qua. 

Tại trạm kiểm soát đầu tiên, người ta buộc họ mở cốp xe. Người ta tiến hành lục soát túi đeo của Antoine và Mathias, và Julia nhận ra là cô không mang theo bất cứ đồ đạc nào cả. Mệnh lệnh mới là tiến lên, xa hơn một quãng; họ buộc phải đi qua một hành lang hai bên là những lán trại bằng tôn múi màu trắng, nơi những tấm thẻ căn cước đến lượt chúng sẽ được kiểm tra. Một sĩ quan lệnh cho Mathias tấp vào lề và đi theo anh ta. Antoine lẩm nhẩm rằng chuyến đi này là một hành động thuần túy điên rồ, rằng ngay từ đầu anh đã nói vậy và Mathias nhắc anh nhớ những quân lệnh đã được thông qua trước khi lại ngồi vào sau tay lái. Bằng ánh mắt, Julia hỏi anh điều anh chờ đợi ở cô. Mathias đã cầm hộ chiếu của bọn em, em vẫn còn nhớ như in. Cậu ấy đi theo nhân viên hải quan. Em cùng Antoine đã đợi cậu ấy và ngay cả khi không có ai khác ngoài bọn em dưới cái khung nhà bằng kim loại toát lên vẻ sầu thảm đó, bọn em cũng không hé nửa lời, tuân thủ quân lệnh từng li từng tí. Và rồi Mathias lại xuất hiện, một quân nhân đi theo cậu ấy. Người lính trẻ nhìn bọn em hết người này đến người kia. Anh ta trả lại ba tấm hộ chiếu cho Mathias và ra hiệu cho cậu ấy đi qua. Em chưa bao giờ thấy sợ như thế, chưa bao giờ cảm nhận cái thứ cảm giác xâm nhập này đang lẩn vào dưới da thịt và khiến ta lạnh thấu đến tận xương tủy. Chiếc ô tô chạy chầm chậm, cho tới trạm kiểm soát kế tiếp và một lần nữa dừng lại dưới một khung nhà sơ sài rộng mênh mông, nơi tất cả lại bắt đầu. Mathias lại đi về phía những lán trại khác và cuối cùng, khi cậu ấy quay lại với nụ cười trên môi, bọn em hiểu rằng lần này đường tới Berlin đã được thông suốt. Cấm không được rời xa lộ chừng nào chưa tới đích.

° ° °

Cơn gió nhẹ thổi trên lối đi dạo nơi bến cảng cũ của Montréal khiến Julia rùng mình. Nhưng mắt cô vẫn đóng đinh trên nét mặt người đàn ông được vẽ bằng chì than, một gương mặt hiện lên từ một thời đại khác, trên một tấm toan trắng hơn nhiều so với những tấm tôn múi của lán trại được dựng lên nơi biên giới chia cắt nước Đức ngày trước.

° ° °

Trong lúc đó em đang trên đường tiến về phía anh. Bọn em vẫn vô tư lự và anh vẫn còn sống. 

Mathias phải mất đến hơn một tiếng đồng hồ sau mới trở lại là người hay hát. Ngoại trừ vài chiếc xe tải, những phương tiện vận chuyển duy nhất mà họ đi ngược chiều hoặc vượt lên trước là những chiếc Trabant 2. Như thể dân chúng ở đất nước này muốn sở hữu cùng một loại ô tô, để không bao giờ đua tranh với ô tô của nước láng giềng. Ô tô của họ gây ấn tượng mạnh, chiếc Peugeor 504 lướt đi kiêu hãnh trên xa lộ của RDA; không một người lái xe nào là không nhìn nó với vẻ thán phục khi bị nó vượt lên trước. 

Tới Schermen, Theessen, Köpernitz, qua Magdeburg và cuối cùng là Postdam; Berlin chỉ còn cách năm mươi cây số. Antoine muốn là người cầm lái khi họ vào đến vùng ngoại ô, anh bày tỏ mong muốn đó chẳng khác nào ra lệnh. Julia cười phá lên, nhắc lại rằng chính những người đồng hương của cô đã giải phóng thành phố này cách đây đã gần bốn mươi lăm năm. 

- Và giờ họ vẫn ở đó! Antoine đáp ngay với giọng gay gắt. 

- Cùng với người Pháp các anh! Julia cũng xẵng giọng bẻ lại. 

- Hai người làm tôi phát ngán rồi đấy! Mathias kết luận. 

Và một lần nữa, họ câm lặng cho đến đường biên giới tiếp ở cửa ngõ của một hòn đảo nhỏ thuộc phía Tây lọt trong phần lãnh thổ Đông Đức; họ không nói lời nào, cho đến khi vào thành phố nơi Mathias đột nhiên hô lên: Ich Bin ein Berliner 3!

--------------------------------
1 Viết tắt của République Démocratique Allemande: Cộng hòa Dân chủ Đức.
2 Mẫu xe hơi cổ được chế tạo bởi hãng Zwickau, rất phổ biến tại Đông Đức trong nửa sau thế kỷ XX.
3 Tiếng Đức: Tôi là người Berlin.


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
08/11/2011 22:11 # 10
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Mọi tính toán ban đầu của họ đều tỏ ra sai lệch. Chiều ngày 8 tháng Mười một hầu như sắp kết thúc, nhưng không ai trong số họ bận tâm đến những chậm trễ tích tụ dọc đường đi. Họ kiệt sức, mà không màng đến nỗi mệt nhọc của bản thân. Trong thành phố, bầu không khí đầy phấn khích hiển hiện rõ ràng, họ cảm nhận được điều gì đó sắp diễn ra. Antoine đã nói đúng; bốn ngày trước, từ bên kia tấm màn sắt, một triệu người Đông Đức đã biểu tình đòi tự do. Bức tường, với hàng nghìn lính canh và chó cảnh sát tuần tra cả ngày lẫn đêm, đã chia rẽ những người yêu nhau, những người từng sống chung và những người đang mong mỏi mà không còn dám thực lòng tin vào giây phút rốt cuộc họ sẽ được đoàn tụ. Các gia đình, bạn bè hay đơn giản là hàng xóm láng giềng, bị cách ly bởi bốn mươi ba kilomet bê tông, hàng rào dây thép gai, chòi canh được dựng lên một cách tàn nhẫn trong một mùa hè sầu thảm đánh dấu cho bước khởi đầu của cuộc chiến tranh lạnh. 


Ngồi trong quán cà phê, ba người bạn nghe lỏm câu chuyện đang được bàn thảo xung quanh họ. Antoine tập trung hết sức, thử thách những kiến thức thu nhặt được ở những năm trung học để dịch song song cho Mathias và Julia nghe những lời bình luận của người dân Berlin. Một vài người thậm chí còn cho rằng những trạm lưu chuyển chắc chẳng mấy chốc sẽ được mở ra. Mọi sự đã thay đổi kể từ khi Gorbatchev sang thăm RDA hồi tháng Mười. Ghé qua uống vội một vại bia, một phóng viên của tờ nhật báo Tagesspiegel khẳng định rằng cả tòa báo của anh đang sục sôi. 

Những tít bài thông thường được ra can vào giờ này vẫn chưa được ấn định. Điều gì đó hệ trọng sắp diễn ra, anh ta không thể nói gì thêm. 

Khi đêm xuống, sự kiệt sức do chuyến đi mang lại đã thắng được họ. Julia không thể ngăn nổi những cái ngáp dài và một cơn nấc liên hồi xâm chiếm cô. Mathias cố làm tất cả những gì có thể, đầu tiên là dọa cho cô sợ, nhưng mưu đồ nào của anh cũng kết thúc bằng một tràng cười và cường độ những cú giật nảy lửa của Julia tăng gấp. Antoine cũng nhập cuộc. Phải bắt chước động tác của diễn viên nhào lộn, để uống một cốc nước trong tư thế trồng cây chuối và tay bắt chéo. Ngón khéo chắc chắn thành công, nhưng dẫu sao nó cũng vẫn không thành công và những cơn co thắt lại càng tiếp diễn nghiêm trọng hơn. Một vài khách hàng trong quán đề xuất những mẹo khác. Uống một hơi hết một lít nước sẽ giải quyết được cơn nấc, bịt mũi nhịn thở lâu nhất có thể, nằm dài ra đất và đầu gối áp chặt vào bụng. Mỗi người đưa ra ý kiến của riêng mình, cho tới khi một vị bác sĩ tử tế ngồi uống bia tại quầy khuyên Julia hãy nghỉ ngơi bằng thứ tiếng Anh gần như hoàn hảo. Quầng thâm hai bên mắt chứng tỏ cô đã mệt lử. Ngủ là liều thuốc công hiệu nhất. Ba người bạn bắt đầu kiếm một nhà trọ bình dân. 

Antoine hỏi họ có thể trọ ở đâu. Cơn mệt mỏi cũng không chừa anh ta, người phục vụ quán không bao giờ hiểu được điều anh muốn hỏi. Họ kiếm được hai phòng liền kề trong một khách sạn nhỏ. Hai cậu trai chung nhau một căn, Julia độc chiếm căn còn lại. Họ uể oải leo lên tầng tư và ngay sau khi chia tay nhau, mỗi người đều ngã vật xuống giường của mình, trừ Antoine ngủ qua đêm trên một chăn lông trải ngay dưới đất. Vừa vào đến phòng, Mathias đã nằm vắt ngang nệm và thiếp đi ngay.

° ° °

Nữ họa sĩ khó khăn lắm mới hoàn thành được bức ký họa. Cô đã ba lần phải nhắc nhở vị khách hàng của mình giữ nguyên tư thế, nhưng Anthony Walsh nghe cô với vẻ cực kỳ lơ đễnh. Trong khi người phụ nữ trẻ cố gắng nắm bắt vẻ mặt ông thì ông lại liên tục quay đầu ra sau để quan sát cô con gái. Phía xa, Julia chăm chú ngắm nhìn giá bày tranh của nữ họa sĩ. Cái nhìn lơ đễnh, cô dường như đã lạc vào một thế giới khác. Từ khi ông ngồi làm mẫu, cô không rời mắt khỏi bức tranh lấy một lần. Ông gọi cô nhưng cô không trả lời.

° ° °

Khi cả ba người họ gặp lại nhau trong đại sảnh của khách sạn nhỏ đã là gần mười hai giờ trưa ngày 9 tháng Mười một. Buổi chiều, họ khám phá thành phố. Vài giờ đồng hồ, Tomas ạ, chỉ vài giờ đồng hồ nữa thôi và em sẽ được gặp anh. 

Điểm đến đầu tiên là cột Chiến thắng. Mathias thấy nó hoành tráng hơn cột Chiến thắng ở quảng trường Vendôme, nhưng Antoine nhắc anh nhớ rằng sự so sánh kiểu này chẳng dẫn đến đâu cả. Julia hỏi hai người rằng có phải họ lúc nào cũng cãi cọ ầm ĩ như thế không và hai cậu trai nhìn cô vẻ rất ngạc nhiên, không hiểu ý cô muốn nói gì. Con phố buôn bán sầm uất của Ku'Damm là chặng tham quan thứ hai của nhóm bạn, họ cuốc bộ khắp cả trăm đường phố, thỉnh thoảng lại ngồi lên xe điện những khi Julia thực sự không thể đi thêm bước nào nữa. Giữa buổi chiều, họ đứng tĩnh tâm trước nhà thờ Souvenir vốn được dân Berlin đặt cho cái tên "răng sâu ruỗng" bởi một phần của tòa kiến trúc đã bị sập dưới làn bom đạn của cuộc chiến mới đây nhất, để lại cho chốn này một hình dáng đặc biệt rất xứng với biệt danh ấy. Người ta đã bảo tồn nó nguyên trạng, coi như đài tưởng niệm. 

Lúc sáu giờ rưỡi chiều, Julia và hai cậu bạn gặp nhau ở gần một công viên mà họ quyết định sẽ đi bộ xuyên qua. 

Một lát sau, người phát ngôn của chính phủ Đông Đức ra một tuyên bố sẽ biến đổi bộ mặt thế giới hay ít ra là đoạn cuối của thế kỷ XX. Người dân Đông Đức được phép ra ngoài, được tự do sang Tây Đức mà không một người lính nào ở các chốn kiểm soát suỵt chó cắn họ hay bắn vào người họ. Biết bao người đàn ông, đàn bà và trẻ em đã chết trong những năm chiến tranh lạnh sầu thảm này, khi cố vượt qua bức tường nhơ nhuốc ấy? Hàng trăm người đã bỏ mạng tại đó, bị hạ gục bởi những viên đạn của những kẻ nhiệt tình canh giữ họ. 

Người dân Berlin được tự do đi lại, đơn giản là như vậy. Lúc bấy giờ, một phóng viên hỏi người phát ngôn này khi nào biện pháp ấy có hiệu lực. Hiểu sai câu hỏi được đặt ra cho mình, người này đáp: Ngay bây giờ! 

Tám giờ tối, thông tin được phát đi trên tất cả các sóng truyền thanh và truyền hình của hai miền nước Đức lặp đi lặp lại không ngừng cái tin tức không thể nào tin được này. 

Hàng nghìn người Tây Đức đổ về các chốt chặn. Hàng nghìn người Đông Đức cũng hành động tương tự. Và, giữa đám đông ồ ạt đổ dồn về phía tự do, hai cậu trai người Pháp cùng một thiếu nữ người Mỹ để mình cuốn theo những đợt sóng ấy. 

Lúc mười rưỡi tối, ở miền Tây cũng như miền Đông, mọi người đều đi tới những trạm kiểm soát. Những người lính, bị những sự biến làm cho choáng ngợp, bị dồn đẩy bởi hàng nghìn con người đang khao khát tự do, đến lượt mình cũng đứng dưới chân bức tường. Trên Bornheimer Strasse những rào chắn đường bị dỡ bỏ, và nước Đức bước đi trên con đường dẫn tới sự thống nhất. 

Anh chạy khắp thành phố, ngang dọc khắp các con phố để tìm về phía tự do của mình, còn em, em đang đi về phía anh, không biết mà cũng chẳng hiểu sức mạnh nào đã thúc đẩy em tiến về phía trước. Chiến thắng này không phải của em, tổ quốc này không thuộc về em, những đại lộ này đối với em hoàn toàn xa lạ, thế nhưng, em mới chính là người lạ ở đây. Đến lượt em cũng chạy, chạy để thoát khỏi đám đông ngột ngạt này. Antoine và Mathias bảo vệ em; bọn em đã đi dọc theo cái tường rào bằng bê tông dài bất tận này, trên đó các họa sĩ của niềm hy vọng đã miệt mài tô màu vẽ sắc. Đã có vài đồng bào của anh cảm thấy không thể chịu thêm được những giờ đồng hồ chờ đợi cuối cùng này tại các chốt an ninh nên đã bắt đầu trèo qua nó. Từ bên này thế giới, bọn em rình đợi các anh. Phía bên phải em, vài người đã dang rộng vòng tay để đỡ khi các anh rơi xuống, bên trái em, những người khác leo lên những bờ vai vững chãi nhất để nhìn các anh chạy ào đến, vẫn còn bị cầm tù trong cái gọng kìm bằng sắt, tiến gần thêm vài mét nữa. Và tiếng hô của bọn em hòa lẫn với tiếng hô của các anh, để khích lệ các anh, để xóa đi nỗi sợ, để nói với các anh rằng còn có bọn em ở đây. Rồi bỗng nhiên, chính em, một cô gái Mỹ đã chạy trốn khỏi New York, một người con của xứ sở đã từng chiến đấu với tổ quốc của anh, giữa ngần ấy tình người được tìm lại, em trở thành người Đức; và trong sự ngây ngô của tuổi niên thiếu, đến lượt em cũng thì thầm Ich Bin ein Berliner, và em bật khóc. Em đã khóc hồi lâu, Tomas ạ...

° ° °

Tối nay, lẫn vào giữa một đám đông khác, giữa những du khách đang dạo bộ trên bến tàu của Montréal, Julia lại khóc. Những giọt nước mắt lăn dài trên má cô, trong khi cô ngắm nhìn gương mặt hiện lên qua nét chì. 

Anthony Walsh vẫn nhìn cô không rời mắt. Ông gọi cô lần nữa. 

- Julia? Con ổn chứ? 

Nhưng con gái ông đang ở quá xa để nghe thấy tiếng ông, như thể hai mươi năm trời đã chia cách họ.

° ° °

... Đám đông càng trở nên náo động. Tất cả đều rảo bước về phía bức tường. Một vài người bắt đầu đào bới nó với những dụng cụ tạm bợ, tuốc nơ vít, đá, gậy cuốc, dao nhíp, phương tiện không đáng kể, nhưng phải làm cho chướng ngại vật sập đổ. Thế rồi, cách em chỉ vài mét, điều khó tin đã xảy ra; một trong số những nghệ sĩ vi ô lông xen vĩ đại nhất thế giới có mặt tại Berlin. Được báo về sự biến đang diễn ra, ông ta đến nhập hội với bọn em, với các anh. Ông ấy mang đàn ra và bắt đầu chơi. Vẫn là đêm hôm ấy hay là sáng hôm sau nhỉ? Chẳng hề chi, những nốt nhạc của ông cũng đã chọc thủng bức tường. Những nốt fa, nốt la, nốt si, một giai điệu du dương bay tìm về phía các anh, chừng ấy sải trên đó phảng phất bầu không khí tự do. Em không còn là người duy nhất òa khóc nữa, anh biết đấy. Đêm đó em đã nhìn thấy rất nhiều nước mắt. Nước mắt của người mẹ và đứa con gái đang ôm nhau thật chặt, quá xúc động vì cuộc hội ngộ sau hai mươi tám năm ròng bặt vô âm tín, không được chạm vào nhau, không được cảm nhận làn hơi của nhau. Em đã chứng kiến những ông bố tóc bạc trắng ngỡ như nhận ra con trai họ giữa hàng nghìn người khác. Em đã chứng kiến những người dân Berlinấy, chỉ những giọt nước mắt mới có thể giải thoát họ khỏi nỗi đau chồng chất. Thế rồi bỗng nhiên, giữa tất cả mọi thứ, em nhìn thấy khuôn mặt anh hiện ra, phía cao trên bức tường, gương mặt anh xám xịt vì bụi, và đôi mắt anh. Vậy nên anh là người đầu tiên mà em nhìn thấy, anh một chàng trai Đông Đức, và em là cô gái miền Tây đầu tiên anh gặp.

° ° °

- Julia! Anthony Walsh hét lên. 

Cô chậm rãi quay về phía ông, không thốt lên nổi một lời, rồi lại quay sang nhìn bức tranh.

° ° °

Anh giữ nguyên tư thế cheo leo ấy hàng phút dài, ánh mắt ta ngây dại không thể rời nhau. Anh có thế giới mới này đang dâng tặng cho anh mọi thứ, và anh nhìn em chăm chú, như thể ánh mắt của chúng ta được nối với nhau bằng một sợi dây néo căng và vô hình. Em khóc như một cô ngốc còn anh thì mỉm cười với em. Anh trèo qua tường và nhảy xuống, em làm như những người khác và em dang rộng vòng tay ra với anh. Anh ngã lên em, cả hai ta đã ngã lăn ra mặt đất mà anh chưa bao giờ đặt chân đến. Anh xin em thứ lỗi bằng tiếng Đức còn em đáp trả anh bằng câu chào tiếng Anh. Anh đứng thẳng dậy rồi phủi bụi trên vai em, như thể trước giờ anh vẫn luôn làm thế. Anh nói với em vài từ mà em chẳng hiểu được chút nào. Thế nên thỉnh thoảng anh lại lắc lắc đầu. Em bật cười, vì trông anh rất ngộ mà em thì còn ngộ hơn cả anh. Anh giơ tay ra và anh phát âm rõ ràng cái tên mà rồi đây em sẽ gọi biết bao lần, cái tên mà bấy lâu nay em không còn gọi nữa. Tomas.

° ° °

Trên bờ kè, một người phụ nữ xô vào cô, không buồn dừng lại. Julia không mảy may để ý đến bà ta. Một người bán đồ trang sức vội phe phẩy trước mặt cô một chuỗi hạt bằng gỗ sáng màu, cô chậm rãi lắc đầu, không để lọt vào tai bất cứ lời chào mời nào đang tuôn ra từ miệng ông ta như người ta nguyện kinh. Anthony đưa mười đô la cho nữ họa sĩ rồi đứng dậy. Cô đưa ông xem tác phẩm vừa hoàn thành, nét mặt diễn tả chính xác, bức tranh giống nguyên mẫu như lột. Hài lòng, ông lại thò tay vào túi và trả gấp đôi giá ban đầu. Ông tiến vài bước về phía Julia. 

- Từ mười phút nay con ngắm cái gì mà chăm chú vậy?

° ° °

Tomas, Tomas, Tomas, em đã quên cái cảm giác dễ chịu khi gọi tên anh. Em đã quên giọng nói của anh, hai lúm đồng tiền của anh, nụ cười của anh, cho đến khi nhìn thấy bức tranh này, nó giống anh và nhắc em nhớ đến anh. Em những mong anh không bao giờ đi đưa tin về cuộc chiến tranh này. Giá như em biết được, cái ngày anh nói với em rằng anh muốn trở thành phóng viên, giá như em biết được mọi chuyện sẽ kết thúc ra sao, em hẳn đã nói với anh rằng đó là một ý tưởng tồi. 

Anh sẽ đáp rằng cái nghề mang lại sự thật về thế giới không thể là một nghề tồi, ngay cả khi nội dung bức ảnh là sự bạo tàn, nhất là khi nó gây xúc cảm. Bằng một giọng lúc này đã trở nên trịnh trọng, anh hẳn sẽ thốt lên rằng nếu như giới báo chí biết được sự thật ở bên kia bức tường, các nhà cầm quyền ở nước chúng em sẽ đến để phá bỏ nó từ lâu rồi. Nhưng họ biết chứ, Tomas, họ biết số phận của từng người trong các anh, họ lấy việc dò xét chúng làm thú tiêu khiển; các nhà cầm quyền ở nước bọn em không có được cái dũng khí đó, và em nghe thấy anh nói với em rằng cần phải được lớn lên như em đã lớn lên, trong những thành phố nơi người ta có thể nghĩ mọi chuyện, nói mọi chuyện mà không phải e sợ gì thì mới không chấp nhận mạo hiểm. Chúng ta đã tranh luận cả đêm cho đến sáng, và cả ngày tiếp theo. Giá như anh biết em nhớ những cuộc tranh luận của chúng ta đến thế nào, Tomas. 

Vì không đủ lý lẽ nên em đã phải đầu hàng, như em đã đầu hàng vào cái ngày em ra đi. Làm sao ngăn được anh, người thiếu thốn tự do đến thế? Anh nói đúng, Tomas ạ, anh đã theo đuổi một trong những nghề đẹp nhất đời. Anh đã gặp Massoud 1 chưa nhỉ? Bây giờ khi cả hai đều đã ở trên trời; ông ta rốt cuộc đã đồng ý cho phỏng vấn chưa, cuộc phỏng vấn có bõ công sức không anh? Ông ta qua đời sau anh chỉ vài năm. Có đến hàng nghìn người viếng ông ấy trong thung lũng Panchir 2, trong khi không ai có thể tập hợp những mảnh còn sót lại của thi hài anh. Cuộc đời em sẽ ra sao nếu quả mìn đó không hất tung đoàn xe chở anh, nếu em không sợ hãi, nếu em không bỏ mặc anh trước đó một thời gian?

° ° °

Anthony đặt tay mình lên vai Julia. 

- Con đang nói chuyện với ai vậy? 

- Không ạ, cô giật nảy mình và đáp. 

- Con giống như bị ám ảnh bởi bức tranh này và môi con đang run lên. 

- Cứ mặc con, cô thì thầm.

° ° °

Đã có một thời điểm bối rối, một khoảnh khắc khó xử. Em đã giới thiệu anh làm quen với Antoine và Mathias và nhấn mạnh quá đáng vào chữ "bạn", đến mức em đã nhắc đi nhắc lại nó tới sáu lần để anh nghe thấy. Làm thế thật ngu ngốc, lúc bấy giờ tiếng Anh không phải sở trường của anh. Có thể anh đã hiểu, anh mỉm cười và ôm hôn họ. Mathias ôm anh trong vòng tay và chúc mừng anh. Antoine bằng lòng với một cái bắt tay, nhưng cậu ấy cũng cảm động không kém bạn mình. Bốn người chúng ta cùng đi trong thành phố. Anh tìm kiếm ai đó, em cứ ngỡ đó là một phụ nữ, hóa ra đó là cậu bạn ngày bé của anh. Bởi vì người bạn ấy đã cùng gia đình vượt qua bức tường từ mười năm trước, kể từ đó anh không gặp lại cậu ta. Nhưng làm sao tìm lại được một người bạn trong số hàng nghìn người đang ôm hôn nhau, đang hát, đang uống và nhảy múa giữa các đường phố này? Anh đã nói, thế giới này rộng lớn, tình bạn thì bao la. Em không rõ liệu là do âm điệu của anh hay sự ngây ngô trong câu nói của anh, nhưng Antoine coi thường anh; còn em thì thấy câu châm ngôn của anh rất thú vị. Phải chăng cuộc đời vốn luôn đầy đọa anh đã giữ lại ở anh những giấc mơ thơ ấu mà ở bọn em sự tự do đã dập tắt chúng? Bọn em đã quyết định giúp đỡ anh và đã cùng nhau chạy đôn chạy đáo khắp các đường phố Tây Berlin. Anh bước đi quả quyết như thể lâu nay hai người bọn anh đã hẹn gặp nhau ở đâu đó rồi. Dọc đường, anh để ý nhìn từng gương mặt, xô đẩy những khách qua đường, quay lại nhìn liên tục. Mặt trời còn chưa mọc khi Antoine dừng lại giữa một quảng trường và kêu lên "Nhưng ít ra chúng tôi cũng có thể biết tên của cái gã mình đã tìm kiếm hàng giờ qua như những gã đần chứ?" Anh không hiểu câu hỏi của cậu ấy, Antoine còn kêu to hơn "tên, Name, Vorname!" Anh nổi khùng, và anh đáp trả bằng cách gào lên "Knapp!". Đó là tên người bạn anh đang tìm kiếm. Thế là Antoine, đã giúp anh hiểu rằng anh ấy không phải bực với anh, đến lượt mình cũng gào toáng lên "Knapp! Knapp!". 

Phá lên cười ngặt nghẽo, Mathias cũng nhập hội với cậu ấy và em cũng hét lên "Knapp, Knapp". Anh ngó bọn em, như thể bọn em đã phát điên rồi đến lượt anh cũng cười phá lên, đến lượt anh cũng nhắc lại "Knapp, Knapp". Bọn mình gần như nhảy nhót, miệng hát đến váng óc tên của người bạn mà anh tìm kiếm từ mười năm nay. 

Giữa đám đông khổng lồ này, một gương mặt quay lại nhìn. Em đã thấy ánh mắt các anh giao nhau, một người đàn ông trạc tuổi anh đang nhìn anh chăm chú. Em gần như ghen tị vì điều đó. 

Như hai con sói bị sẻ bầy rồi gặp lại nhau ở khúc quanh của một khu rừng, các anh cứ đứng sững ra như như vậy mà nhìn nhau. Thế rồi Knapp gọi tên anh. "Tomas phải không?" Bóng của hai người đổ xuống đường phố Tây Berlin trông thật đẹp. Anh ghì siết người bạn trong vòng tay. Niềm vui hiện lên trên gương mặt các anh thật tuyệt vời. Antoine bật khóc, Mathias dỗ dành cậu ấy. Nếu như họ đã chia cắt lâu đến thế, niềm hạnh phúc được đoàn tụ ở nơi họ cũng sẽ giống như vậy, Mathias cam đoan với Antoine thế. Antoine càng khóc nức lên rồi nói với Mathias rằng không thể có chuyện đó được, bởi lẽ họ chưa quen nhau được lâu đến thế. Anh gục đầu lên vai bạn thân nhất của mình. Anh thấy em đang nhìn đăm đắm, lập tức anh đứng thẳng dậy và nhắc lại với em "Thế giới rộng lớn, nhưng tình bạn thì bao la", và Antoine không thể nín khóc được. 

Chúng ta đã ngồi ở sân hiên của một quán bar. Cái lạnh cào cấu trên má nhưng chúng ta không đếm xỉa gì đến nó. Knapp và anh ngồi hơi tách ra một chút. Mười năm trong đời phải bắt kịp, điều này đòi hỏi nhiều từ ngữ, đôi khi là những khoảng lặng. Cả đêm chúng ta không rời nhau, ngày hôm sau cũng vậy. Sáng hôm sau, anh đã giải thích với Knapp là anh cần phải lên đường. Anh không thể nán lại lâu hơn nữa. Bà anh vẫn đang sống ở bên kia. Anh không thể bỏ bà lại một mình, anh là chỗ dựa duy nhất của bà. Mùa đông năm ấy bà đã tròn trăm tuổi, em hy vọng bà cũng đã gặp lại anh trên đó, nơi lúc này anh đang sống. Em yêu quý bà anh vô cùng! Bà quá đẹp khi tết mái tóc dài bạc trắng của bà trước khi đến gõ cửa phòng chúng ta. Anh đã hứa với bạn là sẽ sớm quay lại, nếu mọi việc không trở lại như trước kia. Knapp trấn an anh rằng những cánh cổng sẽ không bao giờ đóng lại nữa và anh đã đáp "Có lẽ vậy, nhưng nếu bọn mình phải đợi mười năm có lẻ mới gặp lại nhau lần nữa thì tớ sẽ vẫn nghĩ đến cậu mỗi ngày". 

Anh đứng dậy và anh cảm ơn bọn em vì món quà bọn em đã tặng cho anh. Bọn em có làm được gì đâu, nhưng Mathias bảo anh rằng có gì đâu, rằng cậu ấy rất vui vì đã tỏ ra có ích; Antoine đề nghị bọn em sẽ đi cùng anh đến chốt thông hành giữa Tây và Đông. 

Chúng ta lại lên đường; chúng ta đi theo tất cả những người, giống như anh, đang quay trở về nhà, bởi lẽ, dù có cách mạng hay không, gia đình họ và căn nhà của họ vẫn đang ở nửa kia của thành phố. 

Dọc đường đi anh đã nắm tay em trong tay anh, em để anh làm thế và chúng ta tay trong tay đi như thế hàng cây số.

° ° °

- Julia, con đang rùng mình và con đến nhiễm lạnh mất. Giờ thì chúng ta về đi thôi. Ta có thể mua bức tranh ấy nếu con muốn, rồi con ngồi ngắm nó bao lâu tùy thích, nhưng chọn chỗ nào ấm áp ấy. 

- Không, nó là vô giá, phải để nó lại đây. Vài phút nữa thôi, bố làm ơn, rồi chúng ta sẽ đi.

° ° °

Từ bên này và bên kia chốt kiểm soát, một vài người vẫn miệt mài đào bới bức tường bê tông. Đến đây thì phải chào tạm biệt nhau. Anh tạm biệt Knapp trước tiên. "Hãy gọi cho tớ nhanh nhé, ngay khi có thể", anh ấy nói thêm và đưa cho anh tấm danh thiếp. Phải chăng vì anh ấy là nhà báo nên anh cũng muốn làm nghề ấy? Phải chăng đó là lời hứa giữa hai người ngày còn thơ ấu? Em đã hỏi anh câu ấy đến trăm lần, và lần nào anh cũng lẩn tránh không trả lời, gửi đến em một trong những cái cười nửa miệng anh vẫn dành cho em mỗi khi em làm anh phát bực. Anh bắt tay Antoine và Mathias rồi anh quay sang em. 

Tomas ạ, giá như anh biết rằng ngày hôm ấy em đã lo sợ thé nào, sợ không bao giờ biết được làn môi anh. Anh đã bước vào đời em như hè sang, không báo trước, với những tia sáng người ta thường gặp vào mỗi buổi bình minh. Anh đã áp tay lên má em, những ngón tay anh vuốt dọc theo khuôn mặt em và anh đặt trên mỗi mi mắt em một nụ hôn. "Cảm ơn." Đó là từ duy nhât anh nói trong khi anh đã đi xa mất rồi. Knapp nhìn chúng ta, em đã bắt gặp ánh mắt của anh ấy. Như thể anh ấy ngóng đợi một lời từ em, vài từ lẽ ra anh ấy đã có thể tìm ra để vĩnh viễn xóa đi những năm tháng đã ngăn cách hai người. Những năm tháng ấy đã sắp đặt cuộc sống của các anh theo hai cách hoàn toàn khác biệt; anh ấy quay về với tờ báo của mình còn anh quay lại miền Đông. 

Em đã hét lên "Dẫn em theo với! Em muốn biết người bà khiến anh lại ra đi", và em không đợi anh trả lời; em lại nắm tay anh và cam đoan rằng phải hợp toàn bộ sức mạnh trên thế gian này thì ai đó mới có thể gỡ tay em ra được. Knapp nhún vai và trước vẻ sửng sốt của anh, anh ấy nói: "Giờ thì đường thông rồi, hãy trở lại lúc nào tùy thích!". 

Antoine những muốn ngăn em, theo cậu ấy thì đây là một hành động điên rồ. Có thể lắm, nhưng em chưa từng cảm nhận một cơn cuồng dại nào như vậy. Mathias huých khuỷu tay cậu ấy, cậu ấy đang xen vào chuyện gì cơ chứ? Cậu ấy chạy về phía em và ôm lấy em. "Khi nào quay về Paris nhớ gọi cho bọn tớ nhé," cậu ấy vừa nói vừa viết vội cho em số điện thoại của mình vào một mẩu giấy. Đến lượt mình, em cũng ôm cả hai người bọn họ, rồi chúng ta đi. Từ đó đến giờ em chưa từng trở lại Paris, Tomas ạ. 

Em đã theo anh; buổi sáng sớm ngày 11 tháng Mười một ấy, tranh thủ sự hỗn loạn đang ngự trị, chúng ta đã qua biên giới lần nữa và buổi sáng hôm đó em có lẽ là nữ sinh viên Mỹ đầu tiên bước sang lãnh thổ Đông Đức, và nếu không phải thế đi nữa thì em vẫn là người hạnh phúc nhất. 

Anh biết đấy, em vẫn giữ lời hứa. Anh còn nhớ quán cà phê tồi tàn đó, nơi anh đã cam đoan với em rằng, nếu một ngày nào đó số phận lại chia cắt chúng ta, em phải sống hạnh phúc bằng bất cứ giá nào không? Em biết rõ là anh nói điều này bởi đôi khi cái cách em yêu anh khiến anh nghẹt thở, bởi anh đã phải chịu cảnh thiếu thốn tự do quá lâu để chấp nhận cho em gắn kết đời em với đời anh. Và ngay cả khi em ghét anh vì đã làm hoen ố hạnh phúc của em bằng điều tồi tệ nhất thì em vẫn giữ lời đã hứa. 

Cuối cùng thì em cũng sắp kết hôn, Tomas ạ, em lẽ ra đã kết hôn vào thứ Bảy tuần rồi, đám cưới đã bị hoãn lại. Đó là một câu chuyện dài, nhưng chính nó đã dẫn em tới đây. Có lẽ là bởi em cần phải thấy lại gương mặt anh lần cuối. Ở nơi xa ấy anh hãy ôm hôn bà giúp em.

° ° °

- Tình huống này thật nực cười, Julia ạ. Nếu con tự thấy được bộ dạng mình, trông hệt như bố con lúc bị đơ pin ấy! Con đứng bất động ở đó từ hơn mười lăm phút rồi, và con nói lầm rầm... 

Thay cho câu trả lời, Julia lánh ra chỗ khác. Anthony Walsh rảo bước để bắt kịp cô. 

- Sau cùng bố có thể biết đã xảy ra chuyện gì được chứ? Ông cố nài khi đã sóng bước bên cô. 

Nhưng Julia vẫn chìm đắm trong im lặng. 

- Xem này, ông nói tiếp và chìa bức chân dung ra cho con gái, giống kinh khủng. Cầm đi, cho con đấy, ông vui vẻ nói thêm.

Julia phớt lờ ông và tiếp tục đi về phía khách sạn. 

- Được, bố sẽ tặng nó cho con sau vậy! Có vẻ như bây giờ không phải lúc thích hợp. 

Và vì Julia vẫn không nói gì, Anthony Walsh thêm luôn: 

- Tại sao bức tranh con ngắm hết sức chăm chú ấy lại gợi cho bố nhớ lại điều gì đó nhỉ? Bố cho là điều này không phải là không liên quan đến thái độ khác lạ của con, khi ở dưới đê chắn sóng đằng kia. Bố không biết nữa, nhưng trên gương mặt ấy có nét gì đó rất quen. 

- Bởi vì nắm đấm của bố đã giáng xuống khuôn mặt đang được nhắc đến, cái ngày bố đến Berlin tìm con ấy. Bởi đó là khuôn mặt của người đàn ông con yêu khi mới mười tám tuổi và bố đã tách con khỏi anh ấy khi bố ép con phải về New York cùng bố!

--------------------------------
1 Ahmed Chah Massoud (1953-2001): chỉ huy Liên minh miền Bắc Afghanistan và thủ lĩnh Quân đội Hồi giáo, đội quân đã chiến đấu chống lại sự chiếm đóng của Quân đội Xô Viết và sau đó là chế độ Taliban từ năm 1996 đến 2001.
2 Một địa danh nằm ở Đông Bắc Afghanistan.


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
15/11/2011 21:11 # 11
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Nhà hàng gần như đã kín chỗ. Một nam nhân viên phục vụ tận tâm đã đem ra cho họ hai ly sâm banh. Anthony không đụng đến ly của mình, Julia uống cạn một hơi phần rượu của mình trước khi quay sang uống nốt ly rượu của bố và ra hiệu cho anh bồi rót thêm. Thậm chí trước cả khi người ta đem thực đơn ra cho họ, cô đã chuếnh choáng hơi men rồi. 


- Con nên dừng lại ở đó thôi, Anthony khuyên khi thấy cô gọi đến ly rượu thứ tư. 

- Tại sao? Vang nhiều bọt lắm và có vị rất tuyệt! 

- Con say rồi. 

- Chưa đâu, cô nói và cười khẩy. 

- Con nên cố gắng uống ít hơn một chút. Con muốn làm hỏng bữa tối đầu tiên của hai bố con ta ư? Con không cần phải làm cho mình ốm đâu, chỉ cần nói con muốn về là đủ. 

- Làm gì có chuyện đó! Con đói đấy chứ! 

- Nếu muốn con có thể gọi một khay đồ ăn phục vụ tại phòng cơ mà. 

- Câu này cũng vậy, con cho rằng con thực sự không còn ở tuổi để nghe những loại câu ấy. 

- Ranh con, con hoàn toàn có cùng cái cách cư xử khi con cố khiêu khích bố. Và con có lý, Julia ạ, chúng ta không còn ở cái tuổi để diễn cái trò ấy nữa, cả con lẫn bố. 

- Nghĩ đi nghĩ lại, đó là lựa chọn duy nhất mà bố đã không quyết định thay con! 

- Việc gì thế? 

- Tomas! 

- Không, anh ta là quyết định đầu tiên, sau đó con đã đưa ra nhiều lựa chọn khác, nếu con còn nhớ được. 

- Bố đã luôn muốn kiểm soát đời con. 

- Đó là căn bệnh rất nhiều ông bố mắc phải, và đồng thời, đó là một lời trách móc khá mâu thuẫn khi nhằm vào một người mà con đã lên án là vắng mặt nhiều đến thế. 

- Con muốn chẳng thà bố vắng mặt còn hơn, bố hài lòng vì không có mặt ở đó còn gì! 

- Con say rồi, Julia, con nói lớn tiếng và điều ấy làm phiền đến mọi người. 

- Làm phiền sao? Bởi vì không phải làm phiền khi bố bất thần xuất hiện trong căn hộ ở Berlin; khi bố đã gào thét đến mức làm bà của người đàn ông mà con yêu phải khiếp sợ, để bà nói cho bố biết chúng con đang ở đâu; khi bố xô sập cánh cửa phòng ngủ trong khi chúng con đang yên giấc và đấm vỡ quai hàm Tomas vài phút sau? Như thế không phải là làm phiền chắc? 

- Cứ cho làm thế là quá đáng đi, bố nhượng bộ con chuyện ấy. 

- Bố nhượng bộ con chuyện ấy sao? Có phải là làm phiền không khi bố nắm tóc con lôi ra tận xe đang chờ sẵn ngoài phố? Khi bố vừa dẫn con đi ngang đại sảnh của sân bay vừa lắc cánh tay con đến mức con giống như một con búp bê đã bị tháo khớp? Khi bố khóa thắt lưng con lại vì sợ con sẽ rời khỏi máy bay đang bay, tất cả những chuyện đó không phải là gây phiền toái hay sao? Khi đến New York rồi, bố đã quẳng con vào phòng, như một tên tội phạm, trước khi khóa trái cửa lại, như thế không phải là làm phiền sao? 

- Có những lúc bố tự hỏi phải chăng rốt cuộc bố đã cư xử không phải khi qua đời vào tuần trước! 

- Con xin bố, đừng lại bắt đầu với những từ ngữ khoa trương của bố! 

- Nhưng điều này chẳng hề liên quan đến cách nói chuyện hay tuyệt của con, bố đnag nghĩ đến chuyện hoàn toàn khác. 

- Chẳng hạn chuyện gì? 

- Đến thái độ của con từ khi con thấy bức tranh giống với Tomas. 

Julia mở to hai mắt. 

- Chuyện đó thì liên quan gì đến việc bố qua đời? 

- Câu này nghe vui thật, con không thấy sao? Cứ cho là khi không cố ý làm chuyện ấy, bố đã ngăn được con kết hôn vào thứ Bảy! Anthony Walsh kết luận với nụ cười tươi rói. 

- Và chuyện đó khiến bố hoan hỉ đến mức ấy? 

- Vì đám cưới của con bị dời lại ấy à? Cho đến ban nãy, bố thật sự lấy làm tiếc chuyện này, còn giờ thì khác rồi... 

Bối rối với hai vị khách nói chuyện quá to tiếng, người phục vụ can thiệp và đề nghị ghi lại những món họ gọi. Julia gọi một suất bít tết. 

- Độ chín thế nào ạ? Anh bồi hỏi. 

- Dĩ nhiên là tái rồi! Anthony Walsh đáp. 

- Thế còn ông? 

- Anh có pin không? Julia hỏi. 

Và vì người phục vụ đứng nghệt ra, Anthony Walsh giải thích với anh ta là ông không ăn tối. 

- Kết hôn là một chuyện, ông nói với con gái, nhưng cho phép bố được nói với con rằng chia sẻ cả đời mình với một ai đó lại là chuyện khác. Cần phải yêu thương thật nhiều, thật nhiều không gian. Một vùng lãnh thổ mà người ta tạo ra cho hai con người và là nơi người ta không nên cảm thấy chật chội. 

- Nhưng bố là ai mà phán xét tình cảm con dành cho Adam? Bố không hề biết gì về anh ấy. 

- Bố không nói với con về Adam, mà về chính con, về khoảng không gian con sẽ có khả năng dành cho cậu ta; và nếu chân trời của các con đã bị che khất bởi ký ức về một người khác, ván đánh cược về một cuộc sống chung còn lâu mới thắng được. 

- Và bố biết mánh gì đó trong chuyện này, phải không? 

- Mẹ con mất rồi, Julia ạ, bố không chịu trách nhiệm gì trong chuyện ấy, ngay cả khi con vẫn tiếp tục quở trách bố. 

- Tomas cũng mất rồi, và ngay cả khi bố chẳng liên quan gì đến chuyện đó thì con vẫn cứ luôn giận bố. Vậy nên bố thấy đấy, nếu xét về mặt không gian, cho Adam và con, bọn con có cả vũ trụ này để thoải mái cơ mà. 

Anthony Walsh húng hắng ho, vài giọt mồ hôi rịn ra lấm tấm trên trán ông. 

- Bố đổ mồ hôi sao? Julia hỏi, ngạc nhiên. 

- Đó là một sự loạn năng về mặt công nghệ nhẹ, bố đâu cần đến nó, ông nói và khẽ chận chiếc khăn ăn lên mặt. Lúc đó con mới mười tám tuổi, Julia ạ, và con muốn chung sống với một tay cộng sản mà con mới chỉ quen biết có vài tuần! 

- Bốn tháng! 

- Vậy thì là mười sáu tuần! 

- Và anh ấy là người Đông Đức chứ không phải cộng sản. 

- Càng hay! 

- Chính bởi vậy nên nếu có điều gì đó con sẽ không bao giờ quên thì là đôi khi con đã từng ghét bố đến thế! 

- Chúng ta đã thống nhất rồi mà, không có thời quá khứ chưa hoàn thành giữa hai bố con mình, con nhớ chứ? Đừng sợ phải nói với bố trong thì hiện tại; ngay cả khi chết rồi thì bố vẫn luôn là bố của con, hay những gì còn lại của người bố đó... 

Anh bồi bàn phục vụ món cho Julia. Cô yêu cầu anh ta rót đầy ly rượu. Anthony Walsh đặt bàn tay chặn trên ly rượu. 

- Tôi cho là chúng tôi còn nhiều chuyện để nói với nhau. 

Người phục vụ rời đi không cố nài thêm. 

- Lúc ấy còn sống ở Đông Berlin, mấy tháng trời bố không nhận được tin tức gì của con. Điểm dừng chân tiếp theo của con sẽ là ở đâu vậy, Matxcơva chăng? 

- Làm thế nào bố tìm ra con? 

- Tác phẩm con đăng trên một tờ báo Tây Đức. Ai đó đã tế nhị gửi cho bố một bản sao. 

- Ai thế ạ? 

- Wallace. Đó có lẽ là cách anh ta lấy lại tín nhiệm sau khi đã lén bố giúp con rời Mỹ. 

- Bố biết chuyện đó rồi sao? 

- Nếu không thì là thế này, có lẽ anh ta cũng lo lắng hco con và cho rằng đã đến lúc đặt dấu chấm hết cho những biến cố này trước khi con thực sự gặp nguy hiểm. 

- Con chưa từng gặp nguy hiểm, con yêu Tomas. 

- Đến một độ tuổi nào đó, người ta hăng tiết lên vì tình yêu dành cho người khác, nhưng thường vẫn vì tình yêu dành cho chính bản thân mình! Con đã được thu xếp để học ngành luật ở New York, con đã bỏ tất cả để đến theo học vẽ ở trường Mỹ thuật tại Paris; đến được đó rồi thì con lại lên đường sang Berlin, bố không biết sau bao lâu; con phải lòng một gã cha căng chú kiết, thế rồi, như có phép màu, vĩnh biệt trường Mỹ thuật, con lại muốn trở thành phóng viên và nếu trí nhớ của bố hoạt động tốt, như chuyện tình cờ, cậu ta cũng muốn trở thành phóng viên, kỳ cục thế đấy... 

- Chuyện đó thì ảnh hưởng gì đến bố? 

- Chính bố đã bảo Wallace trả cho con hộ chiếu cái ngày con đến hỏi anh ta, Julia ạ, và bố ở ngay phòng kế bên trong lúc con tới lấy lại nó trong ngăn kéo bàn làm việc của bố. 

- Tại sao lại phải lòng vòng như thế, sao bố không đích thân giao nó cho con? 

- Bởi vì quan hệ giữa hai bố con ta hoàn toàn không được tốt đẹp gì cho cam, nếu con còn nhớ. Vả lại, cứ cho là bố làm thế đi, điều này hẳn sẽ phá hỏng sở thích phiêu lưu của con. Khi để cho con ra đi trong sự chống đối trọn vẹn đối với bố, chuyến đi của con mới có được sự thú vị, phải không nào? 

- Bố thực sự đã nghĩ đến tất cả những điều này ư? 

- Bố đã chỉ cho Wallace nơi để giấy tờ tùy thân của con, và bố thực sự đã ở tỏng phòng khách; còn với mọi chuyện diễn ra sau đó, có lẽ từ phía bố có một chút lòng tự ái bị tổn thương. 

- Bố mà tổn thương sao? 

- Thế còn Adam? Anthony Walsh bẻ lại. 

- Adam chẳng liên quan gì tới tất cả những chuyện này. 

- Bố nhắc để con nhớ, cũng lạ là chính bố lại phải nói con biết điều này, rằng nếu bố không chết thì hôm nay con đã trở thành vợ của cậu ta. Thế nên bố sẽ thử trình bày lại câu hỏi của mình theo cách khác, nhưng trước tiên con nhắm mắt lại được không? 

Không hiểu bố mình muốn dẫn dắt câu chuyện đến đâu, Julia lưỡng lự, nhưng trước thái độ nằn nì của ông, cô làm theo. 

- Nhắm chặt hơn nữa vào. Bố muốn con hoàn toàn chìm trong bóng tối. 

- Chúng ta đang chơi trò gì vậy? 

- Ngoại lệ một lần thôi, hãy làm như bố yêu cầu, chuyện này sẽ không mất nhiều thời gian đâu. 

Julia nhắm nghiền hai mắt và bóng tối xâm chiếm cô. 

- Cầm lấy dĩa của con và ăn đi. 

Thích thú, cô thuận lòng làm theo. Bàn tay cô sờ soạng trên khăn trải bàn, cho đến khi cô gặp được vật cần tìm. Bằng một cử chỉ vụng về, tiếp đó, cô tìm cách xiên chiếc dĩa vào một miếng thịt nằm trong đĩa của mình và không hề có ý niệm gì về thứ đang đưa lên miệng, cô mở hé miệng. 

- Có phải vị của món ăn này đổi khác đi bởi vì con không nhìn thấy nó? 

- Có lẽ vậy, cô đáp trong khi vẫn giữ mắt nhắm nghiền. 

- Bây giờ, hãy làm điều này vì bố và nhất là vẫn nhắm mắt đấy nhé. 

- Con nghe bố đây, cô nói giọng êm dịu. 

- Hãy nghĩ đến một khoảnh khắc hạnh phúc. 

Và Anthony im lặng, quan sát gương mặt của con gái.

° ° °

Hòn đảo của những viện bảo tàng, em còn nhớ, chúng ta cùng nhau dạo chơi. Khi anh giới thiệu em với bà của anh, câu đầu tiên bà hỏi là về nghề nghiệp của em. Cuộc nói chuyện không dễ dàng, anh dịch những lời bà nói sang vốn tiếng Anh sơ sài của anh còn em lại không nói được ngôn ngữ của anh. Em đã giải thích với bà rằng em là sinh viên trường Mỹ thuật Paris. Bà mỉm cười và đi tìm trong tủ com mốt của bà một tấm bưu ảnh có in một bức tranh của Vladimir Radskin, một họa sĩ người Nga mà bà yêu thích. Thế rồi bà ra lệnh cho chúng ta ra ngoài hít thở khí trời, tận hưởng cái ngày đẹp trời này. Anh đã không kể gì với bà về chuyến đi đặc biệt của mình, không một lời về cái cách mà chúng ta đã gặp nhau. Và khi chúng ta ra đến cửa căn hộ của hai bà cháu anh, bà hỏi anh rằng có phải anh đã gặp lại Knapp hay không. Anh ngần ngừ hồi lâu, nhưng nét mặt anh đã thừa nhận cuộc hội ngộ của hai người. Bà mỉm cười và nói với anh rằng bà lấy làm mừng cho anh. 

Ngay khi ra ngoài phố, anh đã nắm tay em, và mỗi khi em hỏi anh chúng ta chạy đi đâu mà nhanh đến thế, anh lại đáp, "Đến đây, đến đây". Chúng ta đã vượt cây cầu nhỏ bắc qua sông Spree

Hòn đảo của những viện bảo tàng, em chưa từng thấy các tòa nhà dành cho nghệ thuật tập trung với mật độ dày đặc đến thế. Em cứ ngỡ đất nước của anh được xây nên chỉ toàn bằng màu xám, vậy mà ở đây, mọi thứ đều khoe sắc. Anh đã dẫn em đến trước Altes Museum. Tòa nhà là một khối vuông rộng mênh mông, nhưng khi chúng ta vào đến bên trong, không gian lại có hình dạng của một đình tròn. Em chưa bao giờ thấy một kiểu kiến trúc nào giống thế, lạ lùng thế, gần như không thể tin nổi. Anh đã dẫn em đến trung tâm của đình tròn đó, bảo em xoay người trọn một vòng; rồi vòng thứ hai, thêm vòng nữa và anh buộc em xoay mỗi lúc một nhanh hơn, cho đến khi em phát chóng mặt. Anh đã dừng điệu van điên rồ ấy lại bằng cách ôm chặt em trong vòng tay và anh nói, thế đấy, đây chính là sự lãng mạn kiểu Đức, một vòng tròn ở chính giữa một hình vuông, để chứng tỏ rằng mọi sự khác biệt đều có thể dung hòa. Thế rồi anh đưa em đến tham quan viện bảo tàng Pergame.

° ° °

- Thế nào, Anthony hỏi, con đã tìm lại được khoảnh khắc hạnh phúc ấy chưa? 

- Rồi ạ, Julia trả lời, hai mắt vẫn nhắm chặt. 

- Con thấy ai trong kỷ niệm đó? 

Cô mở choàng mắt. 

- Con không phải trả lời bố đâu, Julia, câu trả lời thuộc về con. Bố sẽ không sống cuộc đời con thay cho con nữa. 

- Tại sao bố làm vậy? 

- Bởi vì mỗi lần nhắm mắt lại, bố lai nhìn thấy gương mặt mẹ con. 

- Tomas đã hiện ra trong bức chân dung giống với anh ấy, như một hồn ma, một cái bóng bảo con hãy ra đi thanh thản, rằng con có thể kết hôn mà không cần nghĩ tới anh ấy nữa, không hối tiếc. Đó là một dấu hiệu. 

Anthony húng hắng ho. 

- Đó chỉ là một bức ký họa bằng chì than thôi mà, khỉ thật! Nếu bố vứt cái khăn ăn ra xa, dù nó có trúng vào giá đựng ô nơi lối vào hay không thì điều đó cũng chẳng thay đổi chuyện gì hết. Dù giọt rượu cuối cùng có rơi đúng vào cốc của người phụ nữ đang ngồi cạnh chúng ta đây hay không thì nội trong năm nay cũng đừng gả cô ấy cho cái gã u mê đang ngồi ăn tối cùng cô ấy. Đừng nhìn bố như thể bố là người sao Hỏa, nếu cái gã đần không nói chuyện với bạn gái lớn tiếng đến thế để cố gây ấn tượng với cô ấy, bố đã không nghe thấy cuộc trò chuyện của họ từ đầu bữa đến giờ. 

- Bố nói thế bởi vì bố chưa từng tin vào những dấu hiệu của cuộc sống! Nhu cầu kiểm soát mọi chuyện ở bố là quá lớn! 

- Những dấu hiệu đó không tồn tại, Julia ạ. Bố đã ném hàng nghìn tờ giấy vo viên vào giỏ giấy loại ở văn phòng, chắc mẩm rằng nếu bố ném trúng mục tiêu thì ước nguyện của bố sẽ thành hiện thực; ấy vậy mà cuộc gọi bố chờ đợi không bao giờ đến! Bố đã đẩy vụ đánh cược ngu ngốc ấy đi xa đến mức tự nhủ rằng cần phải ném trúng liên tiếp ba hay bốn lần mới xứng đáng với phần thưởng; sau hai năm kiên trì thực hành, bố có thể cho cả một ram giấy hạ cánh chính giữa một cái giỏ đặt cách xa mười mét, và vẫn chẳng có gì hết. Một buổi tối, ba khách hàng quan trọng đi cùng bố đến một bữa tối bàn chuyện làm ăn. Trong khi một trong những người hùn vốn với bố ra sức lên danh sách cho họ tất cả những vùng lãnh thổ nơi có người phụ nữ mà bố vẫn hằng ngóng đợi; bố hình dung ra những đường phố mà cô ấy dạo bước qua mỗi sáng khi rời khỏi nhà. Khi rời khỏi nhà hàng, một trong số họ, một người Trung Quốc, và con làm ơn đừng hỏi bố tên của ông ta, đã kể cho bố nghe một truyền thuyết rất thú vị. Hình như nếu ta nhảy vào giữa một vũng nước có phản chiếu trăng rằm, Nguyệt thật sẽ ngay lập tức dẫn ta đến với người ta mong nhớ. Con phải thấy vẻ mặt của người hùn vốn với bố khi bố chụm chân nhảy vào rãnh nước ven đường. Vị khách hàng của bố ướt như chuột lột, ngay đến mũ của ông ta cũng nhỏ nước thành giọt. Thay vì tạ lỗi, bố lưu ý ông ta rằng mẹo này không ổn lắm! Người phụ nữ mà bố trông ngóng không xuất hiện. Thế nên, đừng nhắc với bố về những dấu hiệu ngu ngốc mà người ta bám riết lấy khi đã mất hết lý trí để tin vào Chúa. 

- Con cấm bố nói những điều như vậy! Julia kêu lên. Khi còn nhỏ, con hẳn đã nhảy vào cả hàng nghìn vũng nước, cả nghìn rãnh ven đường để bố trở về nhà vào buổi tối. Giờ đã quá muộn để kể cho con những chuyện kiểu này rồi. Tuổi thơ ấu của con trôi qua lâu rồi! 

Anthony Walsh nhìn con gái, vẻ mặt rầu rĩ, Julia sẽ không nguôi giận. Cô xô chiếc ghế về phía sau, đứng bật dậy và rời khỏi nhà hàng. 

- Bỏ qua cho con bé nhé, ông nói với người bồi bàn và đặt mấy tờ bạc trên bàn. Tôi cho là tại rượu sâm banh của các anh đấy, quá nhiều bọt!

° ° °

Họ quay về khách sạn. Không thốt ra lấy một lời khuấy động không gian tĩnh lặng của đêm. Họ đi ngược lên đầu phố, ngang qua những con phố hẹp của thành phố cổ kính. Julia đi không hoàn toàn thẳng đường. Đôi lúc cô chệch choạng trên một phiến gạch lát vượt quá mặt đường. Anthony ngay lập tức giơ tay ra để đỡ cô, nhưng cô đã giữ được thăng bằng và gạt phăng cử động tay của ông không để ông chạm vào cô. 

- Tôi là một phụ nữ hạnh phúc! Cô vừa nói vừa đi loạng choạng. Hạnh phúc và viên mãn! Tôi được làm công việc yêu thích, sống trong căn hộ yêu thích, có một người bạn thân yêu thích và sắp kết hôn với người đàn ông mà tôi yêu! Viên mãn! Cô ấp úng lặp lại. 

Mắt cá chân của cô khuỵu xuống. Julia vừa kịp vịn tay rồi để mình trượt theo chiều dài của một cột đèn đường. 

- Cứt thật! cô ngồi trên vỉa hè làu bàu. 

Julia lờ tịt bàn tay bố cô đang chìa ra để giúp cô đứng lên. Ông quỳ gối rồi ngồi xuống bên cạnh cô. Con phố nhỏ vắng tanh và cả hai cứ ngồi nguyên đó, tựa lưng vào cột đèn đường. Mười phút trôi qua và Anthony lôi từ túi áo khoác ra một gói nhỏ.

- Gì vậy? cô hỏi. 

- Kẹo. 

Julia nhún vai rồi quay đầu nhìn ra chỗ khác. 

- Bố cho là có hai hay ba chú gấu nhỏ bằng sô cô la đang dạo chơi ở dưới đáy đấy... Theo tin mới nhận thì chúng đang chơi với một dải giấy cuộn bằng cam thảo. 

Julia vẫn không phản ứng, nên ông làm bộ cất lại gói kẹo vào túi, nhưng cô bèn giật ngay lấy nó từ tay ông. 

- Khi còn nhỏ, con đã nhận nuôi một con mèo hoang, Anthony nói trong khi Julia đang ngốn đến chú gấu con thứ ba. Con cưng nó lắm, nó cũng vậy, được liền tám hôm cho đến khi nó lại đi mất. Con có muốn bố con mình về ngay bây giờ không? 

- Không, Julia đáp, miệng vẫn nhai tóp tép. 

Cỗ xe được đóng vào một con ngựa có bộ lông màu hung đi ngang qua trước mặt họ. Anthony giơ tay chào người xà ích.

° ° °

Một giờ sau họ về đến khách sạn, Julia đi ngang qua đại sảnh và dùng thang máy bên phải trong khi Anthony bước vào thang máy bên trái. Họ gặp lại nhau nơi thềm nghỉ của tầng trên cùng, cùng nhau sánh bước đi trong hành lang tới tận cửa căn phòng dành cho vợ chồng mới cưới, Anthony nhường lối cho con gái. Cô đi thẳng vào phòng ngủ của mình và Anthony cũng vào phòng riêng. 

Julia ngay lập tức buông mình xuống giường và lục tìm trong túi xách lấy điện thoại di động. Cô nhìn giờ trên đồng hồ đeo tay rồi gọi cho Adam. Chỉ nghe thấy tin nhắn trả lời tự động, cô đợi đến cuối thông điệp rồi gác máy trước khi tiếng chuông nhỏ cài sẵn vang lên. Cô bấm số của Stanley. 

- Anh thấy là em đang khỏe khoắn. 

- Em nhớ anh kinh khủng, anh biết đấy. 

- Anh chẳng biết gì về chuyện ấy cả. Chuyến đi thế nào? 

- Em nghĩ ngày mai em sẽ về. 

- Đã về rồi ư? Em đã thấy cái mà em tìm kiếm chưa? 

- Phần cốt lõi, em cho là thế. 

- Adam vừa rời khỏi nhà anh, Stanley thông báo bằng giọng ra vẻ trịnh trọng. 

- Anh ấy đến gặp anh á? 

- Đó chính xác là điều anh vừa nói với em còn gì, em uống rượu à? 

- Một chút ạ. 

- Em khỏe đến mức ấy ư? 

- Ồ vâng! Sao tất cả mọi người đều muốn em phải không ổn kia chứ? 

- Anh thì cho rằng mình là người duy nhất đấy chứ! 

- Anh ấy muốn gì thế? 

- Anh cho là nói về em, nếu không thì vì cậu ta đang chuyển mục tiêu; nhưng trong trường hợp đó, Adam đã uổng phí cả buổi tối rồi, cậu ta không thuộc gu của anh. 

- Adam đến để nói với anh về em? 

- Không, cậu ta đến để anh nói với cậu ta về em. Đó là điều mọi người vẫn làm khi nhớ người mà họ yêu quý. 

Stanley nghe thấy tiếng thở của Julia trong ống nghe. 

- Cậu ta đang buồn, em thân mến ạ. Anh không có thiện cảm đặc biệt gì với cậu ta, anh chưa bao giờ giấu em điều ấy, nhưng anh không muốn thấy một gã đàn ông phải khốn khổ. 

- Tại sao anh ấy buồn? cô hỏi bằng giọng thành thực hối lỗi. 

- Hoặc là em đã hoàn toàn trở nên ngu ngốc, hoặc là em thật sự say rồi! Cậu ta tuyệt vọng, vì sau khi hủy hôn có hai ngày, vị hôn thê của cậu ta... Chúa chứng giám anh ghét cay ghét đắng khi cậu ta gọi em như vậy, đó là một từ đáng bỏ xó lâu rồi... tóm lại, vị hôn thê của cậu ta đã ra đi mà không hề để lại cho cậu ta địa chỉ hay giải thích cho sự trốn tránh này. Nói thế đã đủ sáng rõ chưa hay em muốn anh gửi chuyển phát nhanh cho em một ống aspirin? 

- Trước tiên, không phải em ra đi mà không để lại địa chỉ, và em đã ghé qua gặp anh ấy... 

- Vermont ấy à? Em dám nói với cậu ta rằng em đi Vermont cơ đấy! Em gọi đấy là một địa chỉ? 

- Có vấn đề gì với Vermont sao? Julia hỏi bằng giọng bối rối. 

- Không, tóm lại là không trước khi anh hành động dại dột. 

- Anh đã làm gì vậy? Julia nín thở hỏi. 

- Anh nói là em đang ở Montréal. Làm sao em lại muốn anh tưởng tượng ra một chuyện ngu xuẩn như thế chứ! Lần sau nếu em có nói dối thì nhớ báo trước cho anh, anh sẽ dạy em vài bài và ít ra chúng ta cũng phối hợp cho nhuần nhuyễn. 

- Cứt thật! 

- Em nhổ ngay cái câu ấy ra khỏi miệng cho anh... 

- Các anh ăn tối cùng nhau à? 

- Anh đã đãi cậu ta một món nấu qua loa chẳng ra gì... 

- Stanley! 

- Thế thì sao nào? Anh cũng sẽ không để cho cậu ta chết đói mà! Anh không biết em đang làm gì ở Montréal, cũng không biết em đang ở cùng ai, và anh thừa hiểu chuyện đó chẳng can hệ gì đến mình, nhưng em làm ơn gọi cho Adam, đó là điều tối thiểu nên làm. 

- Hoàn toàn không phải như anh nghĩ đâu, Stanley! 

- Ai nói với em là anh nghĩ? Nếu điều này có thể khiến em yên tâm, anh đã hứa với cậu ta rằng chuyến đi của em chẳng có liên quan gì đến chuyện hai người cả, rằng em đi là để lần theo dấu vết của bố em.Em thấy đấy, để nói dối thì cần phải có chút tài năng cơ! 

- Nhưng em thề với anh là anh không nói dối! 

- Anh đã nói thêm là cái chết của bố em đã giày vò em và chuyện em có thể khép lại những cánh cửa vẫn đang hé mở dần về quá khứ của em là điều tối quan trọng đối với cuộc sống chung của hai người. Chẳng ai cần gió lùa trong cuộc sống tình ái của mình hết, có đúng thế không nào? 

Julia lại lần nữa im bặt. 

- Thế nào, cuộc thám hiểm của em về câu chuyện của bố Walsh tiến hành đến đâu rồi? Stanley nói tiếp. 

- Em cho là đã khám phá ra thêm một chút về tất cả những điều đã khiến em ghét ông. 

- Tuyệt! Còn gì nữa? 

- Có lẽ một chút về những điều khiến em yêu quý ông. 

- Và em muốn quay về ngay ngày mai? 

- Em không biết, có lẽ tốt hơn em nên tìm gặp Adam. 

- Trước khi...? 

- Ban nãy em vừa đi dạo, có một nữ họa sĩ chuyên vẽ chân dung... 

Julia kể cho Stanley nghe về phát hiện tại khu cảng cũ của Montr é al và, khác với lệ thường, anh bạn không bắt cô phải nghe một trong những lời đối đáp sắc lẻm của anh. 

- Anh thấy đấy, đã đến lúc em nên quay về, phải không? Chuyện em rời khỏi New York chẳng mang lại kết quả gì hết. Vả lại nếu mai em không quay về thì ai sẽ mang lại vận may cho anh đây? 

- Em muốn một lời khuyên thích hợp không? Cứ viết ra giấy tất cả những cái đang hiện ra trong đầu em, rồi hãy làm ngược lại hoàn toàn! Chúc ngủ ngon, em thân mến. 

Stanley gác máy. Julia rời khỏi giường để đi vào phòng tắm, cô không nghe thấy tiếng bước chân bố cô rón rén trở lại phòng ngủ của ông.



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
20/11/2011 21:11 # 12
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Một bầu trời đỏ nhạt ló rạng trên Montréal. Gian khách nằm chính giữa phòng khách sạn tắm trong một luồng sáng êm dịu. Có tiếng gõ cửa, Anthony mở cửa cho người phục vụ tầng và để anh ta đẩy chiếc bàn lưu động vào giữa phòng. Người đàn ông trẻ tuổi định bày bộ đồ điểm tâm nhưng Anthony đã nhét vào túi anh ta vài đô la và nắm quyền điều khiển chiếc bàn đẩy lưu động. Người phục vụ đi ra, Anthony chú ý để cánh cửa khép lại không gây ra tiếng động. Ông phân vân lựa chọn giữa cái bàn thấp và cái bàn một chân gần cửa sổ mang lại tầm nhìn toàn cảnh tươi đẹp. Ông quyết định chọn quang cảnh rồi thận trọng trải khăn bàn, bày đĩa, bộ đồ ăn, bình nước cam vắt, bát ngũ cốc, giỏ bánh kiểu thành Viên, và một đóa hồng vươn lên kiêu hãnh trong chiếc lọ đơn bông. Ông lùi về sau một bước, chỉnh lại đóa hoa mà ông nhận thấy bị cắm hơi lệch, bình sữa sẽ khá hơn khi được đặt gần giỏ bánh. Ông đặt vào đĩa của Julia một cuộn giấy được trang trí bằng một sợi ruy băng đỏ, rồi phủ kín lại bằng chiếc khăn ăn. Lần này, ông đứng lùi lại đến hơn một mét và kiểm tra xem bàn ăn đã có bố cục hài hòa chưa. Sau khi đã thắt nút cà vạt cho chặt, ông đến gõ nhẹ cửa phòng ngủ của cô con gái và thông báo rằng bữa sáng dành cho Quý bà đã dọn xong. Julia làu bàu hỏi bây giờ là mấy giờ. 


- Đã đến giờ con dậy rồi; chiếc xe bus của trường sẽ qua trong mười lăm phút nữa, con sẽ lại lỡ chuyến xe mất thôi! 

Vùi mình dưới tấm chăn lông kéo đến tận mũi, Julia mở một bên mắt và vươn mình. Đã lâu rồi cô không được ngủ kỹ thế này. Cô vò cho tóc xù lên, mắt vẫn nheo lại trong lúc đợi thị giác của cô làm quen với ánh sáng ban ngày. Cô vùng dậy rồi lập tức ngồi thụp xuống mép giường vì cảm thấy chóng mặt. Chiếc đồng hồ báo thức đặt trên bàn đầu giường chỉ tám giờ.

- Sao sớm thế? Cô lẩm nhẩm khi bước vào phòng tắm. 

Và trong khi Julia tắm qua dưới vòi hoa sen, Anthony Walsh, ngồi trong một chiếc ghế phô tơi của phòng khách nhỏ, ngắm dải ruy băng màu đỏ thò ra khỏi mép đĩa và thở dài.

° ° °

Chuyến bay của hãng hàng không Air Canada cất cánh lúc 7h10 tại sân bay Newark. Giọng cơ trưởng vang lên lạo xạo trên loa để thông báo máy bay bắt đầu hạ cánh xuống Montréal. Máy bay sẽ tới cửa trả khách theo đúng giờ đã định. Trưởng bộ phận chiêu đãi viên tiếp lời ông đọc những điều lệnh thông thường buộc phải tuân thủ để hạ cánh. Adam vươn vai trong giới hạn có thể. Anh gập kệ ăn lại rồi nhìn qua ô cửa kính. Máy bay đang bay trên không phận Saint-Laurent. Từ xa hiện rõ lên đường rìa xung quanh thành phố và người ta có thể nhận ra đường nét nổi bật của đồi Mont-Royal. Chiếc MD-80 chao cánh, Adam thắt chặt dây bảo hiểm. Phía trước ghế của tổ lái, những cọc tiêu của đường băng đã hiện ra.

° ° °

Julia thắt dải dây lưng của áo choàng tắm và bước vào phòng khách nhỏ. Cô ngắm bữa sáng đã được bày biện đâu vào đấy trên bàn rồi mỉm cười với Anthony đang nhấc ghế mời cô ngồi. 

- Bố đã gọi cho con trà Earl Grey, ông vừa nói vừa rót đầy tách của cô. Cậu trai phục vụ phòng đã đề xuất với bố trà đen, đen đậm, vàng, trắng, xanh lục, hun khói, Trung Hoa, Tứ Xuyên, Đài Loan, Triều Tiên, Sri Lanka, Ấn Độ, Nepal và bố còn quên đến bốn mươi tên gọi khác mà cậu ta đã dẫn ra với bố, trước khi bố dọa sẽ tự tử nếu cậu ta tiếp tục. 

- Earl Grey sẽ rất hợp, Julia đáp và giở khăn ăn của mình ra. 

Cô nhìn cuộn giấy có ruy băng buộc ngoài rồi quay lại nhìn bố mình, vẻ dò hỏi. 

Anthony ngay lập tức giật lấy nó từ tay cô. 

- Con sẽ mở nó ra sau bữa sáng. 

- Cái gì vậy? Julia hỏi. 

- Đó, ông nói, tay chỉ những chiếc bánh kiểu thành Viên, những cái dài và xoắn gọi là bánh sừng bò, những cái hình chữ nhật có nổi lên hai nốt nhỏ màu hạt dẻ, đó là bánh mì sô cô la, còn những con ốc sên với những quả khô rắc bên trên, là bánh mì nho. 

- Con đang nói về cái thứ bố giấu sau lưng kìa, với một sợi ruy băng màu đỏ. 

- Để sau, bố vừa nói với con rồi đấy thôi. 

- Thế tại sao bố lại để sẵn trong đĩa ăn của con? 

- Bố đổi ý rồi, để sau thì hay hơn. 

Julia tranh thủ lúc Anthony quay lưng lại với cô để chụp lấy cuộn giấy ông đang cầm trên tay bằng một động tác nhanh gọn. 

Cô tháo sợi dây ruy băng rồi mở cuộn giấy ra. Gương mặt của Tomas lại lần nữa mỉm cười với cô. 

- Bố mua nó khi nào vậy? cô hỏi. 

- Hôm qua, lúc bố con ta rời bến tàu. Con đi đằng trước và không để ý đến bố. Bố đã thưởng cho họa sĩ một món hậu hĩnh, cô ấy nói rằng bố có thể lấy nó, khách hàng không ai mua và cô ấy cũng không dùng gì đến nó. 

- Tại sao? 

- Bố nghĩ chuyện này sẽ khiến con vui, con đã ngắm nó rất lâu còn gì. 

- Con muốn biết tại sao bố lại thực sự mua nó, Julia gạn hỏi. 

Anthony ngồi trên tràng kỷ, nhìn con gái chăm chú. 

- Bởi vì bố con ta cần phải nói chuyện. Bố từng hy vọng chúng ta sẽ không bao giờ tranh luận về chuyện này và phải thú thật rằng bố đã do dự khi đề cập đến. Vả lại bố không hình dung dù chỉ một giây rằng cuộc dạo chơi của bố con ta lại đưa bố đến với hoặc này và có nguy cơ bị tổn hại, bởi vì bố đã dự đoán được phản ứng của con; nhưng bởi vì các dấu hiệu, như con đã nói về chúng hay đến thế, đã dẫn đường cho bố... vậy nên bố cần phải thú nhận với con một chuyện. 

- Bố thôi những lời điệu đàng kiểu cách và nói thẳng vào vấn đề đi, cô nói bằng giọng đanh thép. 

- Julia, bố cho là Tomas chưa hẳn đã chết.

° ° °

Adam đang cáu tiết. Anh đã cố tình không mang theo hành lý để rời khỏi sân bay sớm nhất có thể, nhưng những hành khách của một chiếc 747 đến từ Nhật Bản đã tràn ngập các quầy thủ tục hải quan. Anh nhìn đồng hồ đeo tay. Hàng người chạy dài phía trước cho phép anh dự kiến sẽ mất khoảng hơi hai mươi phút trước khi nhảy được lên một chiếc taxi. 

"Sumimasen!" Cái từ vừa thoáng hiện trong trí nhớ của anh bật ra đúng lúc. Người trao đổi thư từ với anh trong một nhà xuất bản Nhật dùng nó thường xuyên đến mức Adam đã đi đến kết luận rằng xin lỗi hẳn là một truyền thống của đất nước này. "Sumimasen, xin thứ lỗi", anh lặp lại đến mười lần trong lúc len lỏi giữa những hành khách của chuyến bay của hãng JAL; và thêm mười Sumimasen nữa, Adam trình được hộ chiếu của mình với nhân viên hải quan Canada, người này đóng con dấu vào tấm hộ chiếu rồi lập tức đưa lại cho anh. Bất chấp lệnh cấm sử dụng điện thoại di động cho đến khi ra khỏi khu vực giao trả hành lý, anh lấy điện thoại ra từ túi áo vest, bật lên rồi bấm số của Julia.

° ° °

- Bố tin chắc là chuông điện thoại của con đấy, chắc con để điện thoại trong phòng, Anthony nói bằng giọng bối rối. 

- Đừng lảng sang chuyện khác. Bố hiểu cái cụm "chưa hẳn đã chết" chính xác như thế nào vậy? 

- Còn sống cũng sẽ là một từ thích hợp... 

- Tomas còn sống ư? Julia hỏi, giọng run rẩy. 

Anthony gật đầu xác nhận. 

- Làm sao bố biết chuyện ấy? 

- Nhờ lá thư của cậu ta; thường thì những người không còn sống trên thế gian này không thể viết thư được. Trừ bố ra, con nên nhớ... Bố chưa kịp nghĩ đến, nhưng đó vẫn là một điều tuyệt vời... 

- Thư nào? Julia hỏi. 

- Lá thư con nhận được từ cậu ta sáu tháng sau vụ tai nạn khủng khiếp đó. Nó được gửi qua bưu điện Berlin, tên cậu ta có ghi ở mặt sau phong bì mà. 

- Con chưa từng nhận được thư của Tomas. Nói với con là chuyện này không đúng đi?!! 

- Con không thể nhận thư vì con đã rời khỏi nhà và bố không thể chuyển thư cho con được vì con đã bỏ đi không để lại địa chỉ. Bố cho là chuyện này dù sao cũng là một lý do bổ sung chính đáng để thêm vào danh sách của con. 

- Danh sách nào cơ? 

- Danh sách những lý do khiến con đã ghét bố. 

Julia đứng dậy và đẩy chiếc bàn bày bữa sáng ra xa. 

- Ta đã nói là không có thời quá khứ hoàn thành giữa hai chúng ta, bố nhớ không? Thế nên bố có thể đặt cái câu cuối cùng này ở thời hiện tại, cô hét lên và rời khỏi phòng khách. 

Cánh cửa phòng ngủ của cô đóng sập lại và Anthony, còn lại một mình giữa căn phòng, ngồi vào chỗ cô ngồi ban nãy. 

- Lãng phí quá! Ông lẩm nhẩm khi nhìn chiếc giỏ đựng bánh kiểu thành Viên.

° ° °

Lần này thì không thể giở trò gian lận trong hàng người chờ taxi nữa rồi. Một người phụ nữ mặc đồng phục đang chỉ định xe cho từng hành khách. Adam phải đợi đến lượt mình. Anh lại bấm số của Julia lần nữa.

° ° °

- Tắt điện thoại hoặc nhấc máy đi, nghe khó chịu lắm! Anthony nói và bước vào phòng ngủ của Julia. 

- Bố ra khỏi đây ngay! 

- Julia! Chuyện xảy ra đã gần hai chục năm rồi, khỉ thật! 

- Và suốt gần hai chục năm bố không tìm được dịp nào để nói với con về chuyện đó ư? Cô hét lên. 

- Hai mươi năm, bố con ta có quá ít dịp để nói chuyện với nhau! Ông đáp bằng giọng không khoan nhượng. Và dù sao bố cũng không rõ bố đã nhắc đến chuyện đó hay chưa nữa! Để làm gì kia chứ? Cho con thêm một cớ nữa để làm đứt quãng những gì con đang thực hiện hay sao? Con đã có một công việc đầu tiên ở New York, một căn hộ nhỏ trên đường số 42, một cậu bạn trai đang theo học ngành sân khấu, nếu bố không nhầm và rồi một cậu bạn trai khác trưng bày những bức tranh khủng khiếp trong khu Queens, vả lại con đã chia tay cậu ta ngay trước khi chuyển chỗ làm và đổi kiểu tóc, hay là ngược lại ấy nhỉ? 

- Làm sao bố biết được tất cả những chuyện đó? 

- Không phải vì con không bao giờ quan tâm đến cuộc sống của bố mà bố thoát khỏi cảnh lúc nào cũng xoay xở để dõi theo cuộc sống của con. 

Anthony nhìn con gái hồi lâu và quay trở ra phòng khách. Đến ngưỡng cửa thì cô gọi ông quay lại. 

- Bố mở nó ra rồi sao? 

- Bố không bao giờ cho phép mình đọc thư từ của con, ông nói mà không quay lại nhìn. 

- Bố đã cất nó đi? 

- Lá thư hiện đang nằm ở trong phòng con, à mà bố đang nói về căn phòng con ở hồi con sống ở nhà. Bố đã cất nó vào ngăn kéo bàn học của con, bố nghĩ nó vẫn nằm chờ ở đó. 

- Tại sao bố không nói gì với con khi con quay về New York? 

- Thế tại sao đã về đến New York mà con vẫn phải chờ đến sáu tháng sau mới điện thoại cho bố biết hả Julia? Mà con gọi cũng chỉ vì đoán được rằng bố đã nhận ra con đứng sau quầy kính cửa hàng tạp hóa ở SoHo phải không? Hay bởi vì sau ngần ấy năm biệt tích, cuối cùng con đã bắt đầu hơi nhớ bố chăng? Nếu con cho rằng giữa hai bố con ta bố luôn là người giành phần thắng thì con nhầm rồi đấy. 

- Bởi vì đối với bố đây chỉ là một cuộc chơi? 

- Bố không mong như vậy, khi còn bé con rất tài khoản đánh hỏng đồ chơi. 

Anthony đặt một chiếc phong bì lên giường cô. 

- Bố để lại cho con thứ này, ông nói thêm. Chắc lẽ ra bố nên nói với con chuyện này sớm hơn, nhưng bố đã không làm được chuyện đó. 

- Cái gì vậy? Julia hỏi. 

- Vé máy bay về New York cho hai bố con ta. Sáng nay trong lúc con ngủ bố đã nhờ người thường trực khách sạn. Bố đã nói với con rồi đấy, bố đoán trước được phản ứng của con và bố cho là chuyến đi của chúng ta dừng tại đây. Con thay quần áo đi, cầm lấy túi xách rồi xuống sảnh gặp bố. Bố sẽ đi thanh toán hóa đơn. 

Anthony đi ra và nhẹ nhàng khép cửa lại.

° ° °

Xa lộ xe chen như mắc cửi, chiếc taxi rẽ vào phố Saint-Patrick. Giao thông ở đó cũng tắc nghẽn hệt như vậy. Tài xế đề nghị quay lại đường 720 xa hơn một chút rồi rẽ sang đại lộ René-Lévesque. Adam vội cuống cuồng không cần biết đi theo lộ trình nào, miễn sao đến đích nhanh nhất. Người tài xế thở dài, khách hàng có sốt ruột cũng vô ích, ông không thể làm gì thêm. Phải ba mươi phút nữa họ mới đến nơi, có thể chưa đến thế tình hình giao thông được cải thiện một khi đã vượt qua cửa ngõ thành phố. Và hình như một vài người thấy cánh lái xe taxi không được tử tế cho lắm thì phải..., ông vặn to tiếng radio để kết thúc cuộc trò chuyện giữa họ. 

Mái của một tòa tháp trong khu phố thương mại của Montr é al đã hiện ra, khách sạn không còn xa nữa.

° ° °

Túi khoác trên vai, Julia đi ngang đại sảnh và bước một bước dứt khoát về phía quầy tiếp tân. Người thường trực lập tức rời khỏi quầy đến gặp cô. 

- Bà Walsh! Ông ta nói và dang rộng vòng tay. Ông nhà đang đợi bà bên ngoài, chiếc limousine ông bà gọi đến hơi trễ một chút, hôm nay những đám tắc đường thật kinh khủng. 

- Cảm ơn, Julia đáp. 

- Tôi lấy làm tiếc, bà Walsh ạ, là ông bà chia tay chúng tôi sớm hơn dự kiến, tôi hy vọng chất lượng phục vụ của chúng tôi không liên quan gì trong cuộc ra đi này chứ? Ông ta hỏi, giọng tiếc nuối. 

- Bánh sừng bò chỗ các ông thật tuyệt! Julia đập lại chan chát. Và dứt khoát một lần nhé, không phải bà, mà là cô! 

Cô ra khỏi khách sạn và nhận thấy Anthony đang đứng đợi trên vỉa hè. 

- Xe không nên đến muộn mới phải, ông nói, đây nó đây rồi. 

Một chiếc Lincoln màu đen đang đỗ ngang tầm họ. Trước khi xuống xe đón khách, người tài xế mở cốp xe phía sau. Julia mở cửa xe và ngồi vào ghế hành khách. Trong khi nhân viên phụ trách hành lý sắp xếp hai chiếc túi của họ, Anthony đi vòng qua đuôi xe. Một chiếc taxi nhấn còi, chỉ cách vài centimet nữa là chiếc xe hất ngã ông.

° ° °

- Mấy người này đi đứng không để ý gì cả! người tài xế càu nhàu và cho xe đỗ sóng đôi trước khách sạn Saint-Paul. 

Adam đưa cho ông một nắm đô la rồi, không chờ tiền trả lại, vội vàng tiến về cánh cửa xoay. Anh tự giới htieuej ở quầy tiếp tân rồi hỏi phòng của cô Walsh. 

Bên ngoài, một chiếc limousine màu đen kiên nhẫn chờ cho chiếc taxi chăn bện cạnh khởi hành. Người tài xế taxi vẫn chưa nổ máy vì mải đếm tiền và hoàn toàn không có vẻ gì là vội. 

- Ông bà Walsh đã rời khách sạn rồi, cô nhân viên tiếp tân trả lời Adam với vẻ tiếc nuối. 

- Ông bà Walsh ấy à? Adam nhắc lại, kéo dài giọng ở từ "ông" để nhấn mạnh. 

Người thường trực ngước mắt nhìn trời và tự giới thiệu với anh. 

- Tôi có thể giúp ông chăng? Ông hỏi, giọng bồn chồn. 

- Có phải đêm qua vợ tôi đã lưu lại trong khách sạn chỗ ông? 

- Bà nhà ấy ạ? Người thường trực hỏi và nhìn xéo qua vai Adam. 

Chiếc limousine vẫn chưa xuất phát. 

- Cô Walsh ấy mà! 

- Đúng là cô ấy đã lưu lại chỗ chúng tôi đêm qua, nhưng cô ấy đi rồi. 

- Một mình chứ? 

- Tôi không tin là đã nhìn thấy cô ấy đi cùng ai, người thường trực đáp, mỗi lúc một lúng túng hơn. 

Một tràng còi xe khiến Adam quay người nhìn ra phố. 

- Thưa ông? Người thường trực lên tiếng để lần nữa thu hút sự chú ý của anh về phía mình. Chúng tôi có thể mời ông một bữa nhẹ chăng? 

- Nhân viên lễ tân chỗ ông vừa bảo tôi rằng ông bà Walsh đã rời khỏi khách sạn kia mà! Vậy là có hai người, cô ấy đi một mình hay là không nào? Adam hỏi bằng giọng cương quyết. 

- Nhân viên của chúng tôi hẳn đã nhầm, người thường trực khẳng định và trợn mắt nhìn cô thiếu nữ, chúng tôi có nhiều khách nghỉ mà... Một tách cà hay có lẽ một tách trà chăng? 

- Cô ấy đi lâu chưa? 

Người thường trực kín đáo liếc lần nữa ra ngoài phố. Cuối cùng thì chiếc limousine màu đen cũng đã chuyển bánh. Ông thở phào nhẹ nhõm khi nhìn thấy chiếc xe đi xa dần. 

- Được một lúc rồi, tôi nghĩ thế, ông trả lời. Chúng tôi có những món nước quả ép tuyệt lắm! Để tôi dẫn ông đến phòng phục vụ điểm tâm, ông là khách mời của khách sạn chúng tôi.



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
20/11/2011 22:11 # 13
Chick_hunter
Cấp độ: 5 - Kỹ năng: 3

Kinh nghiệm: 0/50 (0%)
Kĩ năng: 5/30 (17%)
Ngày gia nhập: 11/11/2011
Bài gởi: 100
Được cảm ơn: 35
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Chị ơi dài wa....đọc lòi mắt lun hihi


           

 

 
20/11/2011 22:11 # 14
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


Trích:
 Chị ơi dài wa....đọc lòi mắt lun hihi
 còn mười mấy phần nữa em! hihi


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
20/11/2011 22:11 # 15
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Họ không trao đổi với nhau một lời nào về chuyến đi. Julia chúi mũi vào ô cửa kính.

° ° °

Mỗi lần ngồi trên máy bay, em lại ngóng đợi gương mặt anh hiện ra giữa những đám mây, lần nào cũng lại hình dung ra những đường nét của anh trong những hình dạng trải ra trong bầu trời. Em đã viết cho anh hàng trăm lá thư, nhận hàng trăm lá thư từ anh, mỗi tuần hai lá. Chúng ta đã thề sẽ gặp lại nhau, ngay khi em đủ khả năng tài chính. Thời gian rảnh sau giờ học, em làm việc kiếm tiền để quay về bên anh. Em đã phục vụ trong các nhà hàng, xếp chỗ cho người xem trong các phòng chiếu phim, không thì sẽ là phát tờ rơi; và làm việc gì em cũng nghĩ đến buổi sáng khi rốt cuộc em cũng có thể đặt chân đến Berlin, trên sân bay nơi anh đang đợi em. 

Biết bao đêm em đã ngủ thiếp đi trong ánh mắt anh, trong ký ức về những tràng cười đã bám riết chúng ta trên những đường phố của thành phố màu xám? Đôi khi, lúc anh để em lại một mình với bà anh, bà bảo em rằng chớ có tin vào tình yêu giữa anh và em. Rằng nó sẽ không bền đâu. Giữa hai ta có quá nhiều khác biệt, giữa cô gái miền Tây là em và cậu trai miền Đông là anh. Nhưng mỗi lần anh trở về và ôm em trong vòng tay, em lại nhìn bà qua bờ vai anh và mỉm cười với bà, chắc mẩm rằng bà đã lầm đấy thôi. Khi bố ép em ngồi lên chiếc xe đậu dưới khung cửa sổ nhà anh, em đã thét gọi tên anh, em những muốn anh nghe thấy tiếng em. Buổi tối hôm chương trình thời sự thông báo về "vụ rắc rối" tại Kaboul đã cướp đi sinh mạng của bốn phóng viên, trong đó có một người Đức, thậm chí ngay lúc ấy em đã biết rằng họ đang nhắc đến anh. Máu đã rời khỏi cơ thể em. Và trong nhà hàng nơi em đang lau chùi cốc chén đằng sau một cái quầy bằng gỗ cũ kỹ, em đã bất tỉnh nhân sự. Người dẫn chương trình nói rằng chiếc ô tô chở anh đã nổ tung vì cán phải một quả mìn của quân đội Xô Viết còn sót lại. Như thể số phận đã muốn bắt kịp anh, không bao giờ để anh đi về phía tự do của mình. Những tờ báo không đưa ra lời giải thích rõ ràng nào, bốn nạn nhân, thế là đủ với thiên hạ; danh tính của những người thiệt mạng thì có gì là quan trọng, cuộc sống của họ, tên của những người mà họ bỏ lại trong niềm thiếu vắng. Nhưng em vẫn biết rằng người Đức mà họ nhắc tới chính là anh. Em phải mất đến hai ngày mới gặp được Knapp; hai ngày không thể nuốt nổi bất cứ thứ gì. 

Thế rồi rốt cuộc anh ấy cũn gọi lại cho em; nghe giọng anh ấy, em lập tức hiểu rằng anh ấy đã mất đi một người bạn, còn em thì mất đi người mình yêu. Bạn thân nhất của anh ấy, anh ấy nhắc đi nhắc lại cụm từ này. Anh ấy cảm thấy có lỗi vì đã giúp anh trở thành phóng viên; còn em, cõi lòng tan nát, em an ủi anh ấy. Anh ấy đã giúp anh trở thành người như anh muốn. Em nói với anh ấy rằng anh đã tự trách mình biết mấy vì chưa bao giờ tìm ra đủ lời để cảm ơn anh ấy. Thế là, Knapp và em đã nói về anh, để anh không hoàn toàn rời bỏ bọn em. Chính anh ấy nói với em rằng thi thể của anh sẽ không bao giờ được nhận dạng. Một nhân chứng kể lại rằng khi quả mìn được phát nổ, chiếc xe tải chở các anh đã bị thổi tung. Những mảnh tôn vụn phủ đầy mặt đường suốt hàng chục mét, và chính tại đấy các anh đã chết, chỉ còn lại một miệng hố rộng hoác, một bộ khung xe rời rã, những chứng nhân cho tính phi lý và tàn ác của con người. Knapp không tha thứ cho mình vì đã cử anh tới đó, tới Afghanistan. Một sự thay thế vào phút chót, anh ấy nói giữa những tiếng thổn thức. Giá như chỉ cần anh không có mặt ngay gần bên anh ấy khi anh ấy đang tìm một người có thể mau chóng lên đường. Nhưng em biết rằng anh ấy đã tặng anh món quà đẹp nhất mà anh có thể mong chờ. Xin lỗi, xin lỗi, Knapp vừa khóc nấc lên vừa nhắc đi nhắc lại, còn em thì tuyệt vọng, em không thể nhỏ ra dù chỉ một giọt nước mắt, khóc lóc sẽ tước mất của em thêm chút nữa về anh. Em đã không bao giờ có thể gác máy, Tomas ạ, em đặt ống nghe lên giá, cởi bỏ tấm tạp dề rồi em đi ra phố. Em cứ bước về phía trước mà không biết mình đang đi đâu. Xung quanh em, thành phố sôi động như không có chuyện gì xảy ra. 

Ai ở đây có thể biết rằng sáng nay, trong vùng ngoại ô Kaboul, một người đàn ông ba mươi tuổi tên là Tomas đã chết tan xác vì cán phải một quả mìn? Ai bận tâm đến chuyện đó? Ai có thể hiểu được rằng em sẽ không còn gặp lại anh nữa, rằng thế giới của em sẽ không bao giờ giống như trước nữa? 

Em không ăn gì từ hai ngày nay, em nói với anh rồi nhỉ? Có hề chi. Em sẽ nói mọi chuyện hai lần để tiếp tục kể anh nghe về em, để nghe anh kể em nghe về anh. Đến một góc phố, em ngã sụp xuống. 

Anh có biết rằng nhờ có anh mà em đã quen Stanley, cái người đã trở thành bạn thân nhất của em, thậm chí là ngay từ giây phút bọn em gặp nhau không? Anh ấy bước ra từ căn phòng kế bên phòng em. Anh ấy bước đi, vẻ thẫn thờ, trong hành lang bệnh viện dài dằng dăc; cánh cửa phòng em đang để ngỏ, anh ấy dừng lại, nhìn em lúc ấy đang nằm buồn thiu trên giường, rồi anh ấy mỉm cười với em. Không một anh hề nào trên thế gian này có thể tô vẽ cho gương mặt mình một nụ cười sầu thảm đếm vậy. Môi anh ấy run run. Bỗng nhiên, anh ấy khẽ nói bốn từ mà em vẫn không cho phép mình thốt ra lời; nhưng, với anh ấy, dường như em có thể biến nó thành một lời thú tội bởi vì em chưa hề quen anh ấy. Tâm sự với một người chưa từng quen không giống như tâm sự với một người thân cận, nó không khiến sự thật trở nên không thể đảo ngược, đó chỉ là một sự ruồng bỏ mà ta có thể xóa đi với cục tẩy của sự không hay biết: "Anh ấy chết rồi" Stanley nói, và em đáp lại anh ấy, "Vâng, anh ấy chết rồi". Anh ấy nói với em về bạn trai của mình, còn em nói với anh ấy về anh. Em và Stanley, bọn em đã quen nhau như thế, vào cái ngày mà cả hai bọn em đều mất đi người mình yêu. Edward chết vì Sida còn anh thì chết vì một đại dịch khác vẫn đang tiếp tục tàn phá nhân loại. Anh ấy ngồi ở cuối giường em, hỏi em rằng liệu em có thể khóc không, và vì em đã nói với anh ấy sự thật, anh ấy cũng thú nhận rằng mình cũng không thể khóc nổi. Anh ấy chìa tay ra cho em, em nắm lấy bàn tay ấy và bọn em đã nhỏ những giọt nước mắt đầu tiên, những giọt nước mắt đã kéo anh ra xa khỏi em, và kéo Edward ra xa khỏi anh ấy.

° ° °

Anthony Walsh từ chối đồ uống do tiếp viên hàng không đem đến. Ông liếc nhìn về phía cuối máy bay. Khoang hành khách hầu như thưa thớt, nhưng Julia vẫn muốn ngồi cách ông mười hàng ghế, cô ngồi bên ô cửa kính, ánh mắt vẫn đăm đắm nhìn ra bầu trời.

° ° °

Sau khi xuất viện, em đã bỏ nhà đi, buộc một dải ruy băng màu đỏ quanh chồng thư ngót trăm lá của anh. Em cất chúng vào ngăn kéo bàn trong phòng riêng. Em không cần phải đọc lại chúng mới nhớ thương. Em chất quần áo đầy một va li rồi ra đi mà không nói lời từ biệt bố em, không thể tha thứ cho ông vì đã chia lìa hai ta. Khoản tiền dành dụm tích cóp này là để một ngày kia gặp lại anh, em đã dùng nó để sống xa ông. Vài tháng sau, em bắt đầu sự nghiệp hình họa và bắt đầu cuộc sống không anh. 

Stanley và em gặp gỡ nhau thường xuyên. Tình bạn giữa bọn em nảy sinh từ đó. Ngày ấy, anh ấy bán hàng tại một khu chợ trời ở Brooklyn. Bọn em đã hình thành thói quen mỗi tối gặp nhau ở giữa cầu. Đôi khi bọn em đứng đó hàng giờ liền, tựa người vào lan can cầu, ngắm những con tàu diễu qua trước mắt, xuôi hay ngược dòng nước; có những lúc, bọn em lại dạo bộ dọc hai bờ sông. Anh ấy kể em nghe về Edward, còn em kể anh ấy nghe về anh và khi ai đã về nhà nấy, anh ấy mang theo một chút về hai người các anh trong hành lý đêm của mình. 

Em đã tìm kiếm hình bóng anh trong những bóng cây đổ dài trên vỉa hè vào buổi sáng, những đường nét của gương mặt anh trong những tia phản chiếu trên sông Hudson; em đã tìm kiếm vô vọng những lời nói của anh trong mọi làn gió thổi qua thành phố. Trong hai năm liền, em cũng đã thăm lại mỏi khoảnh khắc chúng ta có tại Berlin, đôi khi em cười vì chúng ta, nhưng không bao giờ ngừng nghĩ về anh. 



Em chưa hề nhận được lá thư anh gửi, Tomas ạ, lá thư hẳn đã báo cho em biết là anh vẫn còn sống. Em không biết anh viết gì cho em. Đã ngót hai chục năm trôi qua và em có cái cảm giác lạ lùng là anh vừa gửi lá thư đó cho em hôm qua. Có lẽ là sau ngần ấy tháng bặt tin nhau, anh cho em hay rằng anh quyết định sẽ không bao giờ đợi em ở một sân bay nào nữa. Rằng thời gian trôi qua kể từ ngày em ra đi đã trở nên quá dài. Rằng có thể đã tới lúc tình cảm giữa hai ta phai nhạt; tình yêu rồi cũng có lúc kết thúc đối với những ai đã quên hơi của người kia. Có lẽ anh đã thôi không còn tin vào tình yêu nữa, nếu không thì có lẽ là em đã đánh mất anh. Hai mươi năm hay ngót quãng thời gian đó để đến nơi là quá dài đối với một bức thư. 

Chúng ta không còn như trước nữa. Em sẽ lại vượt qua quãng đường từ Paris đến Berlin chăng? Chuyện gì sẽ xảy ra khi ánh mắt của chúng ta giao nhau lần nữa, anh ở phía này của bức tường và em ở phía bên kia? Anh có dang rộng vòng tay đón em, như đã làm với Knapp vào một buổi tối tháng Mười một năm 1989 không? Chúng ta sẽ lại chạy khắp những con đường của một thành phố, nó thì đã trẻ lại trong khi chúng ta thì lại già đi. Hôm nay đôi môi anh có còn dịu ngọt như trước không? Lá thư ấy có lẽ nên nằm lại trong ngăn kéo bàn viết, có lẽ như thế sẽ tốt hơn.

° ° °

Tiếp viên hàng không vỗ nhẹ vào vai cô. Đã đến lúc phải thắt chặt dây an toàn, máy bay đang tiến lại gần New York.

° ° °

Adam đành phải trải qua một phần thời gian trong ngày tại Montréal. Nữ nhân viên của hãng hàng không Air Canada đã gắng hết sức để tỏ ra lịch thiệp với anh, than ôi, chiếc ghế trống duy nhất để quay trở lại New York được tìm thấy trên một chuyến bay cất cánh lúc bốn giờ chiều. Nhiều lần anh đã thử gọi cho Julia nhưng đều gặp lời nhắn cài sẵn của cô.

° ° °

Xa lộ khác, lần này qua cửa kính xe người ta có thể nhận ra những tòa tháp của Manhattan. Chiếc Lincoln chui vào đường hầm cùng tên. 

- Bố có cái cảm giác lạ thường là không được chào đón tại nhà con gái mình nữa. Nếu phải chọn giữa căn phòng áp mái dột nát của con với những căn hộ của bố, bố thà ở nhà mình còn hơn. Thứ Bảy bố sẽ quay lại để nằm vào hòm trước khi họ đến mang nó đi. Tốt hơn là con gọi cho Wallace, để yên tâm rằng ông ấy sẽ không ở đó, Anthony nói và chìa ra cho Julia mẩu giấy có ghi một số điện thoại. 

- Quản gia của bố vẫn ở trong nhà bố hả? 

- Bố không biết đích xác thư ký riêng của bố đang làm gì. Từ khi chết đi, bố chưa có dịp nào để hỏi ông ấy về thời gian biểu mới. Nhưng nếu con muốn tránh cho ông ấy một cơn nhồi máu, sẽ là sáng suốt khi ông ấy không có mặt tại nhà lúc chúng ta quay về. Và dù con có nói với ông ấy chuyện gì đi nữa, sẽ tiện hơn nhiều cho bố nếu con cho ông ấy một lý do hợp lý để đi đến tận chân trời góc bể cho đến cuối tuần. 

Thay cho câu trả lời, Julia bằng lòng bấm số của Wallace. Một thông báo giải thích rằng vì chủ nhân vừa qua đời, ông sẽ đi nghỉ một tháng. Không thể để lại tin nhắn cho ông. Trong trường hợp khẩn cấp liên quan đến việc làm ăn của ngài Walsh, xin liên lạc trực tiếp với công chứng viên của ông. 

- Bố có thể yên tâm được rồi, đường thông hè thoáng! Julia nói và cất điện thoại di động vào túi áo. 

Nửa tiếng sau, chiếc xe đỗ dọc theo vỉa hè, trước dinh thự riêng của Anthony Walsh. Julia ngắm nhìn mặt tiền tòa dinh thự và ánh mắt cô ngay lập tức hướng lên một khung cửa sổ tầng ba. Chính tại nơi đó, vào cuối một buổi chiều, khi ở trường về, cô đã trông thấy mẹ mình nghiêng người qua ban công trong một tư thế rất nguy hiểm. Cô sẽ làm gì nếu không phải là thét gọi tên bà? Mẹ cô, khi nhìn thấy con gái, đã vẫy vẫy tay chào cô, như thể cử chỉ này sẽ xóa sạch mọi dấu vết của việc bấy giờ bà sắp làm. 

Anthony mở chiếc va li nhỏ của mình ra và giơ lên một chùm chìa khóa. 

- Họ giao cho bố cả chìa khóa nhà nữa sao? 

- Cứ cho là bọn bố đã dự kiến giả thuyết con không muốn giữ bố trong nhà riêng, cũng không hủy bố trước thời hạn... Con mở cửa nhé? Không nên chờ đến lúc một người hàng xóm nhận ra bố! 

- Bởi vì bây giờ bố lại còn quen biết hàng xóm của mình hay sao? Chuyện này cũng mới đây! 

- Julia! 

- Thôi được, cô thở dài và xoay nắm đấm cửa của cánh cửa sắt uốn nặng trịch. 

Ánh sáng ùa vào cùng cô. Mọi thứ đều nguyên vẹn, như vẫn được sắp đặt trong những ký ức xưa cũ nhất của cô; những viên gạch lát ca rô màu đen và trắng trong đại sảnh tạo thành một bàn cờ khổng lồ. Bên phải, nhịp cầu thang bằng gỗ tối màu dẫn lên gác vẽ nên một đường cong duyên dáng. Lan can bằng gỗ lúp, được chạm trổ bởi bàn tay của một nghệ nhân danh tiếng trong giới, bố cô rất thích thú khi dẫn tên người thợ đó ra khi dẫn khách đi tham quan những diện tích sinh hoạt chung trong ngôi nhà. Phía cuối, cánh cửa mở thông sang phòng ăn và phòng bếp, chỉ riêng hai phòng này thôi cũng đã rộng hơn bất cứ nơi nào Julia đã sống kể từ khi bỏ nhà ra đi. Bên trái là phòng làm việc nơi bố cô thường ngồi điền những sổ sách chứng từ cá nhân, những tối hiếm hoi mà ông có mặt ở nhà. Những dấu hiệu cho thấy sự giàu sang có mặt ở khắp mọi nơi này đã đưa Anthony Walsh ra xa khỏi quãng thời gian ông phục vụ cà phê trong một tòa tháp tại Montréal. Trên bức tường lớn, một bức chân dung vẽ cô hồi nhỏ. Liệu rằng hôm nay, trong đôi mắt cô có còn lại vài tia sáng của ánh mắt nhìn mà một họa sĩ đã nắm bắt được khi cô mới lên năm? Julia ngước đầu để ngắm nhìn khối kiến trúc ô lõm trên trần nhà. Nếu đây đó có vài mạng nhện để rủ xuống những góc cạnh của gỗ lát tường thì cảnh bài trí đã mang hơi hướng ma quái, nhưng ngôi nhà của Anthony Walsh luôn được bảo dưỡng một cách hoàn hảo. 

- Con còn nhớ phòng riêng của con nằm ở bên chái nào không? Anthony hỏi khi bước vào phòng làm việc. Bố để con tự tìm tới đó nhé, bố chắc là con vẫn còn nhớ đường. Nếu con đói, chắc vẫn còn gì đó để ăn tạm trong tủ bếp, các loại mứt hoặc vài món đồ hộp. Bố chết chưa lâu đến mức ấy. 

Và ông nhìn Julia đang leo cầu thang hai bậc một, bàn tay lướt đi trên tay vịn, hệt như thói quen ngày cô còn bé; và khi đến thềm nghỉ, hệt như khi còn nhỏ, cô quay lại để xem có ai dõi theo mình không. 

- Gì thế? Cô hỏi khi đứng nhìn ông từ trên đầu cầu thang. 

- Không có gì, Anthony đáp và mỉm cười. 

Rồi ông bước vào phòng làm việc. 

Hành lang trải dài trước mắt cô. Cánh cửa đầu tiên dẫn vào phòng mẹ cô. Julia đặt bàn tay lên nắm đấm cửa, tay nắm xoay chầm chậm và nảy lên hết sức khẽ khàng đúng lúc cô từ bỏ ý định bước vào bên trong. Cô tiến bước cho đến cuối hành lang mà không rẽ vào đâu nữa.

° ° °

Một thứ ánh sáng màu trắng sữa kỳ lạ lan tỏa trong căn phòng. Những tấm màn cửa bằng voan che kín các khung cửa sổ bay phấp phới trên tấm thảm với màu sắc nguyên vẹn. Cô tiến lại gần chiếc giường, ngồi xuống mép giường và dụi mặt vào gối, hít thật sâu mùi thơm tỏa ra từ áo gối. Ký ức về những đêm trôi qua dưới tấm ga trải giường, lén lút đọc sách với một cây đèn pin chợt ùa về; những buổi tối khi mà các nhân vật được sáng tạo ra nhảy múa sôi động trên những tấm rèm cửa, khi cửa sổ để mở. Chừng ấy hình bóng đồng lõa đến theo cách đó và lấp đầy những lúc giấc ngủ chưa đến. Cô duỗi hai chân và nhìn quanh một lượt. Chiếc đèn chùm, giống như một vật chuyển động nhưng quá nặng để những chiếc cánh màu đen của nó có thể xoay mình khi cô trèo lên một chiếc ghế và thổi vào đó. Gần cái tủ, chiếc rương bằng gỗ nơi cô lèn chặt ních những cuốn vở, vài bức ảnh, mấy tấm bưu ảnh về những xứ sở mang cái tên thần diệu, được mua ở tiệm bán đồ văn phòng phẩm hoặc đổi bằng những xứ sở mà cô có nhiều bản trùng lặp; sao phải đi đến cùng một nơi những hai lần trong khi còn bao nhiêu nơi khác để khám phá cơ chứ? Ánh mắt cô hướng về phía giá sách trên đó những cuốn sách giáo khoa của cô được xếp gọn ghẽ, thẳng hàng, được dồn sát lại bằng hai món đồ chơi cũ, một con chó màu đỏ và một con mèo màu xanh lơ từ bấy lâu nay không hề quen biết. Trang bìa màu đỏ lựu của một cuốn sách giáo khoa lịch sử, bị bỏ quên từ cuối năm cấp hai, mời gọi cô ngồi vào bàn học. Julia rời khỏi giường và lại gần bàn. 

Mặt gỗ bị mũi nhọn của com pa cào xước, cô đã ngồi hàng giờ liền để chơi lông bông như thế, chép cẩn thận vào các cuốn vở một chuỗi dài không đổi, ngay khi Wallace gõ cửa để kiểm tra xem cô có làm đầy đủ bài tập về nhà không. Hàng trang liền chỉ toàn "tôi chán, tôi chán, tôi chán". Tay nắm bằng sứ của ngăn kéo mang hình một ngôi sao. Chỉ cần hơi nhấc lên là ngăn kéo trượt ra dễ dàng. Cô mở hé ra. Một cây bút dạ màu đỏ lăn xuống đáy ngăn. Julia lập tức thọc tay vào. Độ mở không rộng lắm, và đồ xác láo đã vuột mất. Julia bị cuốn vào cuộc chơi, bàn tay cô tiếp tục dò dẫm thám hiểm bên trong ngăn kéo. 

Ngón cái của cô nhận thấy trong đó chiếc ê ke, ngón út của cô nhận biết một chuỗi hạt thắng được ở chợ phiên, quá xấu để có thể đem ra trưng. Ngón đeo nhẫn vẫn ngập ngừng. Có phải con ếch gọt bút chì hay con rùa trục cuộn băng dính? Ngón giữa sượt nhẹ qua một mặt giấy. Ở góc, phía trên bên phải, một đường nổi rất mảnh hé lộ mép răng cưa của một con tem. Năm tháng trôi qua đã làm đường viền bị bong nhẹ. Trên phong bì cô đang lướt ngón tay trong góc tối của ngăn kéo bàn, cô lần theo những dòng chữ được viết nên bằng nét bực của một chiếc bút lông. Ra sức để không mất dấu nét chữ, như trong trò chơi đoán biết những chữ được vạch ra bằng đầu ngón tay trên da của một người mà ta yêu, Julia nhận ra nét chữ của Tomas. 

Cô tóm lấy chiếc phong bì, bóc niêm và lôi từ đó ra một bức thư. 

Tháng Chín 1991, 

Julia, 

Anh đã sống sót qua cơn điên loại của loài người. Anh là người duy nhất thoát nạn trở về từ một cuộc phiêu lưu ảm đạm. Như anh đã kể với em trong thư trước, bọn anh rốt cuộc đã lên đường tìm kiếm Massoud. Anh quên khuấy trong tiếng nổ ngay lúc này đây vẫn còn vang vọng trong anh là tại sao anh lại muốn gặp ông ấy đến thế. Anh đã quên lòng nhiệt tình đã thúc đẩy anh đi đến chỗ quay phim sự thực về ông ấy. Anh chỉ còn thấy nỗi căm hận đã sượt qua anh và cướp mất mạng sống của những người bạn đồng hành với anh trong chuyến đi đó. Dân làng đã lôi được anh ra từ đống đổ nát, cách nơi lẽ ra anh đã phải chết hai chục mét. Tại sao luồng hơi đó lại chỉ hất tung anh lên trong khi cũng chính nó đã khiến những người khác chết tan xác? Anh không bao giờ biết được. Vì ngỡ là anh đã chết, họ đặt anh nằm lên một chiếc xe bò. Nếu một cậu bé cưỡng lại được mong muốn tháo chiếc đồng hồ của anh để đeo vào tay mình, bất chấp nỗi sợ hãi đến mức ấy, nếu cánh tay anh không cử động và cậu bé không hét lên, hẳn là họ đã đem anh đi chôn rồi. Nhưng anh đã nói với em rồi mà, anh đã sống sót qua cơn điên loạn của loài người. Người ta kể rằng khi cái chết đã chọn ai đó, người ta sẽ nhìn lại cả cuộc đời mình. Khi nó nuốt chửng rồi thì người ta không nhìn thấy gì như thế nữa. Trong cơn mê sảng luôn đồng hành với những cơn sốt của anh, anh chỉ nhìn thấy gương mặt em. Anh những muốn khiến em phải ghen khi nói với em rằng cô y tá chăm sóc anh là một phụ nữ trẻ trung xinh đẹp, nhưng đó lại là một người đàn ông và bộ râu dài của ông không có gì là hấp dẫn cả. Anh đã trải qua bốn tháng trời trên một giường bệnh tại Kaboul. Da anh phỏng rộp, nhưng anh không viết cho em để than phiền đâu. 

Năm tháng trời không gửi thư cho em, thế là quá nhiều khi chúng ta đã quen viết cho nhau hai lá mỗi tuần. Năm tháng im lặng, gần nửa năm im lặng, còn dài hơn thế nhiều khi đã bao lâu nay chúng ta không được gặp mà cũng không được chạm vào nhau. Yêu nhau mà phải xa nhau thế này thật quá tàn nhẫn, thế nên ngày nào chuyện này cũng cứ ám ảnh tâm trí anh. 

Knapp đã bay sang Kaboul ngay khi cậu ấy biết tin. Em phải chứng kiến cảnh cậu ấy khóc như thế nào khi bước vào phòng bệnh chung, và anh cũng đã có phần khóc như vậy, anh thừa nhận với em điều đó. Thật may là người bị thương nằm giường kế bên đang say giấc, nếu không, bọn anh sẽ bị xem như loại người nào giữa những người lính có lòng dũng cảm bền bỉ này? Nếu cậu ấy không gọi cho em trước khi lên đường thì cũng là vì anh đã yêu cầu cậu ấy đừng làm vậy. Anh biết cậu ấy đã báo cho em biết về cái chết của anh, chính anh sẽ đích thân nói với em rằng anh còn sống. Có lẽ lý do thực sự không phải vậy, có lẽ bằng cách viết thư cho em, anh muốn để em được tự do theo đuổi cái đám tang của câu chuyện của chúng ta, nếu như em đã biết đến nó. 

Julia, tình yêu của chúng ta nảy sinh từ những điều khác biệt giữa hai ta, từ cái ham thích khám phá mà chúng ta lại tìm được mỗi sáng khi thức dậy. Và bởi anh đang nhắc với em về buổi sáng,em sẽ không bao giờ biết được số giờ anh đã trải qua để ngắm em say giấc, ngắm em mỉm cười đâu. Bởi em mỉm cười trong giấc ngủ, ngay cả khi em không biết điều ấy. Em sẽ không bao giờ đếm được số lần em nép mình vào anh, nói mơ những từ anh không hiểu nổi; có đến cả trăm lần, đó là con số chính xác đấy. 

Julia, anh biết rằng cùng nhau vun đắp là một cuộc phiêu lưu khác. Anh không ưa gì bố em và rồi anh lại muốn hiểu tâm trạng của ông. Nếu ở vào cùng một hoàn cảnh, liệu anh có hành động như bố em không? Nếu em sinh cho anh một đứa con gái, nếu em bỏ lại anh một mình với con bé, nếu con bé phải lòng một người nước ngoài sống trong một thế giới được tạo nên bởi chẳng gì hết, hoặc bởi tát cả những thứ khiến anh khiếp sợ, có lẽ anh cũng sẽ hành động như ông. Anh không bao giờ muốn kể em nghe về những năm tháng sống đằng sau bức tường, anh không muốn phá hỏng bất cứ giây phút nào trong thời gian ta bên nhau bằng những ký ức về điều phi lý, em xứng đáng được nghe những điều tốt đẹp hơn là những câu chuyện buồn về điều tệ hại nhất mà con người có thể tạo ra, nhưng bố em chắc chắn biết về sự tồn tại của những điều như thế và đó không phải là điều ông mong muốn cho em. 

Anh hận bố em vì đã bắt cóc em và bỏ lại anh với khuôn mặt đầu máu trong phòng, không thể giữ em lại. Anh đã giận dữ đấm vào những bức tường nơi giọng nói của em vẫn còn âm vang, nhưng anh đã muốn hiểu. Làm thế nào để nói cho em biết là anh yêu em mà không thử ít ra là một lần? 

Em đã quay lại với cuộc sống của em, trước sức ép từ mọi phía. Em còn nhớ không, em lúc nào cũng nhắc đến những dấu hiệu mà cuộc sống vẽ nên trước mắt chúng ta, anh thì anh không tin vào những dấu hiệu ấy, nhưng cuối cùng em đã thuyết phục được anh, ngay cả khi tối nay, lúc anh viết cho em những dòng này, tại đây, đó lại chính là nguyên do của điều tệ nhất. 

Anh đã yêu em như con người em vốn thế, và không bao giờ anh muốn em đổi khác, anh yêu em không cần phải hiểu mọi chuyện, anh tin rằng thời gian sẽ cho anh cơ hội để hiểu; có lẽ từ đầu đến cuối tình yêu này, đôi khi anh quên không hỏi em liệu em có yêu anh đến mức chọn lựa tất cả những thứ đã chia cắt chúng ta hay không. Cũng có thể là em không bao giờ để anh có đủ thời gian để hỏi em câu đó, lại càng không dành thời gian để tự đặt ra cho mình câu hỏi đó. Nhưng thời điểm này đã đến, bất chấp ý chí của chúng ta. 

Ngày mai anh sẽ quay lại Berlin. Anh sẽ bỏ lá thư này vào thùng thư đầu tiên anh nhìn thấy. Nó sẽ đến với em trong vài ngày nữa như mọi lần; và nếu anh tính chính xác, sẽ vào khoảng ngày 16 hay 17 gì đó. 

Em sẽ thấy trong chiếc phong bì này một thứ mà anh vẫn giữ bí mật về nó, anh đã muốn gửi cho em tấm ảnh chụp anh, nhưng lúc này anh không được phogn độ lắm, vả lại làm vậy về phần anh sẽ là hơi tự phụ. Thế nên đây chỉ là một chiếc vé máy bay. Em thấy đấy, em sẽ không cần làm việc suốt nhiều tháng dài đằng đẵng để trở về bên anh nữa, nếu em vẫn còn muốn làm vậy. Anh cũng đã dành dụm tiền để đến tìm em. Anh đã mang chiếc vé bên người đến tận Kaboul này, lẽ ra anh nên gửi nó cho em, nhưng như em thấy đấy... Nó vẫn còn hợp thức. 

Anh sẽ đợi em tại sân bay Berlin vào ngày cuối cùng hàng tháng. 

Nếu chúng ta gặp lại nhau, anh sẽ giữ lời hứa, sẽ không bắt cóc đứa con gái mà anh sẽ hạ sinh cho anh khỏi người đàn ông mà một ngày nào đó con bé sẽ chọn. Và dù cho người ấy có khác biệt đến thế nào, anh sẽ thấu hiểu cái người đã đánh cắp con bé khỏi anh, anh sẽ thấu hiểu con gái anh bởi anh đã yêu người mẹ sinh ra nó. 

Julia, anh sẽ không bao giờ trách giận em đâu, anh sẽ tôn trọng quyết định của em, dù nó là gì đi nữa. Nếu em không đến, nếu anh có phải đơn độc rời khỏi sân bay, vào ngày cuối cùng của tháng, hãy biết rằng anh sẽ thấu hiểu, anh viết cho em chính là để nói với em điều này. 

Thế nên, anh sẽ không bao giờ quên gương mặt tuyệt vời mà cuộc sống đã tặng cho anh vào một buổi tối tháng Mười một, một buổi tối khi niềm hy vọng quay trở lại, anh trèo lên một bức tường để rồi ngã vào vòng tay em, anh người đến từ phía Đông và em người đến từ phía Tây. 

Em đang và sẽ mãi lưu lại trong ký ức của anh như điều đẹp đẽ nhất từng xảy đến với anh. Khi viết cho em những từ này anh mới hiểu là anh yêu em nhiều bao nhiêu. 

Có lẽ là hẹn sớm gặp lại. Dù sao chăng nữa, em vẫn còn đó, em sẽ luôn còn đó. Ở đâu đó, anh biết rằng em đang hít thở, và thế đã là quá nhiều rồi. 

Anh yêu em, 

Tomas. 

Một gói nhỏ với lớp giấy bọc bên ngoài đã ngả vàng rơi ra từ phong bì. Julia mở ra. Trên lớp giấy màu đỏ của một chiếc vé máy bay có dòng chữ được nhập bằng máy: Fraülein Julia Walsh, New York - Paris - Berlin, 29 tháng Mười một 1991. Julia cất lại tấm vé và bì thư vào ngăn kéo bàn. Cô mở hé cửa sổ rồi quay lại nằm dài trên giường. Tay gối sau đầu, cô nằm như thế hồi lâu ngắm nhìn những tấm rèm của phòng mình, hai vạt vải nơi những người bạn cũ của cô dạo chơi, những tòng phạm của nỗi cô độc thuở xưa được tìm lại.

° ° °

Đầu giờ chiều, Julia rời phòng mình để xuống phòng ăn. Cô mở ngăn tủ bếp nơi Wallace lúc nào cũng xếp đầy những lọ mứt. Cô vớ một gói bánh bít cốt trên giá, chọn một hũ mật ong rồi đến ngồi ở bàn bếp. Cô nhìn dấu múc bằng thìa trong hỗn hợp sền sệt vàng sánh. Dấu vết lạ thường, hẳn là do Anthony Walsh để lại khi ông dùng bữa sáng cuối cùng trong đời. Cô hình dung ra ông, ngồi ở chỗ mà cô đang ngồi bây giờ, một mình trước tách cà phê trong căn bếp rộng thênh này, đang đọc một tờ báo. Hôm ấy ông nghĩ đến chuyện gì nhỉ? Bằng chứng lý thú về một quá khứ đã khép lại từ nay. Tại sao các chi tiết bề ngoài không đáng kể này lại khiến cô nhận thức được, có lẽ là lần đầu tiên, rằng bố mình đã qua đời? Thường thì chỉ cần một chuyện không đâu, một đồ vật được tìm thấy, một thứ mùi, để gợi lại nơi bạn ký ức về một người đã mất. Và giữa không gian rộng lớn này, cũng là lần đầu tiên, tuổi thơ ấu của cô, dù có đáng bị rẻ rúng, cũng khiến cô phải nhớ. Có tiếng ho nơi cửa ra vào, cô ngước nhìn, Anthony Walsh đang mỉm cười với cô. 

- Bố vào được chứ? Ông hỏi và ngồi vào bàn đối diện cô. 

- Bố cứ tự nhiên! 

- Bố đặt mua bên Pháp đấy, mùi oải hương, con vẫn thích loại mật ong này chứ? 

- Như bố thấy đấy, có những thứ không hề thay đổi. 

- Cậu ấy nói gì với con trong thư vậy? 

- Con cho là chuyện đó chẳng liên quan gì tới bố. 

- Con đã quyết định chưa? 

- Bố đang nói đến chuyện gì kia? 

- Con biết rõ mà. Con định trả lời cậu ta như thế nào? 

- Sau hai mươi năm, như thế là hơi muộn rồi, đúng không? 

- Con đặt ra câu hỏi ấy cho con hay cho bố vậy? 

- Hôm nay, Tomas hẳn đã kết hôn, đã có con. Con có quyền gì để lại xuất hiện trong đời anh ấy? 

- Con trai, con gái, hoặc có lẽ là sinh đôi chăng? 

- Gì kia? 

- Bố hỏi con xem tài tiên đoán của con có cho con biết gia đình nhỏ đáng yêu của cậu ta giống với cái gì không thôi. Thế nào, con trai hay con gái? 

- Nhưng bố đang lảm nhảm gì vậy? 

- Sáng nay con còn ngỡ cậu ta đã chết, giờ đây có lẽ con phỏng đoán hơi nhanh để quyết định cái mà cậu ta đã làm với cuộc đời mình đấy nhỉ. 

- Hai mươi năm, khỉ thật, chứ chúng ta không nói đến quãng thời gian sáu tháng đâu! 

- Mười bảy năm! Quá thừa thời gian để ly dị nhiều lần, trừ khi cậu ta cũng lệch lạc như cậu bạn buôn đồ cổ của con. Cậu ta tên gì ấy nhỉ, Stanley à? Phải rồi, Stanley! 

- Và bố dám lôi chuyện đó ra làm trò cười! 

- Chao ôi, trò cười, cách xóa bỏ mọi yếu tố bất lợi của thực tế khi nó ập đến mới tuyệt làm sao; bố không còn nhớ ai đã nói thế, nhưng câu này rất đúng. Bố hỏi con lần nữa, con đã quyết định chưa? 

- Chẳng có gì để mà quyết định cả, giờ đã là quá muộn rồi. Con sẽ phải nói điều đó với bố bao nhiêu lần nữa đây, bố nên vui vì điều này mới phải chứ? 

- Quá muộn chỉ tồn tại khi mọi chuyện là bất khả vãn hồi. Là quá muộn để nói với mẹ con tất cả những điều bố muốn bà biết trước khi rời bỏ bố và bố rất muốn mẹ con viết cho bố một bức thư trước khi bà ấy mất trí. Về chúng ta, bố và con, quá muộn sẽ là thứ Bảy tới, khi bố tắt ngúm như một món đồ chơi tầm thường đã hết pin. Nhưng nếu Tomas vẫn còn sống, vậy thì xin lỗi đã nói trái lời cô, thì chưa phải là quá muộn. Và nếu con còn nhớ dù chỉ là chút ít phản ứng của mình khi hôm qua nhìn thấy bức tranh ấy, nhớ chút ít về điều đã dẫn dắt chúng ta đến đây vào sáng nay, thì đừng núp sau cái cớ là đã quá muộn. Hãy tìm cho mình một cái cớ khác đi. 

- Chính xác thì bố đang tìm kiếm điều gì vậy? 

- Bố chẳng tìm kiếm gì cả. Con thì ngược lại, có lẽ là tìm Tomas của con chăng, trừ phi... 

- Trừ phi gì kia? 

- Không có gì, thứ lỗi cho bố, bố cứ nói, bố nói hoài nhưng chính con mới là người có lý. 

- Đây đúng là lần đầu tiên con nghe thấy bố nói là con có lý đấy, con tò mò muốn biết đó là chuyện gì. 

- Không, biết cũng chẳng ích gì đâu, bố cam đoan với con đấy. Quá dễ để tiếp tục than vãn rên rỉ về chuyện có lẽ đã xảy ra. Bố đã nghe đủ kiểu nói dóc thông thường, "số phận đã muốn khác đi, vậy đấy" và bố miễn cho con những câu đại loại "tất cả là lỗi của bố em, ông ấy thực sự muốn làm hỏng đời em". Xét cho cùng, sống trong một bi kịch, đó là một cách để tồn tại như mọi cách khác. 

- Bố làm con phát sợ đấy! Trong một phút con đã ngỡ bố coi trọng con. 

- Căn cứ vào cách cư xử của con thì nguy cơ xảy ra việc đó là cực nhỏ! 

- Và ngay cả khi con muốn viết cho Tomas đến chết đi được, ngay cả khi con tìm được một địa chỉ nào đó để gửi thư cho anh ấy sau mười bảy năm đi chăng nữa, thì con cũng sẽ không đời nào làm vậy với Adam, làm vậy sẽ thật đê tiện. Bố không nghĩ là anh ấy đã nghe đủ những lời dối trá cho cả tuần rồi hay sao? 

- Nhất định là thế rồi! Anthony đáp bằng một vẻ còn hơn cả mỉa mai. 

- Lại chuyện gì nữa đây? 

- Con có lý. Nói dối do sơ suất rõ ràng là hay hơn, chính trực hơn! Vả lại điều này sẽ đem lại cho con và cậu ta cơ hội để chia sẻ điều gì đó. Cậu ta sẽ không còn là người duy nhất phải nghe con nói dối nữa. 

- Và con có thể biết bố đang nghĩ tới ai không? 

- Đến con chứ ai! Mỗi tối khi nằm ngủ cạnh cậu ta mà con có dù chỉ là một cảm giác nhung nhớ thoáng qua dành cho người bạn phía Đông của con, hấp, một lời nói dối nho nhỏ; một giây phút tiếc nuối nhỏ xíu, hấp, một lời nói dối nho nhỏ khác; mỗi khi con tự đặt cho mình câu hỏi để biết liệu rốt cuộc con có nên quay trở lại Berlin để biết đích xác hay không, hấp, lời nói dối nho nhỏ thứ ba. Chờ đã, để bố tính nhé, bố luôn sẵn khiếu trong môn toán mà; cứ cho là ba suy nghĩ nho nhỏ mỗi tuần, hai ký ức thoáng qua và ba sự so sánh giữa Tomas và Adam, chúng ta có ba cộng hai cộng ba được tám, nhân với năm mươi hai tuần, nhân tiếp với ba mươi năm chung sống, bố biết mà, bố lạc quan đấy, nhưng thế là... Thành ra mười hai nghìn bốn trăm tám mươi hai lời dối trá. Không tồi chút nào cho một cuộc sống lứa đôi! 

- Bố đang tự mãn lắm hả? Julia hỏi và vỗ tay một cách xấc xược. 

- Con không cho việc sống với một ai đó mà không chắc chắn về tình cảm của chính mình, là một lời nói dối, một sự phản bội hay sao? Con có hình dung cuộc sống sẽ như thế nào khi hai đứa cong ần gũi mà như đã trở nên xa lạ? 

- Bởi vì bố thì biết nó như thế nào ư? 

- Mẹ con đã gọi bố là ông trong suốt ba năm cối đời, và khi bố bước vào phòng bà ấy, mẹ con đã chỉ cho bố nhà tắm ở đâu vì ngỡ bố là thợ sửa ống nước. Con có muốn đưa bố mượn bút chì màu để bố vẽ cho con một bức tranh không? 

- Mẹ thực sự đã gọi bố là ông sao? 

- Những ngày đẹp trời thì đúng là như vậy, những ngày xấu trời, mẹ con gọi cảnh sát vì một kẻ lạ mặt đã đột nhập vào nhà bà. 

- Bố thực sự muốn mẹ viết thư cho bố trước khi...? 

- Đừng e sợ những từ thích đáng. Trước khi mất trí chứ gì? Trước khi chìm đắm trong cơn điên? Câu trả lời là có, nhưng chúng ta không ngồi đây để nhắc đến mẹ con. 

Anthony chăm chú nhìn cô con gái hồi lâu. 

- Thế nào, thứ mật ong này ngon không? 

- Ngon ạ, cô nói và ăn ngon lành miếng bánh bít cốt. 

- Hơi rắn hơn thường lệ phải không? 

- Vâng, hơi cứng hơn. 

- Bọn ong trở nên lười nhác hơn từ khi con bỏ nhà này đi đấy. 

- Đó là một khả năng, cô đáp và mỉm cười. Bố muốn chúng ta nói về bọn ong không? 

- Tại sao không nhỉ? 

- Bố nhớ mẹ nhiều lắm phải không? 

- Dĩ nhiên, hỏi gì lạ vậy? 

- Người phụ nữ khiến bố co chân nhảy vào rãnh nước bên đường ấy, chính là mẹ phải không? 

Anthony lục túi trong áo vest và lấy ra một bọc nhỏ. Ông đẩy nó trượt trên mặt bàn đến chỗ Julia ngồi. 

- Gì thế ạ? 

- Hai vé máy bay đi Berlin, chuyển tiếp tại Paris, vì vẫn chưa có đường bay thẳng. Máy bay của chúng ta sẽ cất cánh lúc năm giờ chiều, con có thể đi một mình, không đi, hoặc bố có thể đi cùng con, tùy con quyết định; chuyện này cũng mới lạ, phải không nào? 

- Sao bố làm vậy? 

- Con đã làm gì với mẩu giấy của mình rồi? 

- Giấy nào ạ? 

- Lời nhắn của Tomas mà con lúc nào cũng giữ trên người ấy, nó xuất hiện như có phép thần mỗi khi con dốc mọi thứ trong túi ra; cái mẩu giấy nhàu nhĩ lần nào cũng buộc tội bố về chuyện tàn ác bố gây ra cho con ấy. 

- Con làm mất rồi. 

- Cậu ta viết gì trong ấy thế? Chao ôi, mà đừng trả lời bố làm gì, tình yêu là một điều tầm thường thảm hại. Con thực sự đã để thất lạc mẩu giấy đó rồi à? 

- Con đã nói với bố rồi còn gì! 

- Bố không tin, những kiểu đồ vật này không bao giờ mất hẳn được. Ngày nào đó chúng sẽ lại trở ra, từ sâu trong tim. Nào, đi sửa soạn hành lý của con đi. 

Anthony đứng lên và rời khỏi phòng. Tới ngưỡng cửa, ông quay lại. 

- Nhanh lên nào; con không cần ghé qua nhà đâu, nếu thiếu đồ gì chúng ta sẽ mua khi tới nơi. Chúng ta không còn nhiều thời gian nữa, bố đợi con bên ngoài, bố đã gọi xe rồi. Bố như là có một cảm giác quen thuộc kỳ lạ khi nói với con câu này, bố có nhầm không nhỉ? 

Rồi Julia nghe tiếng bước chân bố cô vang lên trong đại sảnh của ngôi nhà. 

Cô đưa hai tay ôm đầu và thở dài. Qua những ngón tay không khép chặt, cô nhìn hũ mật ong để trên bàn. Cô cần phải đến Berlin, không phải để lần theo dấu Tomas, mà là để tiếp tục du ngoạn cùng bố cô. Và cô thành thực thề rằng đây không phải viện cớ hay lấy lý do thoái thác gì, và ngày nào đó chắc chắn Adam sẽ hiểu. 

Trở về phòng, khi cô lấy lại chiếc túi xách để cuối giường, ánh mắt cô hướng về phía giá sách. Một cuốn sách lịch sử bìa màu đỏ lựu vượt ra khỏi hàng. Cô ngần ngừ, cầm lấy cuốn sách và làm rơi ra một chiếc phong bì màu xanh lơ được giấu trong đó. Cô cất phong bì vào túi hành lý, đóng cửa sổ lại và ra khỏi phòng.

° ° °

Anthony và Julia đến ngay trước khi kết thúc thời gian đăng ký. Cô tiếp viên giao cho họ thẻ lên máy bay và khuyên họ hãy nhanh lên. Vào giờ đã muộn thế này, cô không thể đảm bảo họ sẽ đến được cửa máy bay trước lần gọi hành khách sau chót. 

- Chân cẳng tôi lại đang thế này thì nguy rồi, Anthony tuyên bố và nhìn cô, vẻ sầu não. 

- Ông gặp khó khăn khi di chuyển sao? người phụ nữ trẻ hỏi vẻ lo lắng. 

- Ở tuổi tôi, cô ạ, âu cũng là lẽ thường ấy mà, ông đáp với vẻ kiêu ngạo và trình ra tờ giấy chứng nhận đang mang máy trợ tim trên người. 

- Xin các vị đợi ở đây, cô tiếp viên vừa nói vừa nhấc điện thoại của mình lên. 

Vài phút sau, một chiếc xe con chạy bằng điện đưa họ tới phòng chờ của chuyến bay tới Paris. Với sự hộ tống của một nhân viên đi kèm, qua cửa an ninh lần này chỉ còn là một trò trẻ con. 

- Bố lại bị lỗi hả? Julia hỏi ông khi họ phóng hết tốc lực trong những hành lang dài của sân bay. 

- Con im đi, khỉ thật, Anthony thì thào, con sẽ làm chúng ta bị phát hiện mất, chân bố chẳng làm sao hết! 

Và ông tiếp tục câu chuyện dở dang với người tài xế, như thể cuộc đời của người này khiến ông thực sự say mê. Chưa đến mười phút sau, Anthony và con gái ông đã trở thành những người đầu tiên lên máy bay. 

Trong khi hai nữ tiếp viên hàng không đang giúp đỡ Anthony Walsh ngồi vào chỗ, một cô kê gối dựa sao lưng, cô kia đề nghị ông dùng thêm chăn, Julia quay lại cửa lên xuống máy bay. Cô thông báo với người nam tiếp viên hàng không đứng ở đó là cô cần gọi một cuộc điện thoại cuối cùng. Bố cô đang ở trên máy bay, cô sẽ quay lại trong vài phút nữa. Cô lộn trở lại quãng đường cầu thang nhỏ hẹp dẫn xuống máy bay và rút điện thoại di động ra. 

- Thế nào, chúng ta đang ở đâu trong chuyến du lịch bí hiểm đến Canada đây? Stanley nói ngay khi nhấc máy. 

- Em đang ở sân bay. 

- Em đã về rồi sao? 

- Em đi mà! 

- Đến đây, em thân mến, anh hẳn đã lỡ mất một chặng rồi! 

- Em vừa về sáng nay, không có thời gian ghé qua thăm anh, tuy nhiên em thề với anh rằng em rất muốn làm như vậy. 

- Và ta có thể biết là lần này em đi đâu không, Oklahoma, Wisconsin chăng? 

- Stanley, nếu anh tìm lại được một lá thư của Edward, một lá thư anh ấy tự tay viết trước khi chết, mà anh chưa từng được đọc, anh sẽ mở nó ra chứ? 

- Anh nói với em rồi, Julia à, những lời cuối cùng của Edward ấy là để nói với anh rằng anh ấy yêu anh. Anh có thể muốn biết gì hơn nữa nào? Những lời xin lỗi chắc, những tiếc nuối khác chắc? Vài lời đó từ anh ấy đáng giá tất cả những gì bọn anh đã quên không giãi bày cùng nhau. 

- Vậy thì anh sẽ đặt lại phong bì vào chỗ cũ ư? 

- Anh nghĩ là phải, nhưng anh chưa từng khám phá ra lời nhắn nào của Edward trong căn hộ của bọn anh. Edward viết không nhiều, em biết đấy, thậm chí danh sách những đồ cần mua cũng không có, luôn là anh phải lo những việc đó. Em không tưởng tượng được hồi ấy chuyện này đã khiến anh cáu tiết đến mức nào đâu, ấy thế mà, hai mươi năm sau, mỗi lần đi chợ, anh đều mua loại sữa chua anh ấy ưa thích nhất. Nhớ những chuyện kiểu ấy lâu đến vậy thật là ngu ngốc phải không? 

- Có lẽ là không. 

- Em tìm thấy một bức thư của Tomas à, đúng thế không? Em nhắc với anh về Edward mỗi lần em nghĩ đến cậu ta mà, mở nó ra đi!... 

- Tại sao, bởi vì anh thì không làm như thế mà! 

- Thật buồn vì hai mươi năm làm bạn rồi mà em vẫn chưa hiểu ra rằng anh là tất cả, chỉ trừ tấm gương để em noi theo thôi. Hãy mở lá thư ấy ngay hôm nay, đọc nó vào ngày mai nếu em thích, nhưng nhất là đừng hủy nó đi. Có lẽ anh đã nói dối em một chút; nếu Edward để lại cho anh một lá thư, anh sẽ đọc nó cả trăm lần, hàng giờ liền, để chắc chắn hiểu được mỗi từ viết trong đó, ngay cả khi anh biết rõ rằng anh ấy sẽ không bao giờ dùng bằng ấy thời gian để viết cho anh. Bây giờ em có thể nói với anh là em đi đâu được chưa? Anh nóng lòng muốn biết đầu số điện thoại nơi anh có thể gặp được em tối nay. 

- Là sáng mai thì đúng hơn và anh cần phải bấm số 49. 

- Đầu số nước ngoài hả? 

- Của Đức, ở Berlin. 

Một khoảnh khắc yên lặng. Stanley hít vào thật sâu trước khi tiếp tục cuộc trò chuyện. 

- Em đã phát hiện ra điều gì đó trong lá thư em vừa mở ư? 

- Anh ấy vẫn còn sống! 

- Dĩ nhiên rồi..., Stanley thở dài. Và em gọi cho anh từ phòng chờ sân bay để hỏi rằng liệu em có lý không khi lên đường tìm lại cậu ấy, thế chứ gì? 

- Em gọi cho anh từ cầu thang lên máy bay... và em cho là anh đã trả lời câu hỏi của em rồi. 

- Vậy thì đi thôi, cô ngốc ạ, đừng bỏ lỡ chuyến bay này. 

- Stanley này? 

- Lại chuyện gì nữa thế? 

- Anh có giận không? 

- Ôi không, anh ghét khi đã biết em quá rõ như thế này, chỉ thế thôi. Em còn câu hỏi ngớ ngẩn nào khác không? 

- Anh làm thế nào mà... 

- Mà trả lời được các câu hỏi trước cả khi em nói ra miệng chứ gì? Những kẻ ác khẩu sẽ nói với em rằng anh đàn bà hơn cả em, nhưng em có quyền nghĩ đó là bởi vì anh là bạn thân nhất của em. Giờ thì đi đi, trước khi anh kịp nhận ra rằng anh sẽ nhớ em kinh khủng. 

- Đến nơi em sẽ gọi cho anh, em hứa. 

- Ừ, ừ, được đấy! 

Nữ tiếp viên hàng không ra hiệu cho Julia rằng cần phải lên máy bay ngay lập tức, phi hành đoàn sẽ không chỉ chờ chêm mỗi mình cô để đóng cửa máy bay. Và khi Stanley muốn biết cái điều anh phải nói với Adam nếu cậu ta gọi thì Julia đã gác máy rồi.



Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
20/11/2011 22:11 # 16
Carnation
Cấp độ: 14 - Kỹ năng: 17

Kinh nghiệm: 119/140 (85%)
Kĩ năng: 78/170 (46%)
Ngày gia nhập: 24/12/2009
Bài gởi: 1029
Được cảm ơn: 1438
Phản hồi: Mọi điều ta chưa nói - Marc Levy


 Những khay thức ăn đã được dọn đi, tiếp viên hàng không giảm độ sáng đèn khiến khoang hành khách chìm trong một quầng tối mờ. Từ đầu chuyến đi đến giờ, Julia chưa nhìn thấy bố mình động vào thứ đồ ăn nào, cũng không ngủ, thậm chí không cả nghỉ ngơi. Điều đó hẳn là bình thường với một cỗ máy, nhưng ý nghĩ kỳ cục đó mới khó chấp nhận làm sao. Vì lẽ đây chính là những chi tiết duy nhất nhắc cô nhớ rằng chuyến đi này sẽ chỉ tặng cho hai người họ vài ngày giành giật được của thời gian. Phần đông hành khách đều đang ngủ, số khác đang theo dõi một bộ phim trên màn hình nhỏ trước mặt; ở hàng cuối cùng, một người đàn ông đang tra cứu tài liệu dưới ánh sáng của một ngọn đèn ngủ. Anthony lật xem một tờ báo, Julia nhìn qua cửa kính những tia phản chiếu ánh bạc của mặt trăng lên cánh máy bay và đại dương lao xao trong màn đêm xanh thẳm.

° ° °

Sang xuân, em đã quyết định thôi học ở trường Mỹ thuật, quyết định không quay về Paris nữa. Anh đã làm tất cả để can ngăn em, nhưng ý em đã quyết, em sẽ trở thành nhà báo giống như anh và cũng giống như anh sáng nào em cũng đi tìm một công việc để làm, ngay cả khi đối với một cô gái người Mỹ, điều đó là vô vọng. Từ vài ngày nay, những tuyến xe điện lại nối hai nửa thành phố với nhau. Mọi thứ xung quanh chúng ta, tất thảy đều hối hả; mọi người xung quanh chúng ta, ai ai cũng nhắc đến chuyện thống nhất đất nước của anh để tạo thành một nước Đức duy nhất, như trước kia, khi mọi thứ trên đời chưa thuộc về chiến tranh lạnh. Những kẻ từng làm tay sai cho mật vụ dường như đã biến mất cùng với tài liệu lưu trữ của chúng. Vài tháng trước, chúng đã tiến hành thủ tiêu tất cả những thứ giấy tờ có thể gây liên lụy, tất cả những hồ sơ do chúng lập nên về hàng triệu đồng bào của anh và chính anh, anh đã là một trong số những người đầu tiên biểu tình để ngăn chặn chúng. 

Anh cũng được đánh số trên một hồ sơ nào đó chứ? Hồ sơ đó vẫn còn nằm im lìm trong một vài tài liệu mật có chứa những bức ảnh chụp lén anh trên phố, hay tại nơi làm việc, danh sách những người anh thường gặp gỡ, tên của bạn bè anh, tên bà anh? Tuổi trẻ của anh là khả nghi trong mắt những nhà cầm quyền thời bấy giờ chăng? Làm sao chúng ta lại có thể để mặc như thế, sau tất cả những bài học về những năm chiến tranh? Đó là cách duy nhất mà thế giới của chúng ta tìm ra để phục thù hay sao? Anh và em, chúng ta có mặt trên đời này quá muộn để hận thù nhau, chúng ta có quá nhiều thứ để sáng tạo nên. Buổi tối, khi chúng ta đi dạo trong khu phố nhà anh, em thường thấy anh tiếp tục sợ hãi. Nỗi sợ chạy xuống anh ngay khi anh nhìn thấy dù chỉ một bộ quân phục hoặc một chiếc ô tô mà tốc độ chạy theo anh là quá chậm rãi. "Đi thôi, chúng ta đừng nán lại đây nữa," lúc bấy giờ anh nói; và anh dẫn em đến náu trong con hẻm nhỏ đầu tiên gặp, trong cái cầu thang đầu tiên cho phép chúng ta tẩu thoát, cho phép thoát khỏi một kẻ thù vô hình. Và khi em chế giễu anh, anh liền nổi giận, anh bảo em rằng em không hiểu gì hết, không biết tất cả những điều mà chúng có thể gây ra. Đã bao lần em bắt gặp ánh mắt anh nhìn quanh căn phòng của một nhà hàng nhỏ, nơi em dẫn anh đến ăn tối? Đã bao lần anh nói với em rằng, ta hãy rời khỏi đây thôi, khi nhìn thấy gương mặt ủ rũ của một khách hàng gợi cho anh nhớ về quá khứ đáng lo ngại. Tha lỗi cho em, Tomas, anh có lý, em không biết thế nào là sợ hãi. Tha lỗi cho em đã cười phá lên khi anh buộc chúng ta náu mình dưới những trụ cầu, bởi vì một đoàn xe quân sự đang vượt sông. Em đã không biết, em đã không thể hiểu nổi, không ai trong số bọn em có thể hiểu. 

Khi anh chỉ tay vào một ai đó trong tàu điện, căn cứ vào ánh mắt của anh em hiểu rằng anh đã nhận ra một trong số những kẻ từng làm tay sai cho mật vụ. 

Cởi bỏ bộ quân phục, từ bỏ quyền lực và vẻ ngạo nghễ của mình, những cựu thành viên Stasi 1 hòa lẫn vào thành phố của anh, tập quen với sự tầm thường trong cuộc sống của những con người mới hôm qua vẫn còn bị chúng vây dồn, rình mò, phán xét và đôi khi là tra tấn, và điều ấy đã kéo dài hàng bao năm. Từ khi bức tường sụp đổ, phần đông chúng đã tự bịa ra cho mình một quá khứ để người ta không nhận ra chúng, những kẻ khác vẫn âm thầm tiếp tục con đường của mình và đối với nhiều người trong số chúng, những ăn năn dằn vặt tiêu tan theo năm tháng, cùng với ký ức về những tội ác chúng đã gây ra. 

Em còn nhớ buổi tối chúng ta đến thăm Knapp. Cả ba người chúng ta đã đi dạo trong một công viên. Knapp không ngừng hỏi anh về cuộc sống của anh, mà không biết rằng lòng anh đau xót thế nào khi phải trả lời những câu hỏi đó. Anh ấy khẳng định rằng bức tường Berlin đã trải bóng của nó sang tận miền Tây nơi anh ấy sống, trong khi anh thì anh lớn tiếng nói rằng chính miền Đông, nơi anh sống, mới là nơi bức tường bê tông giam hãm. Làm sao các cậu tập quen được với sự tồn tại kiểu ấy, Knapp gạn hỏi. Và anh mỉm cười, hỏi anh ấy rằng liệu có phải anh ấy đã quên mọi chuyện rồi chăng? Knapp lại phản công dồn dập bằng một loạt câu hỏi, thế nên anh đầu hàng và trả lời những câu hỏi anh ấy đặt ra. Thế rồi, hết sức kiên nhẫn, anh kể anh ấy nghe về một cuộc sống trong đó nhất nhất mọi chuyện đều được tổ chức, đảm bảo an toàn, nơi không một trách nhiệm nào phải được gánh vác, nơi nguy cơ phạm lỗi là rất thấp. "Chúng tớ biết đến tình trạng ai ai cũng có việc làm, Nhà nước có mặt ở khắp mọi nơi," anh nói và nhún vai. "Những nền độc tài chuyên chính đều hoạt động như thế mà," Knapp kết luận. Điều này phù hợp với nhiều người, tự do là một món tiền cược khổng lồ, phần đông mọi người đều khao khát được tự do, nhưng không còn biết sử dụng nó thế nào nữa. Và em còn nghe các anh bàn luận trong quán cà phê tại Tây Berlin, rằng ở phía Đông ai nấy đều đang khôi phục lại cuộc sống trong những căn hộ êm ái theo cách riêng của mình. Cuộc đàm đạo của các anh trở nên sôi nổi khi bạn anh hỏi anh rằng theo anh thì có bao nhiêu người đã cộng tác với Stasi trong những năm đen tối này; chưa bao giờ các anh thống nhất với nhau về con số ấy. Knapp cho rằng cả thảy có khoảng ba mươi phần trăm dân số. Anh bào chữa cho sự thiếu hụt của mình, làm sao anh biết chuyện đó được, anh chưa từng làm việc cho Stasi cơ mà. 

Tha lỗi cho em, Tomas nhé, anh có lý, em phải chờ tới khi đang trên đường đi về phía anh mới cảm nhận được nỗi sợ.

° ° °

- Sao con không mời bố đến dự đám cưới? Anthony hỏi và đặt tờ báo xuống đầu gối. 

Julia giật bắn mình. 

- Bố xin lỗi, bố không muốn làm con giật mình. Tâm trí con để ở nơi khác sao? 

- Không, con chỉ đang mải nhìn bên ngoài thôi. 

- Chỉ có màn đêm thôi mà, Anthony đáp lại sau khi nghiêng người sang phía cửa kính. 

- Vâng, nhưng đang có trăng tròn. 

- Hơi cao để nhảy xuống nước phải không? 

- Con đã gửi cho bố thiệp báo mà. 

- Như với hai trăm người khác. Đó không phải là cách bố gọi là mời bố mình đến dự cưới. Bố được xem như người sẽ dẫn con đến trước bàn thờ Chúa, chuyện đó có lẽ xứng đáng để chúng ta gặp nhau và trực tiếp bàn bạc. 

- Bố và con, chúng ta đã bàn bạc được chuyện gì từ hai mươi năm nay nào? Con đợi bố gọi cho con, con hy vọng bố đề nghị con giới thiệu chồng tương lai của mình với bố. 

- Hình như bố gặp cậu ta rồi mà. 

- Tình cờ thôi, trên một cầu thang cuốn trong trung tâm thương mại Bloomingdales'; đó không phải là cái con gọi là làm quen. Tóm lại là bố chẳng quan tâm gì đến anh ấy hay đến cuộc đời con hết. 

- Cả ba người chúng ta đã đi uống trà, nếu bố nhớ không nhầm. 

- Bởi vì anh ấy đã mở lời với bố, vì anh ấy muốn làm quen với bố. Suốt hai mươi phút ấy bố giành hết phần nói còn gì. 

- Cậu ta không được hoạt khẩu cho lắm nhỉ, giới hạn tự kỷ, bố cứ ngỡ cậu ta câm. 

- Bố có hỏi anh ấy dù chỉ một câu không? 

- Còn con, con chưa bao giờ hỏi bố câu nào, chưa bao giờ con xin bố lời khuyên nào kia mà, Julia? 

- Làm thế liệu có ích gì cơ chứ? Để nghe bố giải thích cái điều mà bố đã làm hồi bằng tuổi con hay để bố nói ra điều con nên làm? Con có thể câm nín cho tới khi tận thế để một ngày kia rốt cuộc bố hiểu ra rằng con chưa bao giờ muốn giống như bố. 

- Có lẽ con nên ngủ đi, Anthony Walsh nói, ngày mai sẽ dài lắm đấy. Vừa đến Paris là chúng ta sẽ phải đổi máy bay trước khi tới đích. 

Ông kéo tấm chăn đắp lên tận vai Julia rồi tiếp tục đọc báo.

° ° °

Máy bay vừa hạ cánh xuống đường băng của sân bay Charles-de-Gaulle. Anthony chỉnh đồng hồ theo múi giờ Paris. 

- Bố con ta sớm tới hai giờ đồng hồ do chênh lệch múi giờ, chuyện này sẽ không gây khó khăn gì. 

Vào lúc đó, Anthony còn chưa biết chiếc máy bay tưởng như sẽ đến trạm cuối E lại được lái về phía một cổng thuộc trạm cuối F; mà cổng này lại được trang bị một cầu thang lên xuống không tương hợp với máy bay của hai bố con, tiếp viên hàng không giải thích chính vì vậy mà một chiếc xe buýt sẽ được điều động và chở họ tới trạm cuối B. 

Anthony giơ ngón tay ra hiệu cho trưởng bộ phận tiếp viên đến gặp ông. 

- Lối cửa E chứ! ông nói. 

- Gì kia ạ? người này hỏi. 

- Trong thông báo vừa rồi, các vị đã nói là lối cửa B, tôi cứ ngỡ là chúng ta phải đến lối cửa E chứ. 

- Rất có thể, trưởng bộ phận tiếp viên đáp, chúng ta chẳng hiểu gì ý nhau cả. 

- Hãy gỡ bỏ nghi ngờ này giúp tôi, chúng ta đúng là đang ở sân bay Charles-de-Gaulle chứ? 

- Ba cánh cửa khác nhau, không có cầu thang chuyên dụng và xe buýt cũng không thấy đâu, đừng nghi ngờ gì nữa! 

Bốn mươi lăm phút sau khi hạ cánh, cuối cùng họ cũng xuống được khỏi máy bay. Còn phải qua trạm kiểm soát xuất nhập khẩu và tìm cho ra trạm cuối nơi chuyến bay đến Berlin cất cánh. 

Hai sĩ quan cảnh sát hàng không có nhiệm vụ kiểm tra hàng trăm hộ chiếu của hành khách vừa từ ba chuyến bay đổ xuống. Anthony nhìn giờ trên bảng hiển thị. 

- Trước chúng ta còn hai trăm người nữa, bố e là chúng ta không thể kịp giờ. 

- Thì chúng ta sẽ bay chuyến sau! Julia đáp. 

Qua trạm kiểm soát rồi, họ chạy khắp một loạt hành lang cùng thang cuốn. 

- Nếu có cuốc bộ từ New York thì chúng ta cũng phải đến nơi rồi, Anthony càu nhàu. 

Vừa nói dứt câu, ông ngã khuỵu xuống. 

Julia đã cố đỡ ông, nhưng cú ngã bất ngờ đến mức cô trở tay không kịp. Cầu thang cuốn tiếp tục tiến lên trước, mang theo Anthony vẫn nằm sóng soài. 

- Bố ơi, bố ơi, tỉnh lại đi! cô vừa hét lên, hốt hoảng, vừa lay người ông. 

Tiếng lách cách của điện tử lưới ở bo mạch vang lên rõ rệt. Một hành khách chạy vội lại để giúp Julia. Họ cùng nâng Anthony dậy và đặt ông nằm xa ra một chút. Người đàn ông cởi áo vest ra và kê xuống dưới đầu Anthony vẫn đang nằm bất động. Ông ta đề nghị gọi cấp cứu. 

- Không, chớ có gọi! Julia van vỉ. Không sao đâu, chỉ là một cơn khó ở thôi mà, tôi quen với chuyện này rồi. 

- Cô chắc chứ? Chồng cô có vẻ ốm lắm. 

- Đây là bố tôi đấy chứ! Ông bị tiểu đường, Julia nói dối. 

- Bố ơi, tỉnh lại đi, cô vừa nói vừa lay người ông lần nữa. 

- Để tôi bắt mạch cho ông ấy xem sao. 

- Đừng đụng vào ông ấy! Julia thét lên hốt hoảng. 

Anthony mở một bên mắt. 

- Chúng ta đang ở đâu thế này? ông hỏi và cố gắng đứng lên. 

Người đàn ông đã giúp Julia ban nãy đỡ ông dậy. Anthony đứng dựa lưng vào tường trong lúc lấy lại thăng bằng. 

- Giờ là mấy giờ rồi? 

- Cô chắc chắn đây chỉ là một cơn khó ở đơn thuần chứ, ông ấy có vẻ không được bình thường cho lắm... 

- Nói đi nào, làm ơn! Anthony, vừa lấy lại sức liền vặc lại. 

Người đàn ông lấy lại áo vest của mình và bỏ đi. 

- Dẫu sao bố cũng nên cảm ơn người ta chứ, Julia trách ông. 

- Tại sao, vì thằng cha ấy dùng khổ nhục kế tán tỉnh con khi giả bộ cấp cứu cho bố à, còn gì nữa nào! 

- Bố thật không chịu nổi, bố làm con sợ hết hồn! 

- Có gì đâu, con muốn bố làm sao nữa, bố chết rồi mà! Anthony kết luận. 

- Con muốn biết chính xác chuyện vừa xảy ra với bố. 

- Bố cho là một lỗi tiếp xúc, hoặc một lỗi giao thoa nào đó. Phải báo cho họ mới được. Nếu ai đó tắt bố bằng cách cúp điện thoại di động của mình, chuyện này sẽ trở nên rầy rà đây. 

- Con sẽ không bao giờ kể lại được những chuyện lúc này con đang trải qua, Julia nói và nhún vai. 

- Ban nãy bố mơ hay con gọi bố là bố thế nhỉ? 

- Bố mơ đấy! cô đáp, trong khi ông kéo cô về khu vực làm thủ tục. 

Họ chỉ còn hơn mười lăm phút để qua cổng kiểm soát an ninh. 

- Ôi chà! Anthony nói khi mở tấm hộ chiếu của mình ra. 

- Lại chuyện gì nữa thế? 

- Thẻ chứng nhận đeo máy trợ tim của bố, bố không thấy đâu nữa. 

- Lẽ ra nó phải ở trong túi áo của bố chứ. 

- Bố vừa lục cả hai túi rồi, chẳng thấy đâu cả! 

Vẻ phật ý, ông nhìn những khung cổng quét trước mặt. 

- Nếu đi qua mấy cái cổng đó, bố sẽ tập hợp toàn bộ lực lượng cảnh sát tại sân bay này mất. 

- Vậy thì tiếp tục tìm trong hành lý của bố xem sao! Julia sốt ruột. 

- Đừng cố nài, bố đã bảo với con là bố làm mất rồi còn gì, hẳn là nó rơi trên máy bay, lúc bố gửi áo vest cho cô tiếp viên. Bố xin lỗi, bố không thấy có hướng giải quyết nào cả. 

- Chúng ta không đến tận đây để lúc này lại quay trở lại New York. Mà, dù sao đi nữa, chúng ta sẽ làm thế nào đây? 

- Thuê một chiếc xe và đi vào thành phố. Từ giờ đến đó bố sẽ tìm cách. 

Anthony đề nghị con gái đặt một phòng nghỉ đêm trong khách sạn. 

- Trong hai tiếng nữa, New York sẽ thức giấc, con chỉ việc gọi cho bác sĩ điều trị của bố, ông ấy sẽ fax cho con một bản sao. 

- Bác sĩ của bố chưa biết là bố đã chết sao? 

- Ôi không, đúng là ngốc thật nhưng bố đã quên không báo cho ông ấy biết đấy! 

- Sao không vẫy một chiếc taxi nhỉ? cô hỏi. 

- Một chiếc taxi ở Paris ấy à? Con chưa biết thành phố này rồi! 

- Bố đúng là có những điều tiên nghiệm về mọi chuyện! 

- Bố không cho đây là lúc thích hợp để tranh luận; bố nhìn thấy tiệm cho thuê xe rồi đây, chỉ cần một chiếc ô tô nhỏ là đủ cho hai chúng ta. Mà không, chọn một chiếc xe bốn chỗ đi, vấn đề đẳng cấp đấy! 

Julia đầu hàng. Đã quá mười hai giờ trưa khi cô rẽ vào đường nối dẫn đến ngã tư xa lộ A1. Anthony nghiêng người về phía kính chắn gió, chăm chú quan sát những tấm biển chỉ đường. 

- Rẽ phải thôi! ông ra lệnh. 

- Paris ở bên trái chứ, điều ấy được viết bằng chữ in hoa kìa. 

- Bố cảm ơn con, bố vẫn còn biết đọc mà, cứ làm theo lời bố đi! Anthony càu nhàu và ép cô bẻ lái. 

- Bố điên thật! Bố chơi trò gì thế? cô hét lên khi chiếc xe chệch khỏi làn đường một cách nguy hiểm. 

Giờ thì đã quá muộn để đổi làn đường. Trong một bản hợp xướng các loại còi xe, Julia nhận thấy mình đang đi theo hướng Bắc. 

- Láu cá lắm, chúng ta đang chạy xe về hướng Bruxelles, Paris đã ở đằng sau rồi. 

- Bố biết chứ! Và nếu con không quá mệt để lái một mạch, sáu trăm kilomet sau khi đến Bruxelles, chúng ta sẽ đến Berlin, trong chín tiếng nữa nếu bố nhẩm chính xác. Tệ nhất là chúng ta sẽ đỗ lại dọc đường, để con ngủ một chút. Trên xa lộ thì không phải vượt qua cổng quét kiểm soát an ninh, đây chính là giải pháp tình thế cho vấn đề của chúng ta; còn thời gian, chúng ta không còn nhiều đâu. Chỉ còn bốn ngày nữa trước khi phải quay về, tuy nhiên với điều kiện là bố chưa bị hỏng hóc. 

- Bố đã nảy ra ý định này từ trước khi chúng ta thuê xe, phải thế không? Chính vì thế mà bố muốn thuê một chiếc xe bốn chỗ! 

- Con có muốn gặp lại Tomas hay không nào? Vậy thì lái xe đi, bố không cần chỉ đường cho con, con vẫn nhớ đường phải không? 

Julia bật radio trong xe, chỉnh âm lượng mức tối đa và tăng tốc.

° ° °

Trong vòng hai mươi năm, tuyến xa lộ đã thay đổi diện mạo của chuyến đi. Hai tiếng đồng hồ sau khi khởi hành, họ vượt qua Bruxelles. Anthony không được hoạt bát cho lắm. Thỉnh thoảng ông lẩm nhẩm trong miệng khi nhìn cảnh vật. Julia tranh thủ lúc ông không chú ý để nghiêng kính chiếu hậu về phía ông, như thế cô có thể nhìn thấy ông mà không để ông nhận ra. Anthony vặn nhỏ tiếng radio. 

- Ở trường Mỹ thuật con có vui không? ông hỏi cô, phá vỡ bầu không khí yên lặng. 

- Con có ở lại đó lâu đâu, nhưng con thích mê nơi con sống. Quang cảnh từ phòng con nhìn ra đẹp đến khó tin. Bàn làm việc của con hướng ra mái của Đài Thiên văn. 

- Bố cũng mê mẩn Paris. Ở đó bố có nhiều kỷ niệm. Thậm chí bố tin rằng mình muốn giã biệt cuộc sống này tại đó. 

Julia húng hắng ho. 

- Có chuyện gì thế? Anthony hỏi, bỗng nhiên vẻ mặt con rất lạ. Bố lại nói chuyện gì không nên sao? 

- Không đâu, bố yên tâm. 

- Có mà, bố thấy rõ là thái độ con rất khác thường. 

- Chuyện này... chuyện này thực sự không dễ nói ra chút nào, cực kỳ khó nói là đằng khác. 

- Đừng bắt bố phải van xin con, nói đi nào! 

- Bố mất tại Paris, bố ạ. 

- Vậy ư? Anthony thốt lên ngạc nhiên. Này, bố còn chưa biết chuyện ấy đâu nhé. 

- Bố không có ký ức nào về chuyện ấy ư? 

- Chương trình để truyền cho bộ nhớ của bố dừng lại ở chuyến khởi hành tới châu Âu. Sau thời điểm này là một hố đen khổng lồ. Bố cho rằng như vậy tốt hơn, ký ức về cái chết của bản thân thì chẳng có gì là hay ho cả. Cuối cùng thì bố cũng nhận thấy giới hạn thời gian được định ra cho cỗ máy này là một điều bất tiện nhưng cần thiết. Và không chỉ thiết yếu đối với các gia đình. 

- Con hiểu, Julia đáp, ngượng nghịu. 

- Bố nghi ngờ đấy. Tin bố đi, tình huống này không chỉ kỳ quặc đối với con thôi đâu, và thời gian càng trôi qua, tất cả những chuyện này càng khiến bố cũng phải hoang mang. Hôm nay là thứ mấy rồi nhỉ? 

- Thứ Tư. 

- Ba ngày, con thấy đấy, tiếng tíc tắc chết tiệt khi chiếc kim giây lượn quanh trong đầu các con. Con có biết bố chết thế nào... 

- Một cơn ngưng tim trước đèn đỏ. 

- Vẫn còn may mắn vì bấy giờ không phải là đèn xanh, không thì bố bị nghiền nát rồi. 

- Lúc đó đang đèn xanh! 

- Khỉ thật! 

- Không vì thế mà xảy ra tai nạn nào hết, nếu điều này có thể an ủi được bố. 

- Thẳng thắn mà nói, chuyện đó chẳng an ủi bố chút nào. Bố có đau đớn không? 

- Không, người ta cam đoan với con rằng cơn đau chỉ trong chớp nhoáng. 

- Phải rồi, rốt cuộc thì người ta luôn nói thế với gia đình các nạn nhân để làm yên lòng họ. Ôi chao, mà chung quy thì nói vậy phỏng có ích gì nữa nhỉ. Chuyện quá khứ rồi mà. Ai còn nhớ cách mọi người chết cơ chứ? Nhớ được cách họ sống đã là tốt lắm rồi. 

- Ta đổi chủ đề nhé? Julia nài nỉ. 

- Nếu con muốn, nhưng bố thấy chuyện này buồn cười thì đúng hơn, khi có thể chuyện trò với ai đó về cái chết của chính mình. 

- Ai đó được nhắc đến ở đây chính là con gái bố và thực ra trông bố chẳng có vẻ gì là vui cả. 

- Đừng có bắt đầu nói đúng nữa đi, xin con đấy. 

Một tiếng sau, chiếc xe đã tiến vào lãnh thổ Hà Lan, nước Đức chỉ còn cách bảy mươi kilomet nữa. 

- Mánh này của họ thật tuyệt, Anthony nói tiếp, chẳng còn biên giới nữa, người ta hầu như ngỡ mình được tự do. Nếu con đang hạnh phúc ở Paris thì tại sao lại ra đi? 

- Một quyết định khinh suất nhất thời, ngay giữa đêm; lúc ấy con cứ nghĩ chỉ mất vài ngày sẽ quay về. Thoạt tiên, đó chỉ là cuộc dạo chơi giữa bạn bè với nhau. 

- Con quen họ lâu rồi à? 

- Mới quen được mười phút. 

- Rõ là thế! Và mấy người bạn ấy thường ngày làm nghề gì? 

- Cũng là sinh viên như con, học trường Sorbonne. 

- Bố hiểu rồi, và tại sao lại là nước Đức? Tây Ban Nha hay Ý không phải vui hơn sao? 

- Một khát khao được tham gia cách mạng. Antoine và Mathias đã được dự đoán được sự sụp đổ của bức tường. Có lẽ không được chắc chắn đến mức ấy, nhưng có chuyện gì đó hệ trọng diễn ra tại Đức và bọn con muốn đến tận nơi chứng kiến. 

- Bố có thể bỏ lỡ điều gì trong việc dạy dỗ con được nhỉ, để con lại khao khát làm cách mạng đến thế? Anthony nói và phát vào đầu gối. 

- Bố đừng tự trách mình, đó hẳn là điều duy nhất bố đã thực sự thành công mà. 

- Đó là một cách nhìn nhận thôi! Anthony lẩm bẩm và lại quay ra cửa kính xe. 

- Sao bây giờ bố mới hỏi con tất cả những câu này? 

- Bởi vì con, con chẳng hỏi bố câu nào cả. Bố thích Paris vì đó là nơi bố đã hôn mẹ con lần đầu tiên. Và bố có thể khẳng định với con rằng chuyện đó không dễ dàng chút nào. 

- Con không chắc là mình muốn biết chi tiết chuyện ấy đâu. 

- Nếu con biết bà ấy xinh đẹp thế nào. Lúc ấy bố mẹ mới hai mươi lăm. 

- Bố làm thế nào để đến được Paris. Con tưởng hồi còn trẻ bố không đồng xu dính túi cơ mà? 

- Hồi 1959, bố thực hiện nghĩa vụ quân sự tại một căn cứ đặt tại châu Âu. 

- Ở đâu? 

- Berlin chứ đâu! Và bố không có lấy một ký ức hạnh phúc nào về quãng đời đó. 

Khuôn mặt Anthony lại quay sang với phong cảnh đang diễu qua bên ngoài. 

- Không cần phải nhìn con qua kính thế đâu, bố biết đấy, con đang ngồi ngay bên cạnh bố đây mà, Julia nói. 

- Thế còn con, chỉnh kính chiếu hậu vào đúng chỗ đi, như thế con sẽ nhìn thấy những chiếc ô tô đang đi đằng sau trước khi vượt chiếc xe tải tiếp theo! 

- Bố đã gặp mẹ ở đó sao? 

- Không, bố mẹ quen nhau tại Pháp. Khi được giải ngũ, bố đã đi tàu đến Paris. Bố hằng mơ được nhìn thấy tháp Eiffel trước khi về nước mà. 

- Và bố đã yêu ngay từ cái nhìn đầu tiên? 

- Không tồi chút nào, nhưng vẫn thấp hơn những tòa nhà chọc trời của chúng ta. 

- Con đang nói về mẹ cơ mà. 

- Lúc bấy giờ mẹ con đang là vũ công của một phòng trà lớn. Bản sao hoàn hảo của GI kiểu Mỹ bất chấp gốc gác Ailen của họ và của vũ công đến từ cùng một xứ. 

- Mẹ là vũ công ấy ạ? 

- Bluebell Girl! Cả đoàn đang trong buổi biểu diễn đặc biệt tại phòng trà Lido trên đại lộ Champs-Élysées. Một anh bạn đã mua được vé cho cả nhóm bọn bố. Mẹ con diễn mở màn. Giá mà con được thấy bà ấy trên sân khấu khi đang nhảy điệu claquet, bố có thể cam đoan với con rằng mẹ con không cần phải ghen với Ginger Rogers. 

- Tại sao mẹ chưa bao giờ kể chuyện đó? 

- Gia đình ta không thuộc loại hay chuyện, ít ra con cũng thừa hưởng cái nét tính cách này. 

- Làm thế nào bố quyến rũ được mẹ? 

- Bố tưởng con không muốn biết chi tiết cơ mà? Nếu con chạy xe chậm lại một chút, bố sẽ kể cho mà nghe. 

- Con đâu có đi nhanh! Julia đáp và nhìn vào kim đồng hồ trên bảng tốc độ đang chỉ gần 140 kilomet giờ. 

- Vấn đề cảnh sắc thôi! Bố đã quen với hệ thống xa lộ trong nước nơi ta kịp ngắm cảnh vật trên đường. Nếu tiếp tục chạy xe thế này, con sẽ phải có một chiếc cờ lê để tháo ngón tay bố ra khỏi tay nắm cửa xe. 

Julia nhấc chân khỏi cần tốc độ và Anthony hít thở thật sâu. 

- Lúc ấy bố đang ngồi ở bàn kê sát sân khấu. Các buổi diễu kéo dài liên tục suốt mười tối; bố không bỏ lỡ một buổi nào trong số đó, kể cả Chủ nhật, cái ngày diễn cả chiều lẫn tối. Bố xoay xở, bồi dưỡng cho bà xếp chỗ một món hậu hĩnh, để lúc nào cũng được ngồi đúng vị trí đó. 

Julia tắt radio gắn trên xe. 

- Lần cuối cùng bố nhắc con này, dựng lại kính chiếu hậu và chú ý nhìn đường đi! Anthony ra lệnh. 

Julia ngoan ngoãn làm theo. 

- Đến ngày thứ sáu, mẹ con đã nhận ra mánh của bố. Mẹ con thề với bố là đã nhận ra từ ngày thứ tư, nhưng bố chắc chắn đó là ngày thứ sáu. Dẫu sao, bố nhận thấy mẹ con đã nhìn bố nhiều lần trong suốt buổi biểu diễn. Không phải khoe đâu, thậm chí mẹ con còn suýt hụt một bước nhảy. Ở điểm này cũng vậy, bà ấy luôn thề với bố rằng rắc rối này không hề liên quan đến sự có mặt của bố. Cái lời từ chối không chịu thừa nhận này, chỉ là tính hay làm đỏm của mẹ con. Thế nên bố đã gửi hoa đến phòng hóa trang cho bà ấy, để bà ấy có thể nhận được, khi buổi diễn kết thúc; tối nào cũng một bó hồng xưa nhỏ, và không bao giờ kèm danh thiếp. 

- Tại sao thế? 

- Nếu không ngắt lời bố, con sẽ hiểu ngay thôi. Sau buổi biểu diễn cuối cùng, bố đứng đợi mẹ ở lối ra dành cho các diễn viên. Một nhành hồng trắng nơi khuyết áo. 

- Con không thể tin là bố từng làm những chuyện như vậy! Julia thốt lên và phì cười. 

Anthony quay ra cửa sổ và không nói thêm lời nào nữa. 

- Sau đó thì sao ạ? Julia gạn hỏi. 

- Kết thúc câu chuyện! 

- Kết thúc câu chuyện thế nào cơ ạ? 

- Con giễu cợt nên bố ngừng kể chứ sao! 

- Nhưng con không giễu cợt chút nào mà! 

- Thế cái điệu cười khẩy ngu ngốc ấy là gì vậy? 

- Ngược lại với những gì bố nghĩ, chỉ là vì con chưa bao giờ hình dung ra bố ở tuổi thanh niên lại hết sức lãng mạn như thế. 

- Con đỗ xe ngay ở trạm dừng chân tiếp theo cho bố, bố sẽ đi bộ nốt quãng đường còn lại! Anthony kêu lên, khoanh tay trước ngực, vẻ mặt cau có. 

- Bố kể tiếp đi, hoặc là con sẽ tăng tốc đấy! 

- Mẹ con đã quen với những người hâm mộ chờ ở đầu hành lang này rồi, một gã nhân viên an ninh hộ tống các nữ vũ công ra tận xe ca đưa đón họ về khách sạn. Bố đứng ngay giữa lối đi, hắn bảo bố tránh ra, bằng một giọng bố cho rằng hơi quá hách dịch. Bố liền giơ nắm đấm ra. 

Julia không kìm được liền cười phá lên. 

- Tuyệt lắm! Anthony giận điên người nói, bởi vì đã như thế, con sẽ không được nghe thêm một lời nào nữa. 

- Bố, con van bố đấy, cô tươi cười nói. Con xin lỗi, nhưng con không kìm được. 

Anthony quay đầu lại và nhìn cô đăm đăm. 

- Lần này thì bố không mơ, đúng là con đã gọi bố? 

- Có lẽ thế, Julia nói và lau khô mắt. Bố kể tiếp đi! 

- Bố báo trước để con biết, Julia ạ, nếu bố nhìn thấy dù chỉ một nụ cười hé, là kết thúc ngay đấy! Nhất trí không? 

- Xin hứa, cô nói và giơ cao tay phải. 

- Mẹ con can thiệp, mẹ con dẫn bố ra xa khỏi đoàn và xin tài xế xe ca chờ một chút. Bà ấy hỏi bố đang làm gì ở đây, vào mỗi buổi biểu diễn, ngồi cùng một bàn như vậy. Bố cho là ngay lúc ấy mẹ con chưa nhìn thấy bông hồng trắng cài trên khuyết áo bố, bố bèn tặng nó cho mẹ. Mẹ con hết sức ngạc nhiên, khi phát hiện ra bố là tác giả của những bó hồng mỗi tối, đến mức bố đã tranh thủ quãng thời gian đó để trả lời cho câu hỏi của mẹ. 

- Bố nói gì với mẹ vậy? 

- Rằng bố đến để cầu hôn mẹ con. 

Julia quay sang nhìn bố cô, ông ra lệnh cho cô tập trung nhìn đường. 

- Mẹ con cười phá lên, trong giọng cười có những tiếng vang mà con cũng có khi ban nãy con cười nhạo bố. Khi hiểu ra là bố thực sự chờ câu trả lời, mẹ con ra hiệu cho tài xế lái xe đi không cần đợi nữa rồi đề nghị bố bắt đầu bằng cách mời bà ấy ăn tối. Bố mẹ đã dạo bộ cho tới một quán bia trên đại lộ Champs-Élysées. Bố có thể nói với con rằng khi thả bộ trên đại lộ đẹp nhất thế giới bên mẹ con,bố không phải là không hãnh diện. Con phải thấy những ánh mắt dõi theo bà ấy. Bố mẹ đã trò chuyện suốt bữa tối, nhưng đến cuối bữa, bố rơi vào một tình huống tệ hại và bố cứ ngỡ đến đó tất cả mọi hy vọng của bố đều tiêu tán. 

- Sau khi cầu hôn quá chóng vánh như thế, con không hiểu bố còn có thể làm điều gì ấn tượng hơn? 

- Chuyện hết sức phiền toái, bố không có gì để thanh toán hóa đơn, bố đã kín đáo lục hết các túi nhưng hoài công, không có lấy một xu. Khoản tiền dành dụm trong thời gian tại ngũ đã dốc hết vào việc mua vé của Lido và mua hoa. 

- Bố làm thế nào mà thoát ra được? 

- Bố đã gọi đến tách cà phê thứ bảy, quán bia đóng cửa, mẹ con tạm thời vắng mặt để trang điểm lại. Bố đã gọi người bồi bàn đến, quyết định thú nhận với ông ta rằng bố không có gì để thanh toán, sẵn sàng van xin ông ấy đừng làm lớn chuyện, đặt lại chiếc đồng hồ đeo tay và giấy tờ làm tin, hứa sẽ quay lại thanh toán hóa đơn ngay khi có thể, chậm nhất là cuối tuần. Ông ấy đã chìa ra cho bố một chiếc cốc nhỏ, thay cho hóa đơn tính tiền, trong đó có lời nhắn của mẹ con. 

- Lời nhắn nói gì? 

Anthony mở ví và lấy ra một mảnh giấy đã ố vàng, ông giở nó ra trước khi đọc bằng một giọng từ tốn. 

Em không giỏi nói lời tạm biệt và em chắc rằng anh cũng vậy. Cảm ơn vì buổi tối thú vị này, hồng xưa là loài hoa em yêu thích. Bọn em sẽ tới Manchester vào cuối tháng Hai và em sẽ rất vui nếu được gặp lại anh trong khán phòng. Nếu anh đến, lần này em sẽ để anh mời em ăn tối. Con thấy đấy, Anthony kết luận khi đưa mảnh giấy cho Julia, bên dưới là chữ ký của mẹ con. 

- Ấn tượng thật! Julia khẽ thốt lên, tại sao mẹ lại làm vậy? 

- Bởi vì mẹ con thấu hiểu hoàn cảnh của bố. 

- Hiểu thế nào? 

- Một gã trai uống đến bảy tách cà phê vào lúc hai giờ sáng và không tìm ra lời nào để nói trong khi quán bắt đầu tắt đèn rồi... 

- Bố đã đến Manchester sao? 

- Trước tiên bố đã làm việc để thay đổi tình hình tài chính đôi chút. Bố làm hết việc này đến việc khác. Năm giờ sáng bố đã có mặt ở khu Halles để bốc dỡ các sọt hàng, xong việc, bố chạy đến một quán cà phê trong khu phố để phụ việc. Đến trưa, bố tháo tạp dề để khoác lên người bộ đồng phục nhân viên bán hàng thực phẩm. Bố sút mất năm ki lô và kiếm đủ tiền để sang Anh mua một chỗ trong nhà hát nơi mẹ con biểu diễn, và nhất là đủ tiền để đãi mẹ con một bữa ra trò. Bố đã thắng ván cược khó chơi là giành chỗ ở hàng ghế đầu. Ngay khi tấm màn nhung được vén lên, mẹ con mỉm cười với bố. 

"Sau buổi biểu diễn, bố mẹ gặp nhau trong một quán rượu cổ của thành phố. Bố mệt lử. Bố phát ngượng khi nhớ lại chuyện đó, nhưng bố đã ngủ gục trong khán phòng và bố thấy rõ là mẹ con cũng nhận ra điều ấy. Tối hôm đó, ngồi vào bàn, bố mẹ hầu như không nói chuyện. Bố mẹ chỉ trao đổi những khoảng im lặng; và khi bố ra hiệu gọi người bồi bàn mang hóa đơn ra, mẹ con nhìn bố chăm chú và chỉ nói đúng một từ "Vâng". Đến lượt mình, bố nhìn mẹ, ngạc nhiên, và mẹ lặp lại từ "vâng" ấy, rõ ràng hơn đến mức giờ bố vẫn còn nghe thấy. "Vâng, em rất muốn làm vợ anh". Chương trình biểu diễn ở Manchester kéo dài hai tháng. Mẹ con vĩnh biệt đoàn và bố mẹ lên tàu thủy về nước. Bố mẹ đã kết hôn khi về đến nơi. Một vi linh mục và hai nhân chứng mà bố mẹ tìm được trong nhà thờ. Không một thành viên nào trong gia đình hai bên đến dự. Ông nội con không bao giờ tha thứ cho bố vì đã cưới một vũ công làm vợ. 

Anthony cẩn thận cất mảnh giấy ố vàng vào chỗ cũ. 

- Này, bố lại tìm ra giấy chứng nhận mang máy trợ tim rồi này! Bố ngốc quá đi mất! Thay vì kẹp lại vào hộ chiếu, bố đã dại dột nhét nó vào ví. 

Julia lắc đầu, vẻ hoài nghi. 

- Bố nghĩ chuyến đi tới Berlin lần này là một cách đúng đắn để tiếp tục chuyến đi của chúng ta sao? 

- Con biết về bố ít đến nỗi phải hỏi bố câu này sao? 

- Và chuyện thuê xe, vờ mất tờ giấy chứng nhận, bố cố tình làm thế để chúng ta cùng nhau vượt quãng đường này chứ gì? 

- Và dù bố có tính trước tất cả những chuyện này đi nữa, đó cũng không phải là một ý tồi, đúng không? 

Một tấm biển chỉ đường thông báo họ vừa tiến vào lãnh thổ Đức. Nét mặt sa sầm, Julia chỉnh kính chiếu hậu vào đúng chỗ. 

- Có chuyện gì thế, con không nói gì nữa ư? Anthony hỏi. 

- Cái ngày trước hôm bố xuất hiện ở phòng bọn con để hành hung Tomas, hai đứa con đã quyết định kết hôn. Chuyện không thành vì bố con không chịu được cảnh con gái mình muốn cưới một người đàn ông không cùng tầng lớp với ông. 

Anthony quay về phía cửa kính.

--------------------------------
1 Bộ An ninh Quốc gia, là cơ quan cảnh sát chính trị, tình báo, gián điệp và phản gián của Cộng hòa Dân chủ Đức trước kia.


Lương Linh - D17KKT2
 Mail: Carnation.dtu@gmail.com
Yahoo: lily_alanna_1088

 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024