Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
12/10/2010 21:10 # 1
HuongQTri
Cấp độ: 6 - Kỹ năng: 5

Kinh nghiệm: 38/60 (63%)
Kĩ năng: 29/50 (58%)
Ngày gia nhập: 17/09/2010
Bài gởi: 188
Được cảm ơn: 129
[Bài Giảng]Môn Tổng Quan Du Lịch-Phạm Trọng Lê Nghĩa


 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

 

BÀI GIẢNG

 

MÔN: TỔNG QUAN DU LỊCH

 

 

 

                                               

Người soạn: Phạm Trọng Lê Nghĩa

Mail:                    phamtronglenghia@gmail.com

 

                            

 

 

 

 

 

 

 

 

 

Năm học 2009 - 2010


 

 

 

Khi du lịch trở về, có lẽ người ta đã lớn lên

Nhưng có một điều chắc chắn là trái đất phải nhỏ lại

                                                                     P.Morand

 

PHẦN I:  ĐỀ CƯƠNG MÔN HỌC

 

I. GIỚI THIỆU MÔN HỌC

 

Tổng Quan Du lịch là môn học lý thuyết dành cho sinh viên chuyên ngành Du lịch tại các trường Đại học, các trường cao đẳng, các trường cao đẳng nghề, các trường THNV. Môn học mang tính khái quát, cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về cấu trúc và sự vận hành của hệ thống ngành du lịch.

Việc biên soạn bài giảng này này nhằm mục đích trang bị những kiến thức khái quát, cơ bản cho người học. Bằng lý thuyết và những tình huống thảo luận (case studies), học sinh được yêu cầu hiểu được toàn bộ cấu trúc của ngành du lịch, là cơ sở để sinh viên, học sinh tìm hiểu sâu hơn các lĩnh vực khác của ngành du lịch: Kinh doanh lữ hành, kinh doanh nhà hàng - khách sạn, quản lý, điều hành chương trình du lịch hướng dẫn du lịch.

Nội dung của bài giảng bao gồm những vấn đề khái quát như: Các khái niệm niệm cơ bản về du lịch, lịch sử hình thành,  phát triển của du lịch thế giới, du lịch Việt nam, điều kiện phát triển du lịch, loại hình và các lĩnh vực kinh doanh du lịch, sản phẩm du lịch. Đồng thời với những nội dung trên, bài giảng còn đề cập tới những vấn đề khác của hoạt động du lịch như lao động du lịch, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Những nội dung mà bài giảng đề cập tới chỉ mang tính khái quát, đại cương, làm chìa khoá để người học, người đọc đi sâu vào nghiên cứu và tìm hiểu các môn chuyên nghành: Nghiệp vụ Nhà hàng, quản trị Nhà hàng, Nghiệp vụ Lễ tân Khách sạn, Nghiệp vụ Hướng dẫn - Lữ hành …..

Để khẩu hiệu “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” cho cả thầy lẫn trò, tôi mạnh dạn đưa ra những suy nghĩ cũng như quan điểm của mình trải qua những năm tháng trực tiếp tham gia giảng dạy. Khối lượng kiến thức, phương pháp giảng dạy môn Tổng quan Du lịch không phải mang tính gò bó, áp đặt, giáo điều mà là cách ứng xử “linh hoạt, thông minh” giữa thầy và trò để hòa nhập trong thế giới phương pháp học hiện đại hôm nay.

Qua bài giảng này, tôi muốn trao đổi một cách hiểu, một hướng đi và trình bày để tham khảo, có thể áp dụng chứ tuyệt nhiên không xem đây là kiểu mẫu để áp đặt. Mong có sự trao đổi thêm của đồng nghiệp để sự nông cạn riêng của cá nhân đóng góp tiếng nói vào sự sâu rộng chung.

Rất mong sự góp ý chân thành từ các đồng nghiệp.                                                                                                                                    Trân trọng!

II. MỤC TIÊU MÔN HỌC

 

1.       Kiến thức: Sau khi học xong, học sinh có thể:

 

-       Mô tả được các khái niệm liên quan đến hoạt động du lịch;

-       Nhận thức được vai trò của ngành DL đối với nền KTQD;

-       Nhận biết được các điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch;

-       Phân biệt khái niệm, đặc điểm lao động du lịch; CSVCKT DL;

-       Nhận biết và phân biệt được các loại hình DL;

-       Phân biệt khái niệm sản phẩm, sản phẩm dịch vụ DL;

 

2.       Kỹ năng: Sau khi học xong, HS – SV có thể:

         

-       Kỹ năng thuyết trình;

-       Thu thập tài liệu phục vụ cho việc học môn Tổng quan Du lịch.

 

3.       Thái độ:

         

-       Đối với giảng viên: Tinh thần nghiên cứu, cập nhật kiến thức, trau dồi kỹ năng thuyết trình, đảm bảo lượng nội dung, kiến thức “truyền tải” đến HS.

-       Đối với HS: Tập trung nghe giảng, có tinh thần xây dựng bài; có ý‎ cập nhật kiến thức lên quan tới môn học qua các phương tiện thông tin truyền thông.


III. ĐỀ CƯƠNG CHI TIẾT MÔN HỌC

 

Số TT

Tên bài học

Thời gian (giờ)

Tổng số

LT

TH

KT

1

Bài 1: Khái quát về hoạt động du lịch

7

7

 

 

 

   1.1 Các khái niệm cơ bản về Du lịch

2

2

 

 

 

   1.2 Lịch sử hình thành phát triển du lịch thế giới và Việt Nam

2

2

 

 

 

   1.3 Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội

2

2

 

 

2

Bài 2: Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển Du lịch

8

8

 

 

 

   2.1 Điều kiện chung

2

2

 

 

 

     2.1.1 An ninh chính trị - an toàn xã hội

 

 

 

 

 

     2.1.2 Kinh tế

 

 

 

 

 

     2.1.3 Văn hóa

 

 

 

 

 

     2.1.2 Đường lối, chính sách phát triển du lịch

 

 

 

 

 

   2.2 Điều kiện riêng

6

6

 

 

 

     2.2.1 Tài nguyên du lịch

 

 

 

 

 

     2.2.2 Nhân lực du lịch

 

 

 

 

 

     2.3.3 Cơ sở hạ tầng – CSVCKT Du lịch

 

 

 

 

 

     2.5.2 Các sự kiện đặc biệt

 

 

 

 

3

KIỂM TRA GIỮA MÔN HỌC

 

 

 

1

4

Bài 3: Các loại hình Du lịch

5

5

 

 

 

   3.1 Căn cứ theo môi trường tài nguyên

 

0.5

 

 

 

     3.1.1 Du lịch văn hóa

 

 

 

 

 

     3.1.2 Du lịch sinh thái

 

 

 

 

 

  3.2 Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ

 

0.5

 

 

 

     3.2.1 Du lịch nội địa

 

 

 

 

 

     3.2.2 Du lịch quốc tế

 

 

 

 

 

  3.3 Căn cứ theo vị trí địa l‎ý‎

 

0.5

 

 

 

     3.3.1 Du lịch nông thôn

 

 

 

 

 

     3.3.2 Du lịch thành thị

 

 

 

 

 

     3.3.3 Du lịch biển

 

 

 

 

 

     3.3.4 Du lịch miền núi

 

 

 

 

 

   3.4 Căn cứ theo hình thức tổ chức

 

0.5

 

 

 

     3.4.1 Du lịch cá nhân

 

 

 

 

 

     3.4.2 Du lịch theo đoàn

 

 

 

 

 

  3.5 Căn cứ theo phương thức hợp đồng

 

0.5

 

 

 

     3.5.1 Du lịch trọn gói

 

 

 

 

 

     3.5.2 Du lịch từng phần

 

 

 

 

 

  3.6 Căn cứ theo phương tiện vận chuyển

 

0.5

 

 

 

     3.6.1 Du lịch đường bộ

 

 

 

 

 

     3.3.2 Du lịch đường thủy

 

 

 

 

 

     3.3.3 Du lịch đường không

 

 

 

 

 

  3.7 Căn cứ theo mục đích chuyến đi

 

2

 

 

 

     3.7.1 Theo mục đích chung

 

 

 

 

 

     3.7.2 Theo mục đích riêng

 

 

 

 

 

     3.7.2 Theo trách nhiệm

 

 

 

 

5

Bài 4: Các lĩnh vực kinh doanh & sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch

7

7

 

 

 

  4.1 Các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch

3

3

 

 

 

     4.1.1 Kinh doanh lữ hành

 

 

 

 

 

     4.1.2 Kinh doanh lưu trú

 

 

 

 

 

     4.1.3 Kinh doanh ăn uống

 

 

 

 

 

     4.1.4 Kinh doanh vận chuyển

 

 

 

 

 

     4.1.5 Kinh doanh dịch vụ bổ sung

 

 

 

 

 

  4.2 Sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch

4

4

 

 

 

     4.2.1 Khái niệm

 

 

 

 

 

     4.2.2 Phân loại

 

 

 

 

 

     4.2.3 Đặc điểm

 

 

 

 

 

KIỂM TRA KẾT THÚC MÔN HỌC

2

 

 

2

 

 

30

27

 

3

 

Vũng Tàu, ngày        /       /2009

Vũng Tàu, ngày        /       /2009

TRƯỞNG KHOA

 

Giáo viên

Phạm Trọng Lê Nghĩa

PHẦN I:  NỘI DUNG BÀI GIẢNG MÔN HỌC

TỔNG QUAN DU LỊCH

…………..o0o…………

 

Bài 1: Khái quát về hoạt động du lịch

         

          Sau khi kết thúc chương này, học sinh có thể:

 

-       Định nghĩa được các khái niệm cơ bản về du lịch.

-       Nhận biết được lịch sử hình thánh, phát triển du lịch thế giới, Việt Nam.

-       Nhận thức được vai trò của phát triển du lịch đối với nền kinh tế xã hội.

 

1.1      Các khái niệm cơ bản về du lịch

1.1.1    Du lịch

Du 1ịch được hình thành và phát triển theo nhu cầu đời sống của con người từ những ngày xa xưa. Ngày nay khi khoa học kỹ thuật phát triển, giao thông phát triển, nền kinh tế phát triển đời sống con người được nâng lên thì nhu cầu phát triển du lịch càng lớn. Tùy theo điều kiện kinh tế mỗi nước, con người đang nghĩ đến việc dành một phần thu nhập của mình hàng năm cho du lịch; trong số những nhu cầu của con người, nhu cầu về Du lịch chưa bao giờ được thỏa mãn, càng đi du lịch cuộc sông của con người càng được nâng cao.

Du lịch càng phát triển thì khuynh hướng tiêu thụ dịch vụ du lịch cơ cấu chi tiêu của con người đang tạo nên thị trường du lịch rộng lớn. không còn ở phạm vi một ngành kinh tế hay ở̉ một nước. Ngày nay những máy bay siêu âm loại lớn với đầy đủ tiện nghi, những tàu thủy có đủ điều kiện cho con người sống gần với biển cả, những đoàn xe lửa liên quốc gia, những xe ca chở khách kiểu mới đã tạo cho con người sự thoải mái trong việc di chuyển trên các tuyến đường du lịch. Bên cạnh có những Trung tâm Du lịch được hình thành với những hệ thống khách sạc tế đầy đủ tiện nghi, những cửa hàng ăn uống, những quán café sang trọng, những cửa hàng lưu niệm với chất lượng cao, những sản phẩm mang tính đặc sản của một vùng, một địa phương theo thị hiếu quốc tế. Tuy vậy người đi du lịch không chỉ thỏa mãn những nhu cầu về vật chất mà còn quan tâm đến cả nhu cầu về văn hóa, tinh thần. Do đó, ở nhiều nước trên thế giới đã tiến hành cải tạo các danh lam thắng cảnh, trùng tu và nâng cao tính thẩm mỹ của nhưng công trình văn hóa: xây dựng các di tích lịch sử... để đáp ứng các yêucầu của khách du lịch.

Rõ ràng du tịch đã trở thành một ngành kinh doanh tổng hợp. Hoạt động kinh doanh du lịch phát triền kéo theo những hoạt động sản xuất kinh doanh khác phát triển theo, hàng hóa sản xuất ra không chỉ để phục vụ cho các dịch vụ du lịch mà còn bán cho khách với Trung tâm du lịch đã trở thành những Trung tâm ngoại thương, xuất khẩu tại chỗ. Hoạt động kinh doanh Du lịch đã góp phần vào mở mang các ngành nghề sản xuất, giải quyết việc làm cho rất nhiều lao động, chỉ tính riêng lưu lượng lao động trong ngành Du lịch nhiều nơi đã chiếm 50% dân số, nếu tính cả lao động dịch vụ thương mại ở̉ các Trung tâm du lịch thì tỷ lệ đó còn cao hơn nhiều.

Một yêu cầu khách quan khác là hoạt động Du lịch đã làm cho đời sống văn hóa của nhân dân ở các khu du lịch được nâng cao. Khách du lịch và cả người địa phương đều mang trong lòng ý niệm hành hương, một cảm xúc tốt đẹp.

Tóm lại, nếu nói Du lịch là sự di chuyển của một cá nhân hay một tập thể từ vùng này đến vùng khác, từ nước này đến nước khác để thỏa mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần nhằm tạo cho cuộc sống tươi đẹp thêm thì phục vụ du lịch lại là một guồng máy sản xuất và cung ứng các dịch vụ từ công tác tuyên truyền quảng cáo, vận chuyển, hướng dẫn đến việc phục vụ ăn, ngủ, vui chơi giải trí, hoạt động xã hội... đòi hỏi được tiến hành một cách đồng bộ, ăn khớp nhịp nhàng và yêu cầu ngày một được cải tiến. nâng cao phù hợp với thị hiếu của khách du lịch.

Đối với những người đi du lịch, điều mà họ quan tâm đầu tiên là cảm tưởng mới mà họ nhận được ở nơi họ đến du lịch, có thể nói ngành Du lịch là ngành xuất khẩu các cảm tưởng. Do vậy các dịch vụ du lịch phải làm sao tạo được cảm tưởng mới cho khách, gợi cho họ những cảm tưởng đẹp. Mỗi đất nước, mỗi dân tộc có những cái đẹp đặc trưng khác nhau, ở nước này dân tộc này muốn tìm hiểu cái đẹp ở nước khác, dân tộc khác. Vì vậy trong các dịch vụ du lịch phải mang sắc thái của dân tộc, trong đó tính dân tộc độc đáo tiêu biểu phải được chọn lọc, nâng cao tạo được cảm xúc tốt đẹp cho khách. Đây là một yêu cầu lớn của những người làm công tác du lịch. Chính vì vậy mà Du lịch có thể xem như một dạng nghỉ ngơi tích cực của con người, đồng thời nó là một thành phần không thể thiếu được trong việc sử dụng thời gian nhàn rỗi của con người trong thời đại hiện nay.

Du lịch bắt nguồn từ tiếng Pháp theo từ “Tour” mà chúng ta thường hiểu là một cuộc hành trình bao giờ cũng trở lại điểm xuất phát. Từ nhũtng năm 30 của thế kỷ này có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu những mặt khác nhau của hiện tượng Du lịch để đưa ra 1 định nghĩa chính xác. Nhưng nhìn chung việc định nghĩa Du lịch gặp rất nhiều khó khăn vì :

1) Du lịch có 2 nghĩa. Một mặt khi nói đến Du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ở một nơi khác (cách xa nơi ở thường xuyên của họ) để nghỉ dưỡng chữa bệnh, thỏa mãn các nhu câu về văn hóa, nghệ thuật, lịch sử, giao lưu tình cảm, công vụ... Mặt khác Du lịch được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người, thông qua việc tổ chức phục vụ vận chuyển, phục vụ lưu trú, phục vụ ăn uống, phục vụ hướng dẫn tham quan.... Tất cả những hoạt động nêu trên tạo nên ngành kinh doanh Du lịch.

 

2) Năm 1963 Hội nghị do Liên hiệp quốc tổ chức tại Rome (Ý) để thảo luận về Du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau (Khách du lịch là người công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên). Nhưng cũng quy định không công nhận những người ở nước ngoài quá 1 năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng lao động, hoặc tìm nơi cư trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống ở nước này sang làm việc ở nước khác. Phạm trù “khách Du lịch" phải xuất phát từ những đặc điểm riêng và giai đoạn cụ thể của từng nước. Điều này đóng một vai trò rất quan trọng trong việc hình thành cơ sở lý luận cũng như vận dụng vào thực té sản xuất kinh doanh của Ngành.

Ngày nay lên cạnh việc đi du lịch ở nước ngòai, con người cũng đặt ra một nhu cầu du lịch trong nước không kém phần phong phú và đa dạng. Như vậy khái niệm chung về Du lịch cần được nghiên cứu xuất phát từ đối tượng hoạt động của du lịch, đó là người du khách.

Theo luật Du lịch Việt Nam: Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định.

1.1.2    Khách du lịch

Đây là khái niệm có nhiều quan niệm đưa ra. Khách du lịch là đối tượng trực tiếp tham gia vào quá trình hướng dẫn du lịch của hướng dẫn viên, là đối tượng của các đơn vi phục vụ và kinh doanh du lich.

Nói đến du lịch người ta hiểu rằng đó là cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người đến nơi khác nhằm mục đích thoả mãn mọi nhu cầu về nghỉ dưỡng, chữa bệnh, văn hoá, nghệ thuật, thể thao.v.v… Đối với hoạt động du lịch, con người với vai trò là một du khách có nhu cầu du lịch, rời khỏi nơi cư trú để thực hiện tour du lich. Điều này có nghĩa để trở thành một khách du lịch, con người phải hội tụ các điều kiện sau:

- Có thời gian rỗi

- Có khả năng thanh toán

- Có nhu cầu cần đươc thoã mãn.

Nhà kinh tế học người Ao, Lozep Stander định nghĩa: Khách du lịch là hành khách xa hoa, ở lại theo ý thích ngoài nơi cư trú thường xuyên để thoả mãn những nhu cầu cao cấp mà không theo đuổi mục đích kinh tế.

Kripendort đưa ra cách nhìn nhận chủ quan phiến diện của mình về du khách như sau: là nhũng kẻ nực cười, ngốc nghếch ít học, những nhà giàu có, quen thói bóc lột và vô cảm với môi trường.

 Năm 1963, Hội nghị do liên hiệp quốc tổ chức tại Rôma (Ý) để thảo luận về du lịch đã đi đến kết luận phạm trù khách du lịch quốc tế như sau: Khách du lịch là công dân của một nước sang thăm và lưu trú tại nước khác trong khoảng thời gian ít nhất là 24 giờ mà ở đó họ không có nơi ở thường xuyên, nhưng cũng không công nhận những người nước ngoài ở quá một năm hoặc những người đi ra nước ngoài thực hiện hợp đồng, hoặc tìm nơi lưu trú của mình cũng như những người ở vùng biên giới, sống nước này sang làm việc nước khác.

          Theo luật Du lịch Việt Nam: Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến.


7 lời khuyên cho người sắp đi du lịch

Không ít người đã phải đi nghỉ để lấy lại sức khoẻ sau một chuyến du lịch! Nguyên nhân là họ đã không có sự chuẩn bị tốt về nhiều mặt, trong đó quan trọng nhất là đã không lường trước được những điều nên tránh trong một chuyến đi xa.

Sau đây là một số kinh nghiệm mà các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch thế giới đưa ra cho những người đang khăn gói chuẩn bị lên đường trong những dịp nghỉ lễ, quốc khánh dài ngày. Các kinh nghiệm này được chuyên gia du lịch Joel Widzer tổng kết trong cuốn cẩm nang "Tấm hộ chiếu rẻ tiền cho những nơi đắt tiền" mới xuất bản.

1. Tránh những điểm nóng

Cứ mỗi mùa du lịch hay trước mỗi dịp lễ dài ngày, các công ty du lịch không tiếc tiền quảng cáo về những "điểm đến nóng nhất", những "nơi không thể không tới dù chỉ một lần" hay đại loại như vậy. Theo các chuyên gia, đây chính là những điểm nên tránh.

Tránh tới đó không chỉ vì tránh được đám đông chen lấn mà du khách sẽ tránh được những mức giá cao ngất, dù là đi trọn gói hay đi tự túc. Nếu không phải trả nặng tiền cho nhà tổ chức thì bạn cũng không thể mua rẻ từ những người buôn bán biết cách trục lợi từ những chỗ đông người, cung ít hơn cầu.

Giải pháp tốt nhất là chọn những nơi đưa ra các đề nghị giảm giá, các chính sách khuyến mãi bằng những sản phẩm giá trị gia tăng. Đặc biệt nên đến những địa danh lịch sử hoặc văn hoá, những nơi giá cả ít khi biến động theo mùa và ít hoạt động phiền nhiễu du khách hơn các nơi ồn ào khác.

2. Không so sánh tị nạnh

Có những người không bao giờ cảm thấy thoải mái trong các kỳ nghỉ. Từ khi xuất phát cho tới khi quay về, họ không ngớt để mắt nhìn xung quanh và tự tị nạnh với người khác. Du khách bên cạnh ngồi ghế máy bay hạng sang hơn, thuê phòng tiện nghi hơn, ăn uống nhiều sơn hào hải vị hơn hay thậm chí mặc cả giỏi hơn nên vớ được món hời hơn...

Tất cả những thứ tưởng chừng lặt vặt như vậy đã không buông tha đầu óc bạn bất cứ giây phút nào và ngấm ngầm phá hỏng hương vị thư thái của chuyến đi.

Do đó, trong bất kỳ hoàn cảnh nào, cần thoải mái với những gì mình có và chỉ tập trung vào những gì mình có thể hưởng thụ thay vì so sánh với bất cứ ai. Trong vô vàn những thứ có thể hưởng thụ trong các chuyến đi, chỉ nên tập trung vào những gì bạn thấy quan trọng, vào những cái không thể thiếu. Chẳng hạn, bạn có thể đi vé bình dân nhưng lại thuê phòng ngủ đắt tiền nếu thấy như vậy là hợp lý.

3. Tránh nổi nóng

Nhiều người không kìm được các cơn nóng giận trong mỗi chuyến đi dài, khi những thứ không mong đợi vẫn thường xuyên xảy ra. Nổi giận với hướng dẫn viên du lịch vì tội nói nhiều, cáu gắt vì xe chạy không kịp giờ hay cãi cọ với nhà hàng về cách phục vụ tồi chẳng làm lợi điều gì cho bạn ngoài những rắc rối. Không ít người phải vào đồn cảnh sát, thậm chí hầu toà vì những xung đột không đáng có do nổi nóng nơi xa lạ.

Nếu gặp phải tình huống không mong đợi, tốt nhất là quên nó ngay sau khi phải trả giá. Nếu ai đó không làm bạn vừa lòng, hãy chuyển sang người khác, sử dụng dịch vụ khác, thậm chí đi tới địa điểm khác ngay lập tức thay vì cố nán lại vì tiếc một chút tiền của hay thời gian. Đây được gọi là chiến thuật "con ong" - chỉ dừng lại nếu nếm thấy mật ngọt và bỏ đi ngay nếu dây vào lọ dấm!

4. Đừng quá lợi dụng các hãng du lịch

Thông thường, du khách thường mặc cả quyết liệt với các hãng du lịch trước khi đăng ký đi. Du khách lo sẽ bị lừa, bị hớ một khi ký vào hợp đồng nên đã đặt ra vô số các điều kiện, nhiều khi khó thể chấp nhận. Thế nhưng, để giữ được khách, không ít hãng du lịch đã gật bừa, đồng ý vô tội vạ.

Thế là, một khi du khách đã đồng ý khởi hành, các hãng du lịch, dù muốn dù không, phải ra sức tiết kiệm hoặc tìm cách vòi vĩnh, thu thêm để đủ bù vào các thoả thuận mặc cả nhún nhường trước đó. Đó là nguyên nhân của những hành động khó chịu như dồn đống khách vào một chỗ, đi lại bằng phương tiện tồi tàn và kém an toàn, đi tắt hoặc bỏ qua nhiều điểm quan trọng trong tuyến đi...

Do vậy, hãy đến với các hãng du lịch với tư cách là đối tác làm ăn theo nguyên tắc đôi bên cùng có lợi. Đó chỉ là nguyên tắc cơ bản của làm ăn kinh tế, của mỗi vụ ký kết hợp đồng và bạn cũng không nên quên, thoả thuận du lịch cũng đơn thuần là một hợp đồng kinh tế và nó yêu cầu được đối xử như mọi hợp đồng khác.

5. Tránh buồn rầu, thất vọng

Khi mọi thứ không diễn ra đúng ý muốn (nhiều khi là kỳ vọng khó đạt), đừng nên ngậm đắng nuốt cay hay than thân trách phận. Thay vào đó, hãy nghĩ cách giải quyết như đang làm việc thường ngày. Nhiều người luôn cho rằng mình đi nghỉ, đầu óc cũng phải được nghỉ ngơi tối đa, do đó rất lười suy nghĩ và không chịu tìm giải pháp cho mỗi tình huống khó khăn trong chuyến đi.

Tốt nhất, để tránh thất vọng trước mỗi chuyến du lịch, bạn nên tự tìm hiểu và nếu được, hãy kiểm tra trước những điểm bạn sẽ tới thay vì giao phó hoàn toàn việc đó cho hãng du lịch. Có quá nhiều kênh để bạn làm điều đó một cách nhanh chóng, từ điện thoại, internet, bạn bè, người quen ở địa phương mình sắp tới...

Một lần nữa cần nhắc lại, hãy coi hãng du lịch là đối tác làm ăn vì lợi ích chung là một chuyến đi an toàn và bổ ích. Như vậy, cả hai cùng bắt tay chuẩn bị thật tốt cho chuyến đi thay vì phó mặc cho một bên, dù bạn được phép làm như vậy.

6. Tuyệt đối không làm gì thái quá

Trong chuyến du lịch, không nên làm cái gì đó một cách thái quá, dù là điều hay, điều thú vị đến mấy. Hãy xác định một khoảng thời gian nghỉ ngơi nhất định, một khoản tiền có hạn và những hoạt động vừa phải trong mỗi chuyến đi thay vì cứ làm điều gì đó cho đến chán mới thôi.

Nhiều du khách đã phát ốm chỉ vì những chuyện không đáng: bị cảm vì quá mê mẩn một bãi tắm trong xanh, đau bụng vì ăn quá nhiều một món ăn lạ miệng, và thường xuyên hơn, bị những thành viên khác trong đoàn phiền lòng vì làm mất thời gian chung vào những khu vực thuộc sở thích đặc biệt của riêng mình.

Thông thường, sự thái quá trong các chuyến đi sẽ khiến bạn phải nỗ lực rất nhiều, hao tiền tốn công rất nhiều sau đó để chuộc lại lỗi lầm chỉ để đưa cuộc sống quay về mức bình thường.

7. Không đi nếu chưa sẵn sàng

Không nên đi du lịch chỉ vì nghe một người bạn kể về những điều thú vị của họ trong chuyến đi mới đây. Những điều đó có thể không thuộc sở thích hay điều kiện của bạn. Không đi chỉ vì đó là một kỳ nghỉ và bạn chưa có gì để làm. Thà không được hưởng niềm vui mới còn hơn gánh chịu nỗi thất vọng vì lý do cũ kỹ là chưa sẵn sàng.

Cũng như trước mọi công việc khác, hãy thực hiện một chuyến đi theo phong cách thật chuyên nghiệp. Tức là bạn phải chuẩn bị sẵn sàng tất cả các bước: lập kế hoạch khả thi - xin tư vấn - huy động các nguồn lực trong đó có tài chính - kêu gọi đối tác nếu cần - thực hiện theo các bước...

Có như vậy, bạn mới có thể hưởng một kỳ nghỉ mãn nguyện. Rõ ràng, để có một kỳ nghỉ thú vị cũng không hề là chuyện đơn giản.

Theo Nhật Vy (Tổng hợp) – VietNamNet


 

1.1.3    Tài nguyên du lịch

          Theo luật Du lịch Việt Nam: Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử, văn hoá, công trình lao động sáng tạo của ocn người và các giá trị nhân văn khác có thể sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch

1.1.4    Điểm và khu du lịch

Đối với quốc gia, vùng, miền và các nhà làm du lịch thì điểm và khu du lịch được xem là nguồn lực, là một trong những nhân tố quan trọng góp phần cạnh tranh, khai thác nguồn khách và đem lại nguồn thu cho mình. Tuy nhiên giữa điểm du lịch và khu du lịch có những điểm khác biệt cần phải nhận thức giúp các nhà quản l‎ý và các doanh nghiệp du lịch có chiến lược xây dựng, khai thác, phát triển, marketing phù hợp. Vì vậy chúng ta có thể phân biệt điểm du lịch và khu du lịch dựa trên các cơ sở sau:

v    Giống nhau:

-   Gắn liền với nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn

-   Có kết cấu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch

-   Tạo điều kiện công ăn việc làm cho cộng đồng địa phương

-   Đem lại nguồn thu và quảng bá cho cho đất nước và cộng đồng địa phương.

v    Khác nhau:

 

TT

Cơ sở phân biệt

Điểm du lịch

Khu du lịch

1

Khái niệm

Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của khách du lịch. (Điều 4Luật Du lịch)

Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường. (Điều 4Luật Du lịch)

2

Phân loạt

Có 2 loại:

- Điểm du lịch quốc gia

- Điểm du lịch địa phương

Có 2 loại:

- Khu du lịch quốc gia

- Khu du lịch địa phương

3

Sự đáp ứng nhu cầu của khách du lịch

Đáp ứng nhu cầu tham quan của khách du lịch là chủ yếu

Đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch

4

Quy mô và sức chứa du khách tối thiểu

- Đối với điểm du lịch quốc gia: Bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.

- Đối với điểm du lịch địa phương: Bảo đảm phục vụ ít nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.

(Điều 24Luật Du lịch)

- Đối với khu du lịch quốc gia: Có diện tích tối thiểu một nghìn héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất một triệu lượt khách du lịch một năm.

- Đối với khu du lịch địa phương: Có diện tích tối thiểu hai trăm héc ta; bảo đảm phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách du lịch một năm.

(Điều 23Luật Du lịch)

 

Kinh doanh tại điểm và khu du lịch bao gồm nhiều nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều này xuất phát từ nhu cầu và đỏi hỏi chính đáng từ khách du lịch. Các sản phẩm, dịch vụ tại điểm và khu du lịch càng phong phú, độc đáo, chất lượng, giá cả hợp l‎ý thì càng chiếm được cảm tình, tiêu dùng và quay lại của du khách. Điều này đỏi hỏi những nhà quản l‎ý, người kinh doanh tại điểm, khu du lịch cần có chính sách về sản phẩm cũng như giá hợp l‎ý để “kích thích” khả năng tiêu dùng của khách du lịch.

Nhìn chung các lĩnh vực kinh doanh tại điểm và khu du lịch gắn liền với việc đầu tư, bảo tồn, nâng cấp tài nguyên du lịch đã có, xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật phù hợp, phát triển và bảo vệ tài nguyên du lịch theo hướng bền vững.

1.1.5    Tuyến du lịch

Đây là khái niệm liên quan đến kinh doanh du lịch lữ hành. Từ những điểm, khu du lịch có sẵn tại các vùng, địa phương, quốc gia khác nhau khách du lịch hoặc thông qua các công ty lữ hành vạch ra cho mình những tuyến du lịch nhăm thoả mãn nhu cầu nghỉ ngơi, giải trí, và hiểu biết của mình. Có thể chia tuyến du lịch thành:

- Tuyến du lịch quốc tế

- Tuyến du lịch nội địa

- Tuyến du lịch ngắn ngày

- Tuyến du lịch dài ngày

- Tuyến du lịch văn hoá

- Tuyến du lịch danh lam thắng cảnh

....

Tuy có sự phân chia nhưng nhìn chung trong các tuyến du lịch đều có sự thống nhất và xen kẽ giữa các yếu tố. Ví dụ khi tham quan tuyến du lịch: Vũng Tàu – TP Hồ Chí Minh – Cần Thơ (3 ngày 2 đêm), là một tuyến du lịch ngắn ngày, du khách vừa tham quan vừa tham quan các di tích lịch sử văn hoá, vừa thưởng ngoạn cảnh đẹp, vừa vui chơi giải trí...

          Theo Luật Du lịch Việt Nam: Tuyến du lịch là lộ trình liên kết các khu du lịch, điểm du lịch, cơ sở cung cấp dịch vụ du lịch, gắn với các tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thủy, đường hàng không

 

1.1.6    Xúc tiến du lịch

Theo Luật Du lịch Việt Nam: Xúc tiến du lịch là hoạt động tuyên truyền, quảng bá, vận động nhằm tìm kiếm, thúc đẩy cơ hội phát triển du lịch.

1.1.7    Du lịch bền vững

Theo Luật Du lịch Việt Nam:Du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng được các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch của tương lai.

1.2      Lịch sử hình thành, phát triển du lịch thế giới và Việt Nam

1.2.1    Lịch sử hình thành và phát triển du lịch thế giới

Cũng như nhiều ngành khoa học, kỹ thuật, nghệ thuật sản xuất, ngành du lịch được hình thành sớm trong bối cảnh lịch sử nhất định. Lịch sử du lịch có nhiều bước thăng trầm, cả sự thành công lẫn thất bại. Nhìn chung, tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp đề có ảnh hưởng tích cực đến du lịch. Chiến tranh, thiên tai, đói kém… là những lí do cơ bản kìm hãm sự phát triển của du lịch. Những hiểu biết về lịch sử hình thành và phát triển du lịch trong quá khứ sẽ rất bổ ích cho người là du lịch hôm nay. Lịch sử sẽ cung cấp nhiều bài học quý báu cho các hoạt động và chính sách du lịch hiện tại.

  Về cơ bản, các nhà nghiên cứu về lịch sử du lịch cho rằng sự hình thành và phát triển ngành du lịch từ khi xã hội loài người bước vào quá trình phân công lao động, khi nghề thủ công được tách khỏi sản xuất nông nghiệp, khi xã hội bắt đầu có sự phân công giai cấp. Khả năng tích lũy lương thực là một yếu tố rất quan trọng cho việc tạo ra nhu cầu du lịch theo nghĩa sơ đẳng nhất.

   Thời cổ đại:

   Trong giai đoạn này có những phát minh quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến việc đi lại. Đó là phát minh ra thuyền buồm của người Ai Cập vào khoảng thiên niên kỷ thứ tư trước công lịch. Cũng thời gian này súc vật được thuần hóa không những là nguồn thức ăn dự trữ mà còn được sử dụng để chuyên chở lương thực, vũ khí và chính con người. Phát minh ra bánh xe của người Sumeri vào khoảng 3500 t.CN là một sự kiện có ý nghĩa vô cúng to lớn đối với việc đi lại của loài người.

  Vào khoảng 3000 năm trước công nguyên, Ai cập là một điểm thu hút khách du lịch trên thế giới. Họ đến để chiêm ngưỡng các kim tự tháp và các kỳ quan khác của đất nước văn minh, thịnh vượng này. Ngoài các nhà hoạt động chính trị, các thương gia, giới quý tộc thường xuyên phải đi lại trong nước và ra nước ngoài, còn hầu hết những người có nhu cầu đi lại là những người tín ngưỡng sùng bái tôn giáo. Trong những ngày lễ, hàng ngàn người đã hành hương đến các nhà thờ, tu viện… để cầu nguyện và cúng bái. Cuộc hành trình của họ kéo dài từ ngày này sang ngày khác, có khi tới hàng tháng. Trong thời gian này, khi chưa có hoạt động kinh doanh ăn, nghỉ, thì những người này thường phải ăn nghỉ nhờ những người quen. Dần dần dọc theo những con đường dẫn đến các khu Thánh địa, các nhà trọ, quán ăn đã được xây dựng để phục vụ khách bộ hành ăn nghỉ và bắt đầu hình thành hoạt động kinh doanh trong du lịch tôn giáo.

  Từ thế kỷ IV trước công nguyên, Hy lạp đã phát triển cường thịnh, giai cấp chủ nô đã đi đến các vùng đất ở Địa Trung Hải để thoả mãn nhu cầu tìm hiểu thế giới xung quanh và nhằm mục đích nghỉ dưỡng, chữa bệnh ở một số nguồn chất khoáng. Phương tiện đi lại chủ yếu là cưỡi la, đi xe bò, người giàu thì đi bằng xe ngựa, bằng kiệu. Du lịch công vụ cũng rất phát triển trong thời kỳ Hy lạp cổ đại, các chính khách, thương gia thường xuyên phải đi để thực thi các nhiệm vụ đặc biệt. Họ được cung cấp đầy đủ các dịch vụ về ăn uống, nghỉ ngơi, thậm chí có cả người dẫn đường, bào vệ.

  Năm 776 trước công nguyên, đại hội thể thao Olimpic đầu tiên tổ  chức ở Hy lạp thu hút nhiều người tham dự. Xung quanh những khu vực thi đấu người ta xây dựng nhiều cơ sở để phục vụ ăn nghỉ, vui chơi cho các vận động viên và khán giả. Và loại hình du lịch thể thao đã xuất hiện ở bán đảo này.

  Các quan lại giàu có người châu Á lại thích đi du lịch bằng kiệu hoa trang trí lộng lẫy có cửa chớp hoặc rèn che bao quanh, giá nâng được đặt trên vai của các phu khiêng kiệu. Bên cạnh đó là hàng đàn lạc đà đưa các du khách đi theo dọc con đường tơ lụa của Trung Quốc, nối dài từ Bagdad tới AdenSamarkand và Timbukfu. Kinh coran đề nghị các chuyến đi nên bắt đầu vào thứ 6, sau buổi cầu kinh trưa nhưng phần lớn các đoàn lữ hành đều đi từ sáng sớm đến chiều tối để có thể đi được 25 dặm một ngày. Họ nghỉ trưa ở các trạm và ngủ đêm trong các căn lều tự dựng bên đường hay các trạm nghỉ.

  Trong số những chuyến đi biển đầu tiên, những chuyến đi của cư dân vùng Đông Nam Á đến các khu vực ở châu Đại Dương thật đáng ngạc nhiên. Bằng thuền độc mộc nhỏ, dài chừng 3 – 4m, họ đã vượt hàng trăm km đến tận các đảo Marquessas, Toumotu, Society…

  Thời Trung Cổ:

  Sự suy tàn của các quốc gia cổ đại trong đó có đế quốc La Mã từ thế kỷ thứ IV và từ khi đế quốc Tây La Mã diệt vong (476) đã làm cho hoạt động du lịch bị ảnh hưởng sâu sắc. Nhiều kiệt tác kiến trúc, nghệ thuật, xã hội, văn học bị vứt bỏ, hủy hoại. Phương tiện đi lại trên bộ duy nhất là xe ngựa và các xe ngựa kéo. Cho tới tận thế kỷ thứ X, du lịch không còn an toàn, tiện nghi và thoải mái như trước đó. Chiến tranh liên miên, biên giới biến động làm cho việc đi lại trở nên khó khăn. Đường xá trở thành các rảnh bẩn thỉu và đầy ngập bọn trộm cướp. Vì vậy những chuyến đi du lịch cũng ít ỏi và khá mạo hiểm.

 Thời kỳ này, đạo Thiên Chúa đã trở thành một lực lượng lớn mạnh ở châu Au. Nó hậu thuẫn mạnh mẽ cho các cuộc chiến tranh nên đã thay thế và trở thành tư tưởng thống soái. Du lịch tôn giáo là loại hình chủ yếu trong giai đoạn này. Những cuộc thập tự chinh tôn giáo, hành hương về thánh địa, nhà thờ diễn ra một cách rầm rộ. Các quán trọ hai bên đường mọc lên để phục vụ mọi người không phải vì mục đích kinh tế mà đa phần chỉ như dấu hiệu về sự đóng góp của con chiên cho sự sáng danh Đức Chúa Trời. Xuất hiện những người chuyên hướng dẫn cho khách đi lại, cách hành lễ…  

 Thời kỳ này dã xuất hiện những chuyến viễn du dài ngày đầu tiên của loài người với những tìm tòi khám phá mới đã phá vỡ tầm hiểu biết hạn hẹp của các cộng đồng Trung cổ và khơi dậy tính hiếu động, tò mò của con người. Con người đã có những chuyến đi dài ngày nhằm mở rộng “cánh cửa nhận thức” để được khám phá những vùng đất mới, những nền văn minh nhân loại.

 Năm1275, một thanh niên tên là Marco Polo theo cha và chú sang Trung Quốc trong một chuyến buôn. Tại đây, Marco Polo được gặp Hốt Tất Liệt. Bị cuốn hút bởi uy thế của Hoàng đế và một thế giới bí ẩn, khác lạ ở phương Đông, ông đã ở lại đây 17 năm. Khi về nước ông đã viết cuốn: “Marco Polo phiêu lưu kí” kể về những gì mắt thấy tai nghe ở xứ Trung Hoa kì bí. Có thể  coi đây là một trong những tài liệu hướng dẫn du lịch đầu tiên trên thế giới.

 Cuối thế kỷ XV, đầu thế kỷ XVI những hiểu biết về địa lý, thiên văn, hải dương và kỷ thuật đi biển đã giúp con người có những phát kiến địa lý lớn. Từ năm 1492 đến 1504, Chistofe Colombo đã tiến hành bốn cuộc hành trình thám hiểm sang một lục địa mới mà sau này gọi là Châu Mỹ. Những chuyến đi này không phải vì mục đích du lịch, nhưng trên ý nghĩa nhất định, đã mở hướng cho hoạt động lữ hành quốc tế trên biển.

 Năm 1548, Vasco de Gama đã cùng thủy thủ đoàn đi dọc theo bờ biển Tây Phi xuống phía Nam. Khi gần đến mũi cực Nam châu Phi, đoàn thuyền của ông bị bão thổi dạt sang bờ đông của Nam Mỹ. Lúc đó ông không hề biết rằng đây là một lục địa mới. Ông cho thuyền quay về phía Đông hướng tới Hảo Vọng Giác. Vượt qua nhiều ngày lênh đênh trên biển đoàn thuyền của ông đã đến được An Độ, Thành công của ông đã mở ra một chân trời mói trong sự thông thương buôn bán Đông Tây bằng đường biển.

  Thời Cân Đại

  Cuộc cách mạng tư sản, bắt đầu bằng cuộc cách mạng ở Netherland (1564 – 1609), đến cách mạng tư sản Anh (1642 – 1660), cách mạng tư sản Mỹ (1776 – 1783), cách mạng tư sản Pháp (1776 – 1883)… đã mở ra cho con người sự giao lưu mới với thiết chế tự do tư sản.

 Vào năm 1784, James Watt đã chế tạo ra động cơ hơi nước liên tục đầu tiên. Phát minh này châm ngòi nổ cho cách mạng công nghiệp lần thứ nhất, mở ra chân trời mới cho ngành vận chuyển và ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triể du lịch loài người.

 Năm 1885, một kỹ sư người Đức là Benz đã sáng chế ra chiếc ôtô đầu tiên. Do tính tiện ích của nó, ngay năm sau, công nghiệp ôtô đã ra đời đã góp phần đáng kể cho việc thu hút và vận chuyển du khách đi du lịch.

 Về phương tiện thông tin liên lạc, thời kì này con người đã phát minh ra các phương tiện truyền tin không gian nhu điện tín (1876), điện thoại (1884), radio (1895)…

 Nhu cầu tích tụ tư bản thúc đẩy giai cấp tư sản cho xây dựng mạng lưới giao thông lớn cùng với các phương tiện vận chuyển ngày càng hiện đại và mở rộng các dịch vụ ở nhiều nơi trên thế giới. Những cơ sở hạ tầng đó về khách quan cũng tạo thuận lợi cho các tuyến lữ hành xuyên quốc gia. Nếu trước kia, người ta chú ý tới các kỳ quan thế giới như kim tự tháp (Ai Cập), vườn treo Babilon, đền thờ Nữ thần Artemis ở Ephese.v.v.. thì nay đã mở ra nhiều nơi khác với rừng, bờ biển đẹp và suối khoáng.v.v.. Du lịch quốc tế có xu hướng tăng trong thế kỷ XIII. Đó là chuyến du lịch của các sinh viên đại học sau khi tốt nghiệp đã đến các nước để kiểm chứng thực tế trong 2-3  năm trở về áp dụng trong các Công ty, xí nghiệp của mình.

 Cuộc hành trình du lịch tập thể đầu tiên ở Anh do Thomas Cook tổ chức năm 1841 cho 570 người đi bằng tàu hỏa từ Leicester đến dự hội nghị của những người chống nghiện rượu tại Laoughborough, cách 12 dặm đánh dấu một bước ngoặc mới trong ngành kinh doanh du lịch. Một năm sau ông thành lập Văn phòng du lịch đầu tiên ở Anh nhằm tổ chức cho người Anh đi du lịch trong nước và ra nước ngoài. Ông bắt đầu có những chuyến du hành trong phạm vi hẹp ở nước Anh phục vụ cho học sinh, phụ huynh, các cặp vợ chồng.… tới những nơ mà họ chưa có dịp tới. Nắn bắt nhu cầu muốn đi nghỉ hè và tham quan du lịch ở pháp, năm 1854, hãng Thomas Cook và các con đã bắt đầu tổ chức các tuyến du lịch sang châu Au.

 Thành công của Thomas Cook đạt được là do khả năng thông hiểu nhu cầu về du lịch ở thời đại ông. Ông nắm bắt được những đòi hỏi, mong muốn và những yếu tố thúc đẩy du lịch để triển khai trong các tour của mình.

  Năm 1876, Thomas Cook cho ra mắt một loại hoá đơn đặc biệt gọi là “Phiếu thanh toán”, tiền thân của sec du lịch hiện nay. Nhờ có hoá đơn này du khách có thể thanh toán tại hàng trăm khách sạn trong danh mục của Cook.

 Công ty lữ hành Thomas Cook trong thời gian 1850 tới 1900 là điềm báo cho một thời đại du lịch thựch sự dành cho số đông dân chúng. Và Thomas Cook đã được nhân loại suy tôn là ông tổ của ngành lữ hành.

 Thời kỳ hiện đại:

 Ngày nay, với sự tiến bộ của khoa học kỷ thuật trong ngành giao thông vận tải đã mở ra một kỷ nguyên mới cho sự phát triển du lịch. Số lượng người đi đông hơn, nhanh hơn, tiết kiệm được thời gian nên hành trình xa hơn, đến nhiều nơi hơn.

 Trước chiến tranh thế giới lần thứ nhất, du lịch quốc tế đã đạt được những tiến bộ đáng kể. Nhưng trong những năm chiến tranh, du lịch quốc tế hầu như tê liệt.

 Trong những năm giữa hai cuộc chiến tranh thế giới các khu du lịch nghỉ biển lại được phục hồi và phát triển nhanh chóng, đặc biệt là Pháp, Ytalia, Anh, HyLap, Đức… Ở những nước này đã thành lập cơ quan Nhà nước về du lịch, một vài nước đã thành lập Bộ du lịch. Và năm 1925 thì “Liên minh Quốc tế của các tổ chức du lịch được hình thành lập”.

 Trong chiến tranh thế giới thứ II, các hoạt động kinh doanh du lịch quốc tế hầu như bị đình tuệ. Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật trong du lịch phần bị phá huỷ, phần thì biến thành cơ sở phục vụ chiến tranh.

 Trong những năm đầu sau chiến tranh, du lịch quốc tế được phục hồi rất chậm, bởi vì lúc này các nước bị tàn phá trong chiến tranh đang bước vào giai đoạn hàn gắn vết thương chiến tranh và khôi phục nền kinh tế đất nước.

 Trong ba thập kỷ (từ những năm 50 đến những năm 80) sau chiến tranh thế giới thế II, cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới đã đạt được những tiến bộ vượt bậc, nó thúc đẩy ngành kinh tế du lịch phát triển thật sự . Sự tăng trưởng trung bình năm của du lịch quốc tế thập kỷ 1950 – 1960 khoảng 10,98%, 1960 –1970 là 8,3%, thập kỷ 1970 – 1980 là 6%, thập kỷ 1980 – 1990 khoảng 5%, trong mấy năm gần đây, tốc độ tăng trưởng lại nâng lên 7,5 – 9%.

 Cùng với sự tăng trưởng về số lượng, sự thay đổi về cơ cấu của khách du lịch, cùng với sự gia tăng của tổng doanh thu trong ngành du lịch, đã ra đời và phát triển nhiều loại hình du lịch. Vận chuyển khách bằng đường bộ và đường không đã chiếm lĩnh một vị trí quan trọng trong ngành du lịch quốc tế. Các Công ty khách sạn, lữ hành, Công tuy môi giới… lần lượt ra đời đã làm nảy sinh cuộc cạnh tranh gay gắt trên thị trường du lịch quốc tế.

 Kể từ khi hình thành và thoát thai để trở thành một ngành kinh tế độc lập, có chổ đứng trong thương trường, ngành du lịch đã có những biến đổi thăng trầm. Người ta ví ngành du lịch quốc tế như là “một con ngựa đua đường trường, có lúc chạy nhanh, lúc mỏi mệt thì nghỉ lại để rồi dồn sức tạo sự đột phá mang theo sứ mệnh chuyển cái Đẹp tới cho con người”.

 Xu hướng phát triển của du lịch thế giới

 Ngày nay, mặc dù một sồ khu vực trên thế giới còn những bất đồng về chính trị, sắc tộc và tệ nạn khủng bố song xu hướng chung của nhân loại là hoà bình, hữu nghị hợp  tác và phát triển. Các quốc gia tranh thủ thời cơ để mở rộng quan hệ về kinh tế, chính trị và văn hoá xã hội. Nhiều hiệp hội, tổ chức đã ra đời như ASEM, ASIAN, OPEC, EU v.v… Các quốc gia đã có sự tìm hiểu lẫn nhau về văn hoá, xã hội để mở ra hướng đầu tư thích hợp cho mình.

 Du lịch có xu hướng gia tăng theo số lượng: số lương khách, thành phần khách, loại hình, sản phẩm du lịch các doanh nghiệp kinh doanh du lịch. Theo ước tính thì hiện nay có hơn 5% dân cư thế giới tham gia vào du lịch quốc tế. Những yếu tố được coi là nguyên nhân chính ảnh hưởng tới sự tăng trưởng này là mức sống của người dân, giá cả các dịch vụ hạ hơn trong khi mức thu nhập của họ tăng dần.

 Từ sau chiến tranh thế giới thứ II, cơ cấu thành phần du khách có nhiều thay đổi hay còn gọi là xã hội hóa thành phần du khách. Du lịch không còn là đặc quyền của tầng lớp quý tộc, tầng lớp trên của xã hội nữa. Xu thế quần chúng hoá thành phần du khách trở nên phổ biến ở nhiều nước. Lý do của hiện tượng này cũng la mức sống của người dân được nâng lên cao, giá cả dịch vụ hàng hoá không đắt, các phương tiện giao thông vận tải, lưu trú phong phú và thuận tiện. Nhưng điều quan trọng là chính sách của địa phương có điểm du lịch. Ở nhiều nơi, nhà nước có chính sách khuyến khích người dân đi du lịch do thấy được ý nghĩa của hiện tượng này đối với sức khoẻ cộng đồng.

   Nhờ sự tiến bộ của khoa học kĩ thuật, đặc biệt là ngành công nghiệp ô tô, tàu hoả, tàu thuỷ, máy bay siêu tốc...và sự bùng nổ của công nghệ thông tin mà địa bàn du lich ngày càng mở rộng, cự li ngày càng dài ra. Với vị trí đặc biệt của mình, sư  phát triển cao về lực lượng sản xuất và có nhiều di tích lịch sử, văn hoá mà Châu Au có ngành du lịch quốc tế phát triển sớm mạnh và là châu lục có nhiều người đi và đến du lịch nhất. Hiện nay du lịch quốc tế đang có xu hướng phát triển nhanh ở châu Á, châu Phi, Châu Đại Dương, tuy nhiên khu vực Trung Cận Đông và châu Phi mới chỉ ở mức triển vọng vì hiện tại đang có nhiều bất ổn về kinh tế và chính trị.

   Căn cứ vào số khách nước ngoài tới du lịch và số người đi du lịch ra nước ngoài của từng nước, số ngoại tệ thu được của du khách cùng cán câu thanh toán du lịch, có thể phân ra 3 loại nước khác nhau trong sự phát triển du lịch quốc tế:

1.     Các nước chủ yếu là du lịch bị động: Hoa kỳ, Nhật Bản, Anh, Uc, Balan, CH Séc, Slovakia, NiuDilan.

2.     Các nước phát triển du lịch chủ động: Tây Ban Nha, Ý, Thuỵ Sĩ, Bồ Đào Nha, Ai Cập.

3.     Các nước có sự phát triển cân bằng du lịch quốc tế chủ động, bị động: Pháp, Hunggary, Ixraen, Thổ Nhĩ Kỳ, một số nước Nam Mỹ và các nước châu Á.

  Do đời sống ngày càng cải thiện cải thiện, nhu cầu tích luỹ tăng không ngừng nên trong các chuyến du lịch, khả năng chi trả của con người là rất cao. Nhu cầu mà con người hướng tới, bên cạnh nhu cầu ăn uống là phục hồi, duy trì sức khỏe, vui chơi giải trí, tìm hiểu, khám phá thế gới, tìm hiểu, khai thác thị trường và một nhu cầu đặc biệt khác là bay vào vũ trụ.

  Trên phạm vi thế giới, số khách du lịch lớn nhất là khách đi nghỉ ở bờ biển. Trong tương lai, tỷ lệ du lịch biển sẽ giảm đi do phát triển của du lịch trên núi.Một đặc điểm nữa có ý nghĩa lớn đối với phân bố là tính chất giải trí là tính chất giải trí đối lập, tức người đi du lịch thường tìm đến môi trường đối lập với nơi họ sinh sống (Vùng núi - Vùng biển; Thành phố – Nông thôn…).

Các Tổ chức quốc tế về du lịch

v    Tổ chức du lịch thế giới (World Tourism Organisation - WTO; Organisation Mondiale du Tourism - OLVLT):

Là 1 tổ chức quốc tế đứng đầu và được tín nhiệm rộng rãi nhất về lĩnh vực du lịch và lữ hành. Tổ chức này gồm 139 thành viên thuộc 139 quốc gia và hơn 350 thành viên chi nhánh đại diện cho chính phủ quốc gia, hiệp hội du lịch, các viện giáo dục, các công ty tư nhân gồm hàng không, khách sạn và các nhà tổ chức tour.

Trụ sở của WTO đặt tại Madrid, thủ đô Tây Ban Nha. Ngôn ngữ chính thức của WTO là tiếng Anh, Pháp, Nga và Tây Ban Nha. WTO là một tổ chức liên chính phủ về xúc tiến và phát triển du lịch do Liên hiệp quốc giao phó. Thông qua du lịch, mục tiêu của WTO là kích thích phát triển kinh tế và tạo ra công ăn việc làm, đẩy mạnh gìn giữ và bảo vệ môi trường và di sản cũng như tăng cường thúc đẩy hoà bình và hiểu biết, tôn trọng lẫn nhau giữa các quốc gia trên thế giới, tôn trọng nhân quyền và các quyền tự do cơ bản, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ và tôn giáo.

Ban đầu WTO được thành lập vào năm 1 925 tại Hague với tên gọi là Liên minh quốc tế các tổ chức quảng bá du lịch chính thức. Sau thế chiến thứ 2, nó được chuyển đến Geneva và đổi tên là Liên minh quốc tế các tổ chức du lịch chính thức (International Union for Official Tourism Organisations) viết tắt là IUOTO.

Tháng 5 năm 1975 cuộc họp tòan thể đầu tiên của tổ chức này diễn ra tại Madrid.

Năm 1976, WTO trở thành tổ chức điều hành của chương trình phát triển Liên hiệp quốc (UNDP)

Năm 1977 một hiệp định hợp tác chính thức đượcký kết với Liên hiệp quốc. Ngày 17 tháng 9 năm 1981, tại Hội nghị Đại hội đồng của WTO lần thứ 4 tại Ý, Việt Nam đã được kết nạp là thành viên chính thức của tổ chức này.

WTO có nhiệm vụ chính là truyền tải sự hiểu biết về du lịch đến các nước đang phát triển. Cụ thể hơn là WTO cung cấp nhiều kinh nghiệm về du lịch cho những mục tiêu phát triển của các quốc gia trên thế giới.

WTO nổi tiếng về thống kê và nghiên cứu thị trường. Việc nghiên cứu là một trong những đóng góp quan trọng trong khuôn khổ ngành du lịch; phân chia tác động của du lịch về kinh tế quốc gia, dự đóan trước, khảo sát những xu hướng và công bố kết quả sẵn có.

Mục tiêu khác của WTO là phát triển nguồn nhân lực. WTO tạo ra tiêu chuẩn cho ngành giáo dục du lịch. WTO tổ chức những cuộc hội thảo, những khóa học từ xa và những buổi ngọai khóa cho các nhân viên du lịch thuộc các nước thành viên.

WTO cũng nổ lực tạo điều kiện thuận lợi cho ngành lữ hành thế giới thông qua việc lọai bỏ hoặc giảm các phương sách cũng như tiêu chuẩn hóa các yêu cầu về hộ chiếu, thị thực v.v...

WTO củng cố chất lượng du lịch thông qua sự mở rộng tự do mua bán, tiếp cận, thăm dò khách du lịch bị tàn tật, an tòan, an ninh và những tiêu chuẩn về kỹ thuật.

v    Hội đồng du lịch và lữ hành thế giới (World Travel and Tourism Council - WTTC)

          Là một liên minh tòan cầu gồm 100 viên chức đứng đầu ở tất cả các khu vực ngành công nghiệp : lưu trú, ăn uống, du lịch biển, giải trí, vận chuyển và lữ hành.

WTTC thành lập năm 1990 do một Hội đồng gồm 15 thành viên dẫn dắt, triệu tập 1 năm 2 lần va 2báo cáo cho cuộc họp hàng năm. Những họat động hàng ngày được điều hành bởi chủ tịch và nhóm nhân viên đặt tại Anh. Mục tiêu đó là làm việc với các chính phủ để tạo cho du lịch một chiến lược phát triển kinh tế và ưu tiên công ăn việc làm nhằm tiến đến mở cửa và cạnh tranh thị trường, xoá bỏ những rào cản phát triển để công nhận tiềm năng kinh tế của ngành du lịch và khả năng phát sinh công việc; phát triển nguồn vốn và tiến bộ kỹ thuật, kết nối cơ sở hạ tầng với nhu cầu khách hàng.

v    Hiệp hội khách sạn quốc tế (International hotel Association - LHA)

Được thành lập năm 1969 thay thế cho hiệp hội các nhà kinh doanh khách sạn và Liên hiệp khách sạn quốc tế.

Mục tiêu hành động của một tổ chức quốc tế về ngành công nghiệp nhà hàng và khách sạn nói chung thực thi các chức năng của một hiệp hội thương mại ở mức độ quốc tế. Hiệp hội có 4.300 hội viên ở̉ 145 quốc gia và vùng lãnh thổ. Trụ sở của Hiệp hội đặt tại Paris - thủ đô Cộng hoà Pháp.

v    Hiệp hội vận chuyển hàng không quốc tế (International Air Transport Assoeiation - IATA):

Là một tổ chức toàn cầu về hàng không quốc tế. Chức năng chính của IATA là tạo sự an toàn trong việc vận chuyển hành khách và hàng hoá từ mọi

nơi ở̉ mạng lưới hàng không thế giới đến bất cứ nơi khác bằng sự kết nối cáctuyến đường bay.

Nhiệm vụ của IATA là đại diện và phục vụ cho ngành công nghiệp hàng không thế giới : phục vụ 4 nhóm theo sự vận hành suôn sẻ của hệ thống vận chuyển hàng không thế giới: hành không; công chúng; các chính quyền; nhóm thứ 3 như nhà cung cấp, nhân viên du lịch và nhân viên vận chuyển hàng hoá.

IATA hoạt động mật thiết với tổ chức hàng không dân dụng quốc tế. Văn phòng chính của IATA đặt tại Montreal, Canada. Cơ quan điều hành đặt ở Geneva, Thuỵ Sỹ̃, ngoài ra còn có các văn phòng đại diện cho các khu vực trên thế giới.

 Các Tổ chức trong khu vực:

v    Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dương (Pacific Asia Travel Association - PATA):

Đại diện cho những quốc gia ở̉ Thái Bình Dương và Châu Á hợp nhất lại để đạt được mục tiêu chung, đó là, vượt trội về phát triển du lịch và lữ hành trong khu vực rộng lớn này. Công việc của Hiệ̣p hội là phát triển du lịch thông qua các chương trình nghiên cứu, phát triển, giáo dục và tiếp thị. PATA đã hòan thành xuất sắc và tạo được tiếng vang trong số các tổ chức thế giới.

PATA được thành lập năm 1951 tại Hawaii với tên gọi là Hiệp hội lữ hành khu vực Thái Bình Dương (Pacific Area Travel Association), tổ chức này có mục đích thúc đẩy sự phát triển hợp tác trong lĩnh vực du lịch giữa các nước, các cơ quan du lịch của các nước trong khu vực.

Các thành viên PATA bao gồm các chính quyền, các công ty hàng không, hàng hải, các khách sạn, các công ty du lịch

Là 1 thành viên của PATA, chi hội PATA Việt Nam được thành lập ngày 04/01/1994

Hàng năm PATA tổ chứ chội nghị thường niên lần lượt tại các nước thành viên nhằm trao đổi kinh nghiệm, hỗ trợ hợp tác về du lịch giữa các nước trong khu vực.

Cơ quan quyền lực tối cao của PATA là hội nghị thường niên, Ủy ban điều hành, Ủy ban thường trực và Ban thư ký

Hội nghị thường niên của PATA xem xét các họat động của Hội trong năm, có thẩm quyền sửa đổi Điều lệ, nguyên tắc họat động và bộ máy tổ chức thông qua các vấn đề ngân sách, xác định địa điểm của kỳ họp kế tiếp và thông qua dự thảo nghị quyết của Hội nghị.

Tạp chí PATA, bản tin PATA là những ấn phẩm du lịch có uy tín trên thế giới nhờ vào những thông tin rất thời sự và tin cậy. PATA còn tổ chức hội chợ du lịch Thái Bình Dương nhằm hỗ trợ cho việc xúc tiến hợp tác kinh doanh du lịch.

v    Hiệp hội Du lịch Châu Âu (European Travel Commission - ETC)

          Là một khối liên minh chiến lược cộng tác giữa 31 tổ chức du lịch quốc gia Châu Âu. ETC là một tổ chức du lịch phi lợi nhuận, được thành lập năm 1948, trụ sở chính đặt tại Brussels, Bỉ.

          Mục tiêu của ETC là :

          - Hỗ trợ về hợp tác du lịch quốc tế ở các nước Châu Âu

          - Trao đổi các thông tin về các dự án phát triển du lịch và kỹ thuật tiếp thị

          - Cam kết triển khai các họat động nghiên cứu về du lịch

          - Xúc tiến họat động du lịch đến các nước ở Châu Âu, đặc biệt từ Bắc Mỹ và Nhật Bản

          Hiện tại chiến lược của Hiệp hội này tập trung vào các họat động sau :

          - Cải tiến chất lượng dịch vụ ở Châu Âu

          - Kích cầu ở các nước lân cận bằng cách bỏ Visa, đơn giản hóa các thủ tục xuất nhập cảnh

          - Cải thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp du lịch

          - Thúc đẩy phát triển du lịch bền vững.


Từ 1980 đến nay, ngày 27-9 là ngày mà ngành công nghiệp không khói của nhiều nước trên thế giới đón mừng Ngày du lịch thế giới (WTD). Mỗi năm, ngày này được đón mừng theo một đề tài đã được nhất trí chọn trước đó bởi Đại hội đồng Tổ chức Du lịch thế giới (WTO, trụ sở chính đặt tại Madrid, Tây Ban Nha).

Chủ đề Ngày Du lịch Thế giới

Từ năm 1980, ngày 27/9 được chọn làm ngày kỷ niệm của Du lịch Thế giới. Mục đích của ngày kỷ niệm này là làm cho mọi người nhận thức được rằng Du lịch rất cần cho cộng đồng quốc tế và thấy được ảnh hưởng rộng lớn của nó với nền kinh tế, chính trị, văn hoá và xã hội.

Mỗi năm, kỷ niệm ngày Du lịch Thế giới lại có một chủ đề mới và nước chủ nhà là hội viên của UNWTO được chọn để tổ chức kỷ niệm ngày này bởi Hội đồng Chung của Du lịch Thế giới. Ngày 27/9 là một ngày quan trọng kể từ cuối năm 1969, quy chế của UNWTO được chấp thuận. Sự chấp thuận của các quy chế được coi là một mốc quan trọng trong du lịch toàn cầu.

 

Năm

Tên chủ đề

1980

 

Du lịch góp phần gìn giữ các di sản văn hoá; gìn giữ hoà bình và tăng cường hiểu biết lẫn nhau

1981

Du lịch là phẩm chất cao quí của cuộc sống

1982

Niềm tự hào khi đi du lịch, khách tốt và chủ tốt

1983

Du lịch là nghỉ ngơi, là quyền lợi và cũng là trách nhiệm của mọi người

1984

Du lịch là yếu tố tăng cường sự hiểu biết, hoà bình và sự hợp tác quốc tế

1985

Du lịch tuổi trẻ, di sản văn hóa và lịch sử phục vụ cho hoà bình và hữu nghị

1986

Du lịch, một sức sống hoà bình thế giới

1987

Du lịch phục vụ sự phát triển

1988

Du lịch là giáo dục cho tất cả mọi người

1989

Sự tự do đi lại của khách du lịch đang tạo ra một thế giới mới

1990

Một ngành công nghiệp chưa được biết tới, một ngành dịch vụ cần được biết đến

1991

Thông tin liên lạc và giáo dục, những yếu tố thúc đẩy sự phát triển du lịch

1992

Du lịch, nhân tố của tình đoàn kết ngày càng tăng giữa các xã hội, các nền kinh tế của cuộc gặp gỡ giữa các dân tộc

1993

Phát triển du lịch và bảo vệ môi trường nhằm vươn tới sự hài hoà lâu dài

1994

Chất lượng phục vụ, chất lượng du lịch

1995

Tổ chức Du lịch Thế giới phục vụ du lịch thế giới trong 20 năm

1996

Du lịch: một nhân tố của khoan dung và hoà bình

1997

Du lịch: một hoạt động của thế kỷ 21 vì sự sáng tạo của công việc và bảo vệ môi trường

1998

Sự cộng tác giữa công – tư: chìa khoá để phát triển, xúc tiến và quảng bá du lịch

1999

Du lịch: gìn giữ di sản thế giới cho thiên niên kỷ mới

2000

Công nghệ và tự nhiên: hai vấn đề thách thức sự phát triển du lịch trong thế kỷ 21

2001

Du lịch: cầu nối hòa bình và sự đối thoại giữa các nền văn minh

2002

Du lịch sinh thái, chìa khóa để phát triển bền vững

2003

Du lịch: động lực xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm và hài hoà xã hội

2004

Thể thao và du lịch: động lực quan trọng thúc đẩy sự hiểu biết lẫn nhau, văn hoá và phát triển xã hội

2005

Lữ hành và giao thông, từ trí tưởng tượng của Jules Verne tới hiện thực ở thế kỷ 21

2006

Du lịch – Công cụ quan trọng nâng cao chất lượng cuộc sống

2007

Du lịch tạo nhiều cơ hội cho phụ nữ

                                                                        (Nguồn: Tổ chức Du lịch thế giới – UNWTO)


 

1.2.2    Lịch sử hình thành và phát triển du lịch Việt Nam

  Dân tộc Việt Nam với “rừng vàng biển bạc” là cái nôi tạo nên bức tranh “sơn thuỷ hữu tình” lôi cuốn bao người muốn khám phá cái Đẹp. Chúng ta có thể khẳng định rằng hoạt động du lịch ở nước ta đã có từ lâu đời. Việc mở mang bờ cõi của nhà nước phong kiến Việt Nam chắc chắn có liên quan chặt chẽ với các chuyến đi du lịch của vua quan và các học giả. Những thi sĩ như Trương Hán Siêu, Hồ Xuân Hương, với tâm hồn tự do, ưa phóng khoáng luôn có những cuộc “dã ngoại” tìm đến thiên nhiên để tìm cảm hứng cho những cảm hứng sáng tác của mình. Bà huyện Thanh Quan đã từng có cuộc hành trình dài ngày từ xứ Bắc vào kinh đô Huế để nhận chức Cung trung giáo tập. Các dấu tích trên đá của Nguyễn Nghiễm ở Bích Động (1973), của chúa Trịnh Sâm ở Hương Tích và nhiều vua quan, nhà nho khác là những bằng chứng về chuyến du ngoạn của họ.

    Trong thời kỳ thực dân Pháp đô hộ, việc khai thác tài nguyên phục vụ mục đích du lịch và nghỉ dưỡng càng trở nên rõ nét hơn. Hàng loạt nhà nghỉ, biệt thự được xây dựng ven các bãi biển, vùng hồ hay vùng núi, nơi có khí hậu dễ chịu như Đồ Sơn, Đà Lạt, Vũng Tàu, Ba vì, Tam Đảo… Giai đoạn này chứng kiến tầng lớp quan lại, vua chúa sang “mẩu quốc ” để tuyên truyền cái gọi là “khai sáng văn minh”. Bên cạch đó chúng ta còn chứng kiến nhiều du học sinh sang các nước Pháp, Nhật, Trung Quốc theo những tổ chức khác nhau  tìm đường giải phóng đất nước. Tuy vậy sự đi lại đó chỉ mang tính chính trị nhiều hơn là đi du lịch.. Trước năm 1945, du lịch Việt Nam chưa tạo cho mình một nét đặt trưng hay nói cách khác chưa có động lực để phát triển.

    Sau ngày hòa bình lập lại (1954), đất nước tạm thời chia thành 2 miền. Việc khai thác du lịch đi theo 2 hướng khác nhau. Ở miền Bắc, mặc dù điều kiện kinh tế còn hết sức khó khăn song thanh thiếu niên, học sinh, sinh viên thường tổ chức các chuyến đi tham quan, cắm trại và tham gia các hoạt động vui chơi ngoài trời. Ở miền Nam, một số khách sạn lớn đã được xây dựng để đáp ứng nhu cầu một số ít người thuộc tấng lớp trên của xã hội và binh lính, sĩ quan nước ngoài.

v     Ngày 9/7/1960 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 26 CP thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương, đánh dấu sự ra đời của ngành Du lịch Việt Nam.

v     Ngày 16/3/1963 Bộ Ngoại thương ban hành Quyết định số 164-BNT-TCCB quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức của Công ty Du lịch Việt Nam.

v     Ngày 18/8/1969 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 145 CP chuyển giao Công ty Du lịch Việt Nam sang cho Phủ Thủ tướng quản lý.

v     Ngày 27/6/1978 Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban hành Quyết nghị số 262 NQ/QHK6 phê chuẩn việc thành lập Tổng cục Du lịch Việt Nam trực thuộc Hội đồng Chính phủ.

v     Ngày 23/1/1979 Hội đồng Chính phủ ban hành Nghị định số 32-CP quy định nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch Việt Nam.

v     Ngày 15/8/1987 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 120-HĐBT về chức năng, nhiệm vụ và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.

v     Ngày 9/4/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 119-HĐBT thành lập Tổng công ty Du lịch Việt Nam.

v     Ngày 31/12/1990 Hội đồng Bộ trưởng ban hành Nghị định số 447-HĐBT về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Bộ Văn hóa - Thông tin - Thể thao và Du lịch.

v     Ngày 26/10/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 05-CP thành lập Tổng cục Du lịch.

v     Ngày 27/12/1992 Chính phủ ban hành Nghị định số 20-CP về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch.

v     Ngày 7/8/1995 Chính phủ ban hành Nghị định số 53/CP về cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch.

v     Ngày 25/12/2002 Bộ Nội vụ ban hành Quyết định số 18/2002/QĐ-BNV về việc cho phép thành lập Hiệp hội Du lịch Việt Nam.

v     Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam là một bộ thuộc Chính phủ Việt Nam. Ngày 31 tháng 7 năm 2007, Quốc hội khóa 12 ra Nghị quyết quyết định thành lập Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch Việt Nam trên cơ sở sáp nhập Ủy ban Thể dục Thể thao, Tổng cục Du lịch và mảng văn hóa của Bộ Văn hóa Thông tin Việt Nam.

Việc hợp tác và hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh trong những năm qua, thể hiện rõ nhất trong việc tăng cường các hoạt động hợp tác song phương và đa phương, tham gia tích cực vào diễn đàn khu vực và châu lục. Du lịch Việt Nam tích cực tham gia và khai thác những lợi thế và quyền lợi của mình trong việc trong việc tham gia các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực (Tổ chức Du lịch Thế giới WTO, Hiệp hội Du lịch Châu Á – Thái Bình Dương PATA), các diễn đàn du lịchnhư Diễn đàn du lịch ASEAN, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch châu Á – Thái Bình Dương, Hội nghị Bộ trưởng Du lịch APEC tại Chi lê. Ngoài ra, Du lịch Việt Nam còn tranh thủ sự gúp đỡ, tư vấn của các tổ chức quốc tế như WTO, Tổ chuức Phát triển bền vững Hà Lan (SNV) trong việc xây dựng dự thảo Luật Du lịch. Sử dụng hiệu qủa nguồn vốn ODA của các nước cho phát triển nguồn nhân lực du lịch như nguồn vốn do Luxembourg và Liên minh châu Au (EU) tài trợ. Trong những năm gần đây, thế giới đã nhìn nhận Việt Nam như là một điểm đến an toàn đối với du khách. Bằng chứng là năm 2000, Thủ đô Hà Nội được trao danh hiệu “Thủ đô vì hoà bình”, du khách đến với Việt Nam mà không phải lo lắng bởi xung đột, tiếng bom, tiếng súng. Các nhà doanh nghiệp, nhà đầu tư có môi trường kinh doanh thuậ lợi. Chính điều này đã tạo nên môi trường đầu tư du lịch lí tưởng. Năm 2004, đã có 15 dự án FDI đầu tư vào du lịch được cấp phép với số vốn hơn 110 triệu USD.

 Hiện nay, chương trình hành động quốc gia về du lịch tiếp tục được tập trung triển khai thực hiện. Nhiều sự kiện, lễ hội văn hóa du lịch đã được tổ chức như: Fesival Huế, Lễ hội Văn hóa du lịch biển Đà Nẵng, Năm Du lịch Điện Biên Phủ, Lễ hội 100 năm du lịch Sa pa, Lễ hội Văn hóa du lịch “Nhịp cầu xuyên Á”, Tháng du lịch “Hội An – Cảm xúc mùa hè”, Hội thảo “Du lịch Quảng Trị với con đường Di sản Miền Trung”, Lễ hội Văn hóa du lịch Việt – Nhật tại TP. Hồ Chí Minh….

  Du lịch việt Nam cũng đã chủ trì hoặc tham gia tổ chức các sự kiện quốc tế lớn như Hội nghị Bộ trưởng châu Á – Thái Bình Dương về Du lịch văn hóa gắn với xóa đói, giảm nghèo tại Huế, Hội nghị Thưởng đỉnh về hợp tác Á –Âu (ASEM 5) tại Hà Nội.Việc tổ chức các sự kiện trên đã tạo nên một khí thế mới cho Du lịch Việt Nam, thu hút số lượng lớn khách du lịch trong và ngoài nước, thúc đẩy phát triển các loại hình, sản phẩm du lịch mới, đặc trưng mà Việt Nam có thế mạnh.

 Theo dự báo của tờ báo điện tử  Hospitality Net, Việt Nam – một đất nước giàu di sản văn hoá và có bề dày lịch sử sẽ tiép tcj thu hút khách từ nhiều nơi trên thế giới. Tờ báo viết: Theo cuộc khảo sát do HotelBenchmark thực hiện thì từ tháng 9/2004, sự tăng trưởng về doanh thu phòng khách sạn tại thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh cao hơn bất cứ quốc gia Đông Nam Á nào khác. Theo Tổng cục Du lich Việt Nam(VNAT), trong 9 tháng đầu năm số du khách tăng 30,5%, đạt 2,1 triệu người  so với cùng thời kì năm 2003. Nguồn du khách chủ lực là Trung Quốc, đóng góp hơn 27% lương du khách; tiếp theo là Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc. Du lịch trong nước cũng tăng trưởng khá khi thu nhập của người dân tăng nhanh và việc đi lai dễ dàng, thuận tiện hơn.

  Tính đến cuối năm 2004, cả nước đón được khoảng 2,9 triệu lượt khách quốc tế, vượt chỉ tiêu kế hoạch đặt ra (2,8 triệu) và tănh gần 20% so với năm 2003; khách du lịch nội địa đạt 14 triệu lượt; thu nhập du lịch đạt khoảng 28 ngàn tỷ đồng. Các thị trường trọng điểm quốc tế vẫn tiếp tục được duy trì và tăng trưởng. Hầu hết khách quốc tế từ các thị trường truyền thống của Du lịch Việt Nam đều đạt mức tăng trưởng hai con số: khách Nhật tâng khoảng 30%, Hàn Quốc tăng 80%, Sinhgapo tăng hơn 40%, Thái Lan tăng 39%, Malaysia: 26%, Mỹ: 28%, Canađa tăng hơn 40%, Uc: 40%. Hoạt động du lịch sôi động, tăng diện và quy mô, nhưng vẫn đản bảo được an ninh và trật tự, an toàn xã hội.

Tuy đạt được những kết quả nêu trên, nhưng các chỉ tiêu chủ yếu về lượng khách, thu nhập đạt được so với một số quốc gia có du lịch phát triển trong khu vực vẫn còn có khoảng cách khá lớn; tổ chức bộ máy, nhân sự của ngành chưa tương xứng với vai trò, vị trí và mục đích chính trị của một ngành kinh tế mà Đảng ta xác định là mũi nhọn.

Bước sang năm 2005, trong bối cảnh có nhiều sự kiện trọng đại của đất nước và của ngành du lịch: 60 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9, 75 năm thành lập Đảng, 30 năm giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, 45 năm ngày thành lập Ngành Du lịch v.v…, Du lịch Việt Nam phải vươn lên mạnh mẽ trên các mặt để phấn đấu. Chỉ tiêu đặt ra là đón trên 18 triệu lượt khách du lịch (3 triệu lượt khách du lịch quốc tế tăng 14% so với năm 2004) và hơn15 triệu lượt khách nội địa, tăng 6,5% so với năm 2004).

         

Theo Tổng cục Thống kê, trong tháng 8/2009 ước tính tổng số khách du lịch quốc tế đến Việt Nam đạt 314.915 lượt người, tăng 16% so với tháng 7 năm 2009 và giảm 8% so với cùng kỳ năm trước. Ước tính tổng số khách quốc tế đến Việt Nam 8 tháng đầu năm 2009 đạt 2.479.939 lượt người, giảm 17,7% so với cùng kỳ năm 2008; trong đó, lượng khách đến du lịch, nghỉ dưỡng là 1.460.709 lượt người, giảm 20,7%; khách đến vì công việc là 464.605 lượt người, giảm 20,7%; khách đến thăm thân là 387.141 lượt người, tăng 1,2%; khách đến vì các mục đích khác là 167.487 lượt người, giảm 18,4% so với cùng kỳ năm 2008. Trong 8 tháng đầu năm 2009, lượng khách đến từ các nước đều giảm nhưng tốc độ giảm đã chậm lại so với tháng trước: Trung Quốc giảm 35%, Hàn Quốc giảm 21,6%, Đài Loan giảm 17,5%, Thái Lan giảm 16,8%, Đài Loan giảm 15,4%; Australia giảm 11,8%, Nhật Bản giảm 11,4%, malaysia giảm 4,4%, Mỹ giảm 3,9% so với cùng kỳ năm 2008.

                                                                                    Theo: www.tongcucdulich.com.vn

 Ngành Du lịch đã đề ra Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010 và định hướng tới 2020 với các mặt sau:

¨    Định hướng thị trường: Tiếp tục phát triển các thị trường Đông Á – TBD (Nhật, Trung Quốc, ASEAN), châu Au (Đức, Pháp, Anh), Bắc Mỹ (Mỹ). Chú trọng thị trường bắc Au, Uc, New zealand và các thị trường truyền thống, các nước SNG, Đông Au).

¨    Sản phẩm du lịch: Phát triển du lịch sinh thái và văn hóa.

¨    Xúc tiến, tuyên truyền, quảng bá: Đẩy mạnh xúc tiến quảng bá, thiết lập  đại diện du lịch.

¨    Đầu tư phát triển: Các khu du lịch quốc gia, các sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh, tôn tạo và nâng cấp các điểm du lịch, cơ sở vật chất và cơ sở hạ tầng du lịch, tăng đầu tư ngân sách nhà nước lên 3 – 4% và tổng đầu tư các ngành sản xuất dịch vụ.

¨    Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực: Tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ, hệ thống đào tạo, nghiên cứu khoa học vá công nghệ.

¨    Hợp tác quốc tế: Song phương, khu vực, các tổ chức quốc tế.


BÁO CÁO TÓM TẮT THÀNH TÍCH

45 năm xây dựng và trưởng thành của Ngành Du lịch Việt Nam

I. SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN

Trong suốt 45 năm hình thành và phát triển, ngành Du lịch luôn được Đảng và Nhà Nước quan tâm ở mỗi thời kỳ đều xác định vị trí của Du lịch trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước phù hợp với yêu cầu cách mạng.

Giai đoạn đất nước còn tạm thời bị chia cắt, trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, từ năm 1960 đến 1975, Du lịch ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu phục vụ các đoàn khách của Đảng và Nhà nước, khách Du lịch vào nước ta theo các Nghị định thư. Để thực hiện mục tiêu này, Hội đồng Chính phủ đã ban hành Nghị đinh số 26/CP, ngày 09/07/1960, thành lập Công ty Du lịch Việt Nam trực thuộc Bộ Ngoại thương. Quản lý nhà nước về Du lịch thuộc chức năng của Bộ Ngoại thương với một Phòng chuyên trách 4 người; năm 1969 chức năng này chuyển về Phủ Thủ tướng; sau đó chuyển sang Bộ Công an. Trong điều kiện rất khó khăn của chiến tranh và qua nhiều cơ quan quản lý, ngành Du lịch đã nỗ lực phấn đấu, vượt qua mọi thử thách, từng bước mở rộng nhiều cơ sở Du lịch ở Hà Nội, Hải Phòng, Quảng Ninh, Tam Đảo, Hoà Bình, Thanh Hoá, Nghệ An… Ngành Du lịch đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị, phục vụ an toàn, có chất lượng; một lượng lớn khách của Đảng và Nhà nước, các đoàn chuyên gia các nước Xã hội chủ nghĩa anh em vào giúp Việt Nam thực hiện 2 nhiệm vụ là xây dựng Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và giải phóng Miền Nam thống nhất đất nước; đồng thời đón tiếp phục vụ, đáp ứng nhu cầu du lịch, tham quan nghỉ mát của cán bộ, bộ đội và nhân dân.

Sau ngày miền Nam hoàn toàn giả phóng, đất nước thống nhất, hoạt động Du lịch dần trải rộng ra các miền Tổ quốc. Ngành Du lịch bước vào xây dựng bộ máy tổ chức và đội ngũ lao động, phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật, chuẩn bị điều kiện chuyển dần sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Ở giai đoạn này, ngành Du lịch hoạt động trong điều kiện đất nước vừa phải qua cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc lâu dài, phải tập trung sức hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế và phá thế bao vây cấm vận của Mỹ; đồng thời lại phải tiếp tục cuộc chiến đấu bảo vệ biên cương phía Bắc và Tây Nam. Từ năm 1975 đến 1990, hoà vào khí thế chung của đất nước đã được thống nhất, ngành Du lịch đã làm tốt nhiệm vụ  tiếp quan, bảo toàn và phát triển các cơ sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố vừa giải phóng; lần lượt mở rộng, xây dựng thêm nhiều cơ sở mới từ Huế, Đà Nẵng, Bình Định đến Nha Trang, Lâm Đông, thành phố Hồ Chí Minh, Vũng Tàu, Cần Thơ… từng bước thành lập các doanh nghiệp du lịch nhà nước trực thuộc Tổng cục Du lịch và Uỷ ban Nhân dân tỉnh, thành phố và đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam được thành lập trực thuộc Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bước phát triển mới của ngành Du lịch .

Trong giai đoạn này, ngành Du lịch đã phấn đấu vượt qua những khó khăn, thử thách mới, tổ chức đón tiếp và phục vụ khách du lịch quốc tế từ các nước Xã hội chủ nghĩa anh em và các nước khác trên thế giới đến Việt Nam. Du lịch đã góp phần tích cực tuyên truyền giới thiệu về đất nước, con người Việt Nam với bạn bè thế giới và tổ chức cho nhân dân đi du lịch giao lưu hai miền Nam -  Bắc, thiết thực góp phần giáo dục tinh thần yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc. Thông qua du lịch, thế giới hiểu rõ thêm quan điểm, nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân Việt Nam sau chiến tranh muốn là bạn của  tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển, góp phần phá thế bao vây cấm vận của Mỹ. Về mặt kinh tế - xã hội, ngành Du lịch đã phát triển thêm một bước, hoạt động có kết quả tốt, đặt nền móng cho ngành Du lịch bước vào giai đoạn mới.

Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nước ngành Du lịch đã khởi sắc, vươn lên đôi mới quản lý và phát triển, đạt được những thành quả ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất luợng, dần khẳng định vai trò, vị trí của mình. Chỉ thị 46/CT-TƯ của Ban Bí thư Trung ương Đảng khoá VII tháng 10 năm 1994 đã khẳng định “Phát triển du lịch là một hướng chiến lược quan trọng trong đường lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nuớc”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bước được hình thành, thể chế hoá bằng văn bản quy phạm phát luật, tạo môi trường cho du lịch phát triển, nâng cao hiểu lực quản lý.

Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hoá – Thông tin, rồi vào Bộ Thương mại, tháng 11 năm 1992 Tổng cục Du lịch được thành lập lại, là cơ quan thuộc Chính phủ. Tổng cục Du lịch đã nhanh chóng củng cố, ổn định tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ cán bộ công chức, khắc phục khó khăn, vươn lên về mọi mặt để thực hiện tốt chức năng quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương đến các tỉnh, thành phố. Trong quá trình cải cách hành chính, đến nay bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch , 2 sở Du lịch – Thương mại, 46 sở Thương mại - Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch.

45 năm hình thành và phát triển, được Đảng và Nhà nước quan tâm, các ngành, các cấp phối hợp, giúp đỡ, nhân dân hưởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng với sự cố gắng nỗ lực của cán bộ, công nhân viên toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc chuẩn bị hành trang để vững bước tiến vào thế kỷ 21 với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

      II. NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC

Trải qua hơn 45  năm phát triển, một quãng thời gian không dài đối với sự nghiệp phát triẻn của một ngành, song cũng có thể thấy được những bứoc chuyển biến mạnh mẽ cả về số lưọng và chất của Du lịch Việt nam, là một trong những ngành kinh tế tổng hợp quan trọng, mang nội dung văn hoá sâu sắc, có tinh liên ngành, liên vùng và xã hội hoá cao, có tốc độ tăng trưởng khá trong thời gian vừa qua, kể cả trong điều kiện khủng hoảng kinh tế tại Châu Á, thiên tai, dịch bệnh diện rộng, toàn cầu và chiến tranh xung đột cục bộ và khủng bố ở nhiều nơi trên thế hiới những năm gần đây

1. Đổi mới, nâng cao nhận thức quan điểm về du lịch: Toàn Ngành đã chú trọng huy động công sức và trí tuệ nhiên cứu lý luận và khảo nghiệm, tổng kế thực tiễn phát triển du lịch trong nước và quốc tế, hình thành, đề xuất và hoàn chỉnh dần hệ thống các quan điểm, chủ trương, chính sách phát triển du lịch với Đảng và Nhà nước. Những chủ trưong, chính sách phát triển du lịch và sự quan tâm của Đảng và Nhà nước thể hiện trong các Nghị quyết Đại hôi đảng toàn quốc, trong Chỉ thị 46 CT/TW ngày 14/10/1994, của Ban Bí thư trung ương, Thông báo số 179 TB/TW, ngày 11/11/1998, của Bộ Chính trị và Nghị quyết số 45/CP, ngày 22/6/1993, của Chính phủ về đổi mới quản lý và phát triển ngành Du lịch đã được Ngành quán triệt, triển khai thực hiện đưa nhanh vào cuộc sống. Ngành Du lịch đã phối hộ với các Bộ, ngành, đoàn thể, địa phương và vácc cơ quan thông tin đại chúng tổ chức nhiều hội nghị, hội thảo, các cuộc thi tìm hiểu, tuyên truyền du lịch sâu rộng trong các cấp, các ngành và trong nhân dân.

Ngành Du lịch được Đảng và Nhà nước xác định là “Một ngành kinh tế quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước” với mục tiêu: “Phát triển mạnh du lịch, từng bước đưa nước ta trở thành trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực” Quan điểm đó được kiểm nghiệm trong thực tiễn phát triển du lịch Việt Nam trong suốt nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII và đến nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX được nâng lên: “Phát triển nhanh du lịch thật sự trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn”. Dự thảo văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X (dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội  5 năm 2006 - 2010) xác định: Phát triển du lịch, một ngành kinh tế mũi nhọn”; phấn đấu sau năm 2010, Việt Nam được xếp vào nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Phát triển nhanh dịch vụ du lịch chất lượng… để góp phần tạo bước phát triển vượt bậc của khu vực dịch vụ. Nhiều tỉnh, thành phố, tỉnh uỷ, thành uỷ đã có kế hoạch và nghị quyết về phát triển du lịch, xác định vai trò, vị trí của du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển du lịch trong cơ cấu kinh tế, đề ra giải pháp và chỉ đạo thực hiện kế hoạch phát triển du lịch của địa phương mình. Các địa phương trong cả nước đã có sự chuyển biến nhận thức về vai trò, vị trí và hiệu quả của sự phát triển du lịch, đã quan tâm, chú trọng đến phát triển du lịch, coi du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn, kinh tế động lực, một hướng quan trọng để chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế khác của địa phương, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn và phát huy văn hoá, tăng cường giao lưu với các địa phương trong nước và quốc tế, tạo việc làm cho các tầng lớp dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo và là một phương thức làm giàu ngành và toàn xã hội về vai trò, vị trí và hiệu quả nhiều mặt của du lịch và trách nhiệm phát triển du lịch. Việc nâng cao nhận thức về du lịch và phát triển dulịch đã chuyển hoá thành hành động cụ thể, để huy động ngày càng tăng các nguồn lực khai thác tiềm năng và lợi thế du lịch của đất nước cho sự nghiệp phát triển du lịch nước nhà theo hướng bền vững.

2. Bộ máy và năng lực quản lý nhà nước về du lịch, hệ thống kinh doanh du lịch được kiện toàn, hoạt động thích nghi dần với cơ chế mới: Nhìn chung, giai đoạn từ tháng 10 năm 1992 trở về trước, hệ thống tổ chức bộ máy ngành Du lịch chưa thực sự định hình và thiếu tính thống nhất về mô hình tổ chức ở các địa phương. 32 năm (1960 - 1992) đã có 6 lần chuyển đổi tổ chức bộ máy ngành Du lịch. Vì vậy sự chỉ đạo trực tiếp của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ Trung ương xuống các tỉnh, thành phố và doanh nghiệp mất tính liên tục và kế thừa dẫn đến quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp lỏng lẻo, hạn chế hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch, hiệu quả kinh doanh không cao và ngành Du lịch tụt hậu so với du lịch các nước có điều kiện tương đồng. Tổ chức bộ máy chưa ngang tầm với vị trí, vai trò yêu cầu phát triển của ngành Du lịch; cán bộ phân tán, mất đi tính thừa kế.

Trước tình trạng đó, trên cơ sở Nghị quyết của Quốc hội, ngày 17/10/1992, Chính phủ đã có Nghị đinh số 05/CP thành lập lại Tổng cục Du lịch; tiếp đó có Nghị định số 20-CP, ngày 27/12/1992 và Nghị định số 53-CP, ngày 07/8/1995, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của Tổng cục Du lịch. Theo đó Tổng cục Du lịch có 5 vụ, Thanh tra, Văn phòng Tổng cục Du lịch; 4  đơn vị sự nghiệp và các doanh nghiệp trực thuộc. Nhờ ổn định và từng bước được kiện toàn về tổ chức, du lịch nước ta mới khởi sắc và phát triển.

Ngày 18/9/2003, Chính phủ ban hành Nghị định số 94/2003NĐ-CP về chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Du lịch . Theo Nghị định này, Tổng cục Du lịch là cơ quan thuộc Chính phủ thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn lý nhà nước về du lịch trong phạm vi cả nước; quản lý nhà nước các dịch vụ công trong du lịch; và thực hiện một số nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể về đại diện chủ sở hữu  phần vốn của nhà nước tại doanh nghiệp trực thuộc. Từ chức năng đó, Tổng cục Du lịch có 20 nhiệm vụ; cơ cấu tổ chức gồm 6 Vụ, Thanh tra, Cục Xúc tiến, Văn phòng Tổng cục, 8 đơn vị sự nghiệp và 15 doanh nghiệp trực thuộc.

Cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương quản lý nhà nước về Du lịch từ năm 1993 đến nay đã từng bước được quan tâm thành lập, củng cố và phát triển. Trước tiên là việc thành lập 14 Sở Du lịch ở các tỉnh, thành phố là trung tâm Du lịch và nơi có nhiều tiềm năng du lịch; các tỉnh khác thành lập phòng Du lịch nằm trong cơ sở Thương mại – Du lịch. Một số địa phương ở cấp quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh đã thành lập phòng quản lý Du lịch hoặc giao chức năng quản lý Du lịch cho phòng kinh tế.

Đến nay bộ máy quản lý nhà nuớc về Du lịch ở Trung ương có Tổng cục Du lịch, ở địa phương có 15 sở Du lịch, 2 sở Du lịch-Thương mại, 46 sở Thương mại-Du lịch và 01 sở Ngoại vụ - Du lịch, hình thành một hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về Du lịch từ Trung ương đến địa phương, đang vươn lên thực hiện chức năng quản lý nhà nước về Du lịch trên phạm vi cả nước và từng địa phương, hoàn thành nhiệm vụ như vai trò của một Bộ.

Các cơ chế chính sách phát triển Du lịch được bổ sung, tạo môi trường cho du lịch phát triển. Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 1995 – 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt; quy hoạch các vùng Du lịch và các trọng điểm Du lịch đã được xây dựng; trên 50 tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương và một số điểm Du lịch, khu Du lịch đã có quy hoạch Du lịch, tạo điều kiện để đẩy mạnh quản lý du lịch và xây dựng các dự án đầu tư. Hàng trăm dự án quy hoạch chi tiết du lịch và hàng chục dự án quy hoạch Du lịch khách đang được khẩn trương thực hiện, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, góp phần quản lý, khai thác tài nguyên Du lịch ngày một hiệu quản. Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001-2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7/2002. Chương trình hành động quốc gia về Du lịch được phê duyệt thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn 2001-2005 và Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2006-2010 đang trình Chính phủ phê duyệt.

Chính sách, thể chế tạo nền tảng thúc đẩy Du lịch phát triển đã được hình thành và đổi mới phù hợp dần với điều kiện và xu hướng phát triển Du lịch thế giới và trong nước. Pháp lệnh Du lịch ra đời năm 1999 là khung pháp lý cao nhất, là bước ngoặt quan trọng khẳng định vai trò của Ngành và thể chế hoá đường lối phát triển du lịch của Đảng và Nhà nước; tạo điều kiện cho hoạt động Du lịch phát triển đi vào nề nếp và có định hướng mục tiêu rõ ràng. Các nghị định, thông tư hướng dẫn thực hiện Pháp lệnh Du lịch về các lĩnh vực quản lý chi nhánh, văn phòng đại diện Du lịch ở trong và ngoài nước; lữ hành, hướng dẫn du lịch; lưu trú; thanh tra Du lịch; xử phạt hành chính; quản lý môi trường Du lịch…đã được ban hành và thực hiện có hiệu quả. Năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật Du lịch để điều chỉnh các quan hệ Du lịch ở tầm cao hơn; khẳng định một lần nữa vị thế của ngành Du lịch ngay từ trong đường lối, chính sách và thể chế. 5 Nghị định và 1 Quyết định hướng dẫn Luật Du lịch đang được khẩn trương dự thảo và trình Chính phủ, Thủ  tướng Chính phủ ban hành, sẽ nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch.

Các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến Du lịch như Pháp lệnh xuất, nhập cảnh, cư trú, di lại cho người Việt Nam; cho người nước ngoài và các văn bản liên quan khác được bổ sung; thủ tục nhập, xuất cảnh, cư trú, đi lại, hải quan liên tục được cải tiến thuận tiện hơn cho khách cho khách và các nhà đầu tư. Việc áp dụng miễn thị thực song phương cho công dân một số nước, miễn thị thực đơn phương cho công dân Nhật Bản, Hàn Quốc và 4 nước Bắc Âu và đang triển khai miễn thị thực cho một số nước khác là giải pháp chủ động, tích cực và khá mạnh bạo trong bối cảnh an ninh hiện nay để thu hút du khách vào nước ta tăng nhanh.

Lực lượng kinh doanh du lịch phát triển mạnh, thích nghi dần cơ chế mới, từng bước làm ăn có hiệu quả: Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của cả 6 thành phần kinh tế (nhà nuớc; tập thể; cá thể, tiểu chủ; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước; 100% vốn nước ngoài). Trước Đại hội Đảng lần thứ IX, trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành chỉ có doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài được phép hoạt động, nay mở rộng cho cả doanh nghiệp tư nhân. Tính đến nay, cả nước đã có khoảng 6.000 cơ sở kinh doanh lưu trú; 399 doanh nghiệp lữ hành quốc tế, trong đó có 203 doanh nghiệp trách nhiệm hữu hạn, 124 doanh nghiệp nhà nước, 63 doanh nghiệp cổ phần, 8 liên doanh và 2 doanh nghiệp tư nhân. Các địa phương có số doanh nghiệp lữ hành quốc tế nhiều nhất là Hà Nội (148 DN), Thành phố Hồ Chí Minh (144), Quảng Ninh (17), Đà Nẵng (14) và Hải Phòng (8); hơn 10 nghìn doanh nghiệp lữ hành nội địa. Số lượng cơ sở kinh doanh vận chuyển du lịch (tư nhân, cổ phần và hợp tác xã chiếm tỷ trọng lớn) chưa có số liệu thống kê, nhưng xu hướng phát triển rất mạnh. Ngoài ra còn có khoảng hàng nghìn hộ tư nhân kinh doanh du lịch hoạt động ở hầu hết các địa phương cả nước.

Việc sắp xếp, đôi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp Du lịch nhà nước được địa phương và Tổng cục Du lịch quan tâm. Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã có chị thị, nghị quyết và đề án sắp xếp doanh nghiệp Du lịch nhà nước. Tổng công ty Du lịch Sài Gòn (Saigon Tourist), Tổng công ty Bến Thành và một số công ty du lịch đã phát huy vai trò chủ đạo trong hoạt động lữ hành, quảng bá, phát triển thị trường, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật Du lịch. Hà Nội đã thành lập Công ty mẹ - Công ty con trong du lịch. Đề án sắp xếp lại doanh nghiệp trực thuộc Tổng cục Du lịch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và đang tổ chức triển khai trong năm 2003 – 2005, theo hướng để lại 4 doanh nghiệp mạnh ở Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh và Vũng Tàu; hình thành “Công ty mẹ - Công ty con” trên cơ sở 8 công ty; cổ phần hoá các công ty hiện có. Cả nước đã cổ phần hoá được trên 100 doanh nghiệp, nhìn chung sau khi cổ phần hoá hoạt động hiệu quả hơn, trước mắt đời sống người lao động được nâng lên.

3. Huy động ngày một nhiều nguồn lực để xây dựng cơ sở vật chất, nâng cao chất luợng và đa dạng hoá sản phẩm Du lịch: Toàn Ngành và các địa phương, đặc biệt là ở các địa bàn trọng điểm du lịch, đã phát huy nội lực, huy động vốn từ nhiều nguồn để phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. 5 năm vừa qua, Chính phủ đã cấp 2.146 tỷ đồng hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch ở các khu du lịch trọng điểm. Đã phối hợp với các ngành và địa phương chỉ đạo phát triển các trọng điểm du lịch, các vùng du lịch mà Nghị quyết Đại hội Đàng lần thứ IX đã xác định; khai thác và phát  huy lợi thế về hạ tầng và điều kiện kinh tế - xã hội của các khu kinh tế mở và vùng kinh tế trọng điểm để phát triển du lịch; gắn kết hoạt động du lịch với hoạt động của các khu kinh tế mở, các vùng kinh tế trọng điểm.

 

Bảng 1. Vốn ngân sách trung ương hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng du lịch

Năm

2001

2002

2003

2004

20051

Tổng số

Lượng vốn (tỷ đồng)

266

380

450

500

550

2.146

Số dự án

23

73

167

122

-

3852

(1) Năm 2005 vốn đầu tư hạ tầng du lịch được ghi cho 58 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, không ghi cho dự án

(2) Không tính năm 2005

Nguồn: Tổng cục Du lịch

Vốn hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng từ ngân sách nhà nước đã khuyến khích các địa phương, các thành phần kinh tế đầu tư hàng nghìn tỷ đồng đầu tư cho cơ sở hạ tầng du lịch và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch. Cùng với đầu tư của Nhà nước và các thành phần kinh tế trong nước, ngành Du lịch đã thu hút mạnh mẽ nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tính đến nay cả nước có 190 dự án với tổng số vốn đăng ký đầu tư là 4,64 tỷ USD, ở 29 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Các địa phương thu hút được nhiều dự án và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nhất là: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Lâm Đồng, Quảng Ninh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Khánh Hoà.

 

Bảng 2. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) thời kỳ 1995 – 2004

Năm

1995

2000

2001

2002

2003

2004

Thời kỳ
1995- 2004

Số dự án

24

02

04

25

13

15

83

Vốn (Triệu USD)

1.381,23

22,8

10,3

174,2

239

111,17

1.938,67

(3) Tính đến năm 1995

Nguồn: Tổng cục Du lịch

Việc tăng cường mở rộng hợp tác, thu hút vốn đầu tư, tài trợ củ quốc tế đã đạt được những thành quả đáng kích lệ. Đặc biệt ngành Du lịch đã tranh thủ được nhiều tổ chức quốc tế các chính phủ và tổ chức phi chính phủ tài trợ cho phát triển du lịch như về các lĩnh vực quy hoạch phát triển du lịch, phát triển nguồn nhân lực, du lịch, cải cách hành chính, xây dựng văn bản quy phạm phát luật du lich. Tổng cục Du lịch cũng đã chỉ đạo toàn Ngành tích cực tìm kiếm, khai thác nguồn đầu tư quốc tế. Nhiều Hội nghị xúc tiến đầu tư của các địa phương được tổ chức ở trong và ngoài ngước đã dành ưu tiên đặc biệt cho kêu gọi đầu tư phát triển du lịch.

Cùng với dự án phát triển nguồn nhân lực do Luxenbourg với số vốn trên 10 triệu Euro và dự án EU tài trợ với số vốn khoảng 12 triệu EURO, Tổng cục Du lịch đã tiếp nhận và điều hành dự án “Phát triển du lịch Mekong” do ADB tài trợ, với khoản kinh phí 12,2 triệu USD (có 8,47 triệu USD vốn vay ưu đãi) tập trung chủ yếu cho xây dựng cơ sở hạn tầng du lịch tại đồng bằng sông Cửu Long. Từ năm 1998 đến 2004 đã có 190 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong lĩnh vực du lịch với tổng số vốn là 4.635.357.029 USD, nâng tổng số dự án tới nay là 239 dự án với tổng số vốn là 6,112 tỷ USD.

Đầu tư ra nước ngoài, tuy còn mới đối với Du lịch Việt Nam, song bước đầu cũng được thực hiện với chủ trương dựa vào lợi thế so sánh trong khai thác giá trị văn hoá, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ… Các dự án đầu tư ra nước ngoài được thực hiện dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, với các hình thức kinh doanh ăn uống tại một số nước láng giềng và các nước Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ. Tuy các dự án đầu tư ra nước ngoài chưa nhiều (5 dự án), quy mô nhỏ, nhưng đây là hướng đi đúng, đạt hiệu quả và phù hợp với xu hướng chung của hội nhập kinh tế thế giới.

Trong thời gian hơn 10 năm qua, cả nước đã nâng cấp, xây mới 50.000 phòng khách sạn (tăng gấp trên 2 lần của hơn 30 năm trước). Đến nay, cả nước có khoảng 6.000 cơ sở lưu trú, với 130.00 buồng trong đó 2.575 cơ sở được xếp hạng tự đạt tiêu chuẩn đến 5 sao với tổng số 72.458 buồng (18 Khách sạn 5 sao với 5.251 buồng; 48 khách sạn 4 sao với 5.797 buồng; 119 Khách sạn 3 sao với 8.724 buồng; 449 Khách sạn 2 sao với 18.447 buồng; 434 Kháh sạn 1 sao với 10.757 buồng và 923 Khách sạn đạt tiêu chuẩn tối thiểu với 23.482 buồng).

Phương tiện vận chuyển khách du lịch phát triển đa dạng cả đường ô tô, đường sắt, đường thuỷ và dần được hiện đại hoá. Một số khu du lịch nghỉ dưỡng, sân golff, công viên chủ đề và cơ sở giải trí được đưa vào hoạt động, đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và nhân dân.

Năng lực vận chuyển khách du lịch tăng, chất lượng được nâng lên. Phương tiện vận chuyển khách du lịch chuyên ngành với hàng nghìn xe ô tô, tàu thuyền các loại, chất lượng phương tiện được tăng cường đổi mới thường xuyên; nhiều đội xe taxi ở các điểm du lịch được thành lập, đáp ứng phục vụ kịp thời nhu cầu đi lại của khách du lịch; nhiều tuyến du lịch đường biển, đường sông như Hải Phòng - Quảng Ninh, Thành phố Hồ Chí Minh – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh - Cần Thơ…đã sử dụng tàu cao tốc với trang thiết bị hiện đại.

Với cơ sở vật chất kỹ thuật như hiện nay, ngành Du lịch nước ta đã đảm bảo phục vụ hàng chục triệu lượt khách quốc tế và nội địa, tổ chức được các sự kiện, hội nghị quốc tế lớn.

Toàn ngành đã chú trọng xây dựng phát triển nhiều loại hình du lịch, các tuyến du lịch mới cả đường bộ, đường sông, đường biển, nối các điểm du lịch, khu du lịch ở cả miền núi, cao nguyên, đồng bằng, vùng ven biển và hải đảo. Hình thành các loại hình du lịch mới, đặc thù như đi bộ, leo núi, lặn biển, hang động… du lịch đường bộ xuyên Việt bằng xe đạp, mô tô, ô tô du lịch đồng quên, du lịch trở về cội nguồn, du lịch sinh thái, du lịch hang động, du lịch sông nước, lặn biển, du lịch giải trí thể thao. Chú trọng khai thác giá trị nhân văn giầu bản sắc văn hóa dân tộc, tổ chức nhiều hội thi nấu ăn dân tộc, thi hướng dẫn viên du lịch để tạo sản phẩm du lịch hấp dẫn, được du khách ưa chuộng. Mỗi năm đều có chủ đề về du lịch, bám vào các sự kiện lớn của đất nước, các lễ hội để tổ chức các hoạt động du lịch với nhiều sự kiện du lịch độc đáo, hấp dẫn. Những sản phẩm du lịch mới được nghiên cứu xây dựng có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.

4. Công tác tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch được tăng cường:

Những năm qua, Ngành Du lịch đã chú trọng xúc tiến quảng bá du lịch ở cả thị trường trong nước và quốc tế. Công tác xúc tiến quảng bá được chú trọng hơn: Đã thành lập Cục Xúc tiến Du lịch; đã có chương trình xúc tiến cho thời gian 5 năm; tính chuyên nghiệp được nâng dần; chất lượng tổ chức các sự kiện tốt hơn. Tổng cục Du lịch đã chủ động phối hợp với Hàng không Việt Nam, các Đại sứ quán Việt Nam ở nước ngoài, Bộ Văn hóa – Thông tin, các cơ quan thông tấn báo chí, phát thanh truyền hình, tổ chức nhiều sự kiện xúc tiến du lịch ở nước ngoài: Hàng năm tham gia Diễn đàn Du lịch ASEAN (ATF) tổ chức ở các nước trong khu vực ASEAN; các hội chợ Báo Nhân đạo, Top Resa tại Pháp, ITB tại Đức; các hội chợ du lịch tại Malaysia, Thái Lan; Hội chợ JATA tại Nhật Bản, WTM tại Anh; Tuần Việt Nam tại Nhật Bản; các buổi giới thiệu du lịch Việt Nam tại các nước Thuỵ Điển, Đức, Anh, Pháp, Mỹ, Singapore, Thái Lan và Úc. Triển khai các Chương trình Roadshow giới thiệu điểm đến du lịch Việt nam tại các thị trường Đức, Pháp, Anh, Nhật Bản, Bắc Âu, Hồng Kông, Thái Lan, Úc…

Các đơn vị trong ngành Du lịch đã tích cực tham gia nhiều hội thảo, hội nghị, diễn đàn quốc tế để quảng bá thu hút khách du lịch và vốn đầu tư. Tổng cục Du lịch đã liên tục xuất bản sách hướng dẫn, sản xuất băng video và đĩa CD-ROM giới thiệu về Đất nước, Con người và Du lịch Việt Nam đến các nước trên thế giới. Các thông tin được cập nhật trên Internet ngày càng nhiều, bám sát tình hình hoạt động thời sự của các đơn vị trong Ngành và đáp ứng nhu cầu của các đối tượng trong lĩnh vực du lịch và những lĩnh vực liên quan. Số người truy cập những website ngày càng nhiều, chỉ riêng website vietnamtourism.com đã có gần 9 triệu lượt người truy cập, góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá du lịch, thu hút khách du lịch đến Việt Nam.

Tăng cường thông tin đối ngoại, thông tin du lịch trên phương tiện thông tin đại chúng trong nước như phát thanh, truyền hình Trung ương và địa phương, các báo lớn và ở nước ngoài như CNN, Canal+, NHK… nhằm thu hút khách du lịch nội địa và quốc tế, 13 doanh nghiệp lữ hành quốc tế của ngành Du lịch đã đặt 23 văn phòng đại diện ở 12 nước trên thế giới.

Đầu tư cho tuyên truyền quảng bá, xúc tiến du lịch thông qua Chương trình hành động quốc gia về du lịch được Nhà nước đặc biệt quan tâm. Từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã đầu tư ngân sách cho Chương trình hành động quốc gia về du lịch với tổng số 112 tỷ đồng. Các doanh nghiệp du lịch và hàng không Việt Nam, các doanh nghiệp và cơ quan ngoại giao, thông tấn báo chí, các cơ quan tuyên truyền đối ngoại đầu tư hàng nghìn tỷ đồng cho tuyên truyền quảng bá đất nước, con người và sản phẩm Việt Nam và quảng cáo sản phẩm của bản thân doanh nghiệp ra nước ngoài. Ngoài ra còn phải kể đến việc huy động các tổ chức quốc tế, các hãng du lịch, hàng không nước ngoài đưa khách vào Việt Nam đầu tư hàng chục triệu USD cho tuyên truyền, quảng bá du lịch Việt Nam.

Kết quả của việc đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ở cả trong và ngoài nước thành những chiến dịch xúc tiến mạnh mẽ và thường xuyên hơn đã góp phần đưa Du lịch Việt Nam vượt qua khủng hoảng, khó khăn, đồng thời quảng bá được hình ảnh Du lịch Việt Nam giàu tiềm năng, mở rộng được thị trường và mở ra triển vọng phát triển mới, góp phần đẩy mạnh thông tin đối ngoại của đất nước.

5. Công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực du lịch:

Trong sự nghiệp đổi mới phát triển du lịch thời gian vừa qua, công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được chú trọng và đạt được những tiến bọ đáng ghi nhận: Công tác quản lý nhà nước về đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã có những cố gắng trong hình thành đội ngũ cán bộ, quản lý, tổ chức hướng dẫn thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về đào tạo, bồi dưỡng, tăng cường kiểm tra chuyên ngành và liên ngành đối với các hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; quy mô tuyển sinh ngày càng tăng, từng bước đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tế; mạng lưới cơ sở đào tạo du lịch bậc đại học, cao đẳng (với khoảng gần 40 trường), trunghọc chuyên nghiệp, dạy nghề (trên 30 trường) và nhiều trung tâm dạy nghề được hình thành và phát triển nhanh, đang được định hướng, quy hoạch và điều chỉnh hợp lý; cơ sở vật chất kỹ thuật của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch được nâng cấp, xây dựng mới, trang bị ngày càng đồng bộ và hiện đại; đội ngũ giáo viên, giảng viên và đào tạo viên, nhân tố quyết định sự nghiệp và chất lượng đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch, tăng nhanh về số lượng, nâng dần về kiến thức nghiệp vụ, ngoại ngữ và có trách nhiệm với sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch; chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng, từng bước được chuẩn hóa; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên một bước, lực lượng lao động có tay nghề cao, đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế đã được hình thành; nguồn lực trong nước đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã được tăng cường; nguồn lực bên ngoài được thu hút ngày một tăng, đến nay đã thu hút được trên 30 triệu USD cho đào tạo phát triển nguồn nhân lực du lịch và sử dụng ngày một hiệu quả, thông qua hợp tác quốc tế về đạo tạo đã hỗ trợ đáng kể về tài chính, kinh nghiệm, công nghệ phục vụ đào tạo, bồi dưỡng phát triển nhân lực du lịch.

Những tiến bộ và cố gắng nêu trên của công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực du lịch đã góp phần quan trọng vào việc hình thành và phát triển đội ngũ lao động của Ngành. Năm 1990 toàn Ngành mới có hơn 17.000 lao động trực tiếp, đến nay đã có trên 23 vạn lao động trực tiếp (tăng gần 10 lần so với 30 năm trước, phần đông từ các ngành khác chuyển sang) và trên 50 vạn lao động gián tiếp, chiếm 2,5% lao động toàn quốc, phần lớn là ở độ tuổi dưới 30 (60%); phân bổ trên phạm vi cả nước (miền Bắc 40%, miền Trung 10%, miền Nam 50%). Lao động quản lý chiếm tỷ trọng khá cao (25%); lao động phục vụ trực tiếp ở các ngành nghề chuyên sâu chiếm 75%, trong đó lễ tân là 9%, phục vụ buồng là 14,8%, phục vụ ăn uống (bàn, bar) là 15%, nhân viên nấu ăn là 10,6%, nhân viên lữ hành và hướng dẫn viên là 4,9%, nhân viên lái xe, tàu du lịch là 10,6% và 36,5% còn lại là các lao động làm các nghề khác. Đã có 56,86 lao động được đào tạo (0,21% cán bộ đạt trình độ sau đại học; 12,75% đại học và cao đẳng; 25,8% trung cấp và 18,1% sơ cấp (nghề). Có 32% lao động phục vụ trực tiếp biết tiếng Anh; 3,2% biết tiếng Pháp; 3,6% biết tiếng Trung Quốc ở các mức độ khác nhau; các ngoại ngữ khác cũng đã được quan tâm đào tạo, nhưng số lượng người thông thạo không nhiều. Đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức ngành Du lịch mặc dù với biên chế rất hạn hẹp (Cơ quan Tổng cục Du lịch hiện có 135 biên chế; các Sở Du lịch khoảng 15 biên chế; Sở Du lịch-Thương mại và sở Thương mại-Du lịch biên chế khoảng 3-5 người), đã nỗ lực vượt bậc, hoàn thành được chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở cả tầm chiến lược và tác nghiệp cụ thể. Chủ trương xã hội hóa trong đào tạo du lịch, có sự kết hợp giữa nhà trường, doanh nghiệp, người học để xây dựng đội ngũ lao động chuyên nghiệp, có kỹ năng nghiệp vụ, phẩm chất và trách nhiệm, đổi mới công nghệ, tăng cường quản lý nhà nước và quản lý kinh doanh.

6. Sự phối hợp liên ngành và địa phương có nhiều tiến bộ:

Sau khi Bộ Chính trị có Kết luận 179-CT/TW về phát triển du lịch trong tình hình mới và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX trong lĩnh vực du lịch, chủ trương phát triển du lịch được quán triệt sâu rộng trong cả nước; cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn dần được làm rõ; các bộ, ngành, địa phương tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Tổng cục Du lịch phối hợp với các bộ, ngành trung ương, tăng cường làm việc với cấp uỷ và chính quyền địa phương các cấp để quán triệt và thực hiện nhiệm vụ phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy tỉnh uỷ, thành uỷ nhiều địa phương đã có nghị quyết hoặc chỉ thị về phát triển du lịch; các địa phương đã tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch.

Ban Chỉ đạo Nhà nước về Du lịch được thành lập, do Phó Thủ tướng làm Trưởng ban, các thành viên là đại diện lãnh đạo các bộ, ngành liên quan trực tiếp đến du lịch. Ở địa phương, đã có 51 tỉnh, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo phát triển du lịch của địa phương. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng về phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn đã đi vào cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức và hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và toàn xã hội, huy động được nhiều nguồn lực cho sự nghiệp phát triển du lịch. Các tỉnh và thành phố trực thuộc Trung ương đã xây dựng quy hoạch phát triển du lịch địa phương mình. Chỉ đạo tổ chức thực hiện Chương trình hành động quốc gia về du lịch trong 5 năm qua đạt hiệu quả, làm cho hoạt động du lịch sôi động cả trong và ngoài nước. Các tiềm năng, thế mạnh về du lịch của đất nước đã được khai thác tốt hơn để đa dạng hóa và nâng dần chất lượng sản phẩm, tăng khả năng hợp tác và cạnh tranh. Đã phối hợp liên ngành và địa phương khôi phục và tổ chức thành công hàng chục lễ hội truyền thống, tạo sự chú ý của công chúng và du khách trong và ngoài nước, từng bước khai thác thế mạnh văn hóa, lịch sử và sinh thái của đất nước để phát triển du lịch.

Cùng với việc chú trọng đẩy mạnh phối hợp liên ngành và thực hiện xã hội hóa hoạt động du lịch, 5 năm gần đây Tổng cục Du lịch đã chú trọng phối hợp các địa phương để nâng cao tính liên ngành của hoạt động du lịch. Nét nổi bật trong quản lý nhà nước về du lịch mấy năm gần đây là sự phối hợp thường xuyên và chặt chẽ của các địa phương, các ngành trong hoạt động du lịch bằng việc ký kết các thỏa thuận hợp tác để đẩy mạnh phát triển sản phẩm du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch, phát huy tiềm năng du lịch của mỗi địa phương, xây dựng các chương trình du lịch theo các tuyến liên vùng; phối hợp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ du lịch. Trên cơ sở các văn bản thỏa thuận hợp tác, Lãnh đạo địa phương chỉ đạo, giao nhiệm vụ cho các doanh nghiệp triển khai các chương trình hợp tác với đối tác trong địa phương kết nghĩa. Các Sở quản lý du lịch đã hướng dẫn, chỉ đạo, đôn đốc các đơn vị thực hiện các dự án xây dựng sản phẩm du lịch, liên doanh, lập dự án đầu tư nhằm tăng cường mối liên kết, mở rộng phạm vi các chương trình, đa dạng hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm du lịch. Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh và Sở Du lịch Hà Nội đã phát huy lợi thế là trung tâm du lịch đầu tầu của Du lịch cả nước làm tốt công tác hợp tác và là hạt nhân liên kết trong quản lý phát triển du lịch: Sở Du lịch Hà Nội đã có văn bản thỏa thuận hợp tác với 10 Sở; Sở Du lịch Thành phố Hồ Chí Minh đã ký thỏa thuận hợp tác với 8 Sở; phối hợp chặt chẽ với các Sở tại địa phương liên quan triển khai có kết quả các nội dung thỏa thuận hợp tác. Các liên kết khu vực giữa các địa phương được hình thành dưới nhiều hình thức như: Chương trình hợp tác du lịch Phú Thọ - Yên Bái – Lào Cai; Chương trình du lịch “Theo dấu chân Bác Hồ” của Cao Bằng, Bắc Kạn, Tuyên Quang, Thái Nguyên; Chương trình “Con đường Di sản miền Trung” của các Sở quản lý nhà nước về du lịch miền Trung; Chương trình phát triển du lịch đồng bằng sông Cửu Long;… Các sự kiện du lịch được tổ chức tại một địa phương đã được các địa phương khác hưởng ứng và tham gia tích cực nên đã tạo ra chuỗi sự kiện đều khắp cả nước, thể hiện rõ tính liên vùng. Hoạt động kinh doanh du lịch nhờ thế có điều kiện thuận lợi để phát triển, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh, hội nhập của du lịch mỗi địa phương và cả nước.

7. Công tác hợp tác quốc tế được mở rộng, khai thác tốt tiềm lực bên ngoài:

Với nỗ lực mở rộng hợp tác quốc tế, Du lịch Việt Nam đã ký và thực hiện tốt 26 hiệp định hợp tác du lịch song phương với các nước là thị trường du lịch trọng điểm và trung tâm giao lưu quốc tế, tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác. Ký Hiệp định hợp tác du lịch đa phương 10 nước ASEAN; thiết lập và tăng cường hợp tác du lịch với các nước khác; tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch Tiểu vùng Mêkông mở rộng, hợp tác hành lang Đông-Tây, hợp tác sông Mêkông-sông Hằng, hợp tác ASEAN, APEC, ASEM, hợp tác trong Hiệp hội du lịch Châu Á – Thái Bình Dương (PATA), trong Tổ chức Du lịch thế giới (WTO)…; có quan hệ bạn hàng với 1.000 hãng của 60 nước và vùng lãnh thổ.

Nhờ thế đã tranh thủ được vốn, kinh nghiệm, công nghệ, nguồn khách, đẩy mạnh xúc tiến du lịch và hội nhập kinh tế quốc tế, chủ động gắn kết hoạt động du lịch Việt Nam với du lịch khu vực và thế giới. Một số chính phủ và tổ chức quốc tế như Luxembourg, Nhật Bản, Tây Ban Nha, Hà Lan, Cu Ba, cộng đồng người Bỉ nói tiếng Pháp, EU, WTO… cam kết và viện trợ không hoàn lại gần 40 triệu USD về đào tạo nhân lực và hỗ trợ kỹ thuật cho Du lịch Việt Nam; thu hút 6,112 tỷ USD vốn đăng ký đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào 239 dự án (chiếm 20% tổng số vốn FDI cả nước – không tính số dự án đầu tư vào văn phòng và căn hộ cho thuê). Ngành Du lịch đã thực hiện chủ trương dựa vào lợi thế so sánh (như văn hóa, ẩm thực, nguyên liệu, lao động…) đầu tư ra nước ngoài dưới hình thức liên doanh hoặc đầu tư 100% vốn, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nước láng giềng, Nhật Bản, Đức và Hoa Kỳ.

Kết quả hoạt động hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế đa phương và song phương trong du lịch; việc đón tiếp gần 3 triệu khách du lịch quốc tế mỗi năm và đẩy mạnh tuyên truyền quảng bá du lịch ra nước ngoài đã đóng góp tích cực vào việc tuyên truyền về đất nước, con người và du lịch Việt Nam, tranh thủ được sự đồng tình ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với sự nghiệp đổi mới đất nước, tăng cường ngoại giao nhân dân, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở đa dạng hóa, đa phương hóa của Đảng và Nhà nước.

8. Đạt và duy trì tốc độ tăng trưởng cao, hiệu quả kinh tế-xã hội ngày càng lớn và toàn diện:

Về khách du lịch: Lượng khách năm 1994 đạt một triệu, đã về trước kế hoạch 1 năm và vượt dự báo của Tổ chức Du lịch thế giới 6 năm. Từ 1990 đến nay lượng khách du lịch luôn duy trì được mức tăng trưởng cao 2 con số (trung bình năm trên 20%). Khách du lịch quốc tế tăng 11 lần từ 250.000 lượt (năm 1990) lên xấp xỉ 3 triệu lượt (năm 2004). Khách du lịch nội địa tăng 14,5 lần, từ 1 triệu lượt (năm 1990) lên 14,5 triệu lượt (năm 2004). Số lượng người Việt Nam đi du lịch nước ngoài ngày càng tăng, hàng năm trên 1 vạn người.

Bảng 3: Số lượng khách du lịch hàng năm

Chỉ tiêu

1990

1995

2000

2001

2002

20034

2004

Khách quốc tế

(triệu lượt)

0,25

1,35

2,14

2,33

2,62

2,43

2,93

Khách nội địa

(triệu lượt)

1,0

6,9

11,2

11,7

13,0

13,5

14,5

(4) Năm 2003, do ảnh hưởng của dịch SARS nên các chỉ tiêu du lịch giảm so với năm 2002. Năm 2004 chỉ tiêu tăng trưởng du lịch đã phục hồi và vượt mức trước SARS

Nguồn: Tổng cục Thống kê

 

Về thu nhập xã hội từ Du lịch: Du lịch mang lại thu nhập ngày một lớn cho xã hội. Hoạt động du lịch thu hút sự tham gia của các thành phần kinh tế và mọi tầng lớp nhân dân mang lại thu nhập không chỉ cho những đối tượng trực tiếp kinh doanh du lịch mà gián tiếp đối với các ngành liên quan, xuất khẩu tại chỗ và tạo thu nhập cho các cộng đồng dân cư địa phương. Tốc độ tăng trưởng nhanh về thu nhập có thể thấy rõ là năm 1990 thu nhập xã hội từ du lịch mới đạt 1.350 tỷ đồng thì đến năm 2004, con số đó đã là 26.000 tỷ đồng, gấp 20 lần.

Riêng năm 2005, mặc dù gặp rất nhiều khó khăn, song hoạt động du lịch vẫn diễn ra sôi động, Ước tính năm 2005, ngành Du lịch đón được khoảng 3,43 triệu lượt khách quốc tế, vượt chỉ tiêu kế hoạch 7% và tăng 17% so với năm 2004; Khách du lịch nội địa đạt trên 16 triệu lượt người, vượt chỉ tiêu 7% và tăng 11% so với kế hoạch năm 2004. Thu nhập du lịch sẽ đạt 30 ngàn tỷ đồng, vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra.

Hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động du lịch ngày càng rõ nét, góp phần xóa đói giảm nghèo và làm giàu cho xã hội: Du lịch phát triển đã góp phần tăng tỷ trọng GDP của ngành Du lịch trong khối ngành dịch vụ trong tổng thu nhập quốc dân. Ở đâu du lịch phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn được chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt như Sa Pa (Lào Cai), Hạ Long (Quảng Ninh), Cát Bà (Hải Phòng), Sầm Sơn (Thanh Hóa), Cửa Lò (Nghệ An), Huế (Thừa Thiên-Huế), Hội An (Quảng Nam), Nha Trang (Khánh Hòa), Mũi Né (Phan Thiết), Bình Châu (Xuyên Mộc – Bà Rịa Vũng Tàu), một số địa phương đồng bằng sông Cửu Long…); tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ, thúc đẩy các ngành khác phát triển; khôi phục nhiều lễ hội và nghề thủ công truyền thống; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế cả nước và từng địa phương, tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo và vươn lên làm giàu, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài. Ước hiện nay, hoạt động du lịch đã tạo ra việc làm cho trên 234.000 lao động trực tiếp và khoảng 510.000 lao động gián tiếp cho nhiều tầng lớp dân cư, đặc biệt là thanh niên mới lập nghiệp và phụ nữ.

Du lịch đã thúc đẩy các ngành kinh tế khác phát triển, mở rộng giao lưu văn hoá và nâng cao dân trí, phát triển nhân tố con người, đảm bảo an ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội: Hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích, di sản và nâng cao ý thức, trách nhiệm giữ gìn, phát triển di sản văn hoá vật thể và phi vật thể; khôi phục lễ hội, làng nghề truyền thống, truyền tải giá trị văn hoá đến các tầng lớp nhân dân và bạn bè quốc tế... tạo thêm sức hấp dẫn thu hút khách du lịch. Thông qua du lịch các ngành kinh tế xã hội khác phát triển; mở thêm thị trường tiêu thụ hàng hoá, dịch vụ cho các ngành khác, thúc đẩy hoạt động thương mại và mang lại hiệu quả cao với hình thức xuất khẩu tại chỗ thông qua du lịch. Các ngành nông nghiệp, thuỷ sản, giao thông, xây dựng, viễn thông, văn hoá nhờ phát triển du lịch mà những năm qua đã có thêm động lực phát triển, diện mạo của nền kinh tế - xã hội được cải thiện và nâng lên trình độ cao hơn. Điểm mấu chốt là thông qua du lịch đã kích cầu có hiệu quả cho các ngành kinh tế khác phát triển. Hoạt động du lịch phát triển đã kéo theo sự mở rộng giao lưu kinh tế văn hoá giữa các vùng, miền và với quốc tế, góp phần giáo dục truyền thống, đào tạo kiến thức và rèn luyện, bồi dưỡng thể chất, tinh thần cho mọi tầng lớp dân cư.

Trong quá trình phát triển du lịch, nhiệm vụ quốc phòng an ninh và đối ngoại được đặc biệt coi trọng. Từ các chủ trương đến các công việc điều hành cụ thể hoạt động du lịch liên quan đến an ninh, quốc phòng đều có sự phối hợp chặt chẽ với Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Trong chỉ đạo phát triển du lịch, nhất là phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch, tổ chức các tour du lịch..., vấn đề an ninh quốc gia luôn được nhấn mạnh. Cán bộ công nhân viên chức và người lao động ngành du lịch, đặc biệt là các cán bộ quản lý những người tiếp xúc trực tiếp với khách và cán bộ làm công tác xúc tiến du lịch, hội nhập kinh tế quốc tế đã phối hợp chặt chẽ với lực lượng an ninh, quốc phòng và có ý thức bảo vệ Tổ quốc, nêu cao tinh thần cảnh giác. Hoạt động du lịch trong thời gian qua rất sôi động, nhưng cơ bản vẫn giữ được an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch và các doanh nghiệp du lịch đã quan tâm xây dựng lực lượng tự vệ, chấp hành tốt qui định về sĩ quan dự bị, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Việc phát triển du lịch ở các vùng biên giới, hải đảo đã góp phần rất tích cực khẳng định chủ quyền quốc gia trên biển và đất liền.

9. Nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong phát triển du lịch:

Các quan điểm, chủ trương và nhiệm vụ trong các nghị quyết của Đảng, gần đây là nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX, nói chung và nội dung chỉ đạo phát triển du lịch nói riêng, được quán triệt sâu rộng trong cả nước; các bộ, ngành và địa phương tập trung xây dựng và triển khai chương trình hành động phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn, coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng tạo động lực mới để phát triển du lịch, góp phần tích cực vào sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước; 51 tỉnh, thành phố đã lập Ban chỉ đạo phát triển du lịch; 14 bộ, ngành có kế hoạch triển khai; nhiều tỉnh uỷ có nghị quyết, chỉ thị chỉ đạo công tác du lịch địa phương. Nhờ vậy, chủ trương phát triển du lịch trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX đã đi vào cuộc sống, làm chuyển biến nhận thức và hành động của các cấp uỷ Đảng, chính quyền địa phương và toàn xã hội, huy động nhiều nguồn lực cho sự nghiệp phát triển du lịch.

Ban Cán sự Đảng Tổng cục Du lịch luôn coi trọng công tác xây dựng Đảng, phối hợp với thành uỷ, tỉnh uỷ trong kiện toàn cán bộ chủ chốt các Sở quản lý nhà nước về du lịch và phối hợp với Đảng uỷ khối Cơ quan Kinh tế  TW kiện toàn tổ chức Đảng uỷ Cơ quan Tổng cục Du lịch (có Bí thư chuyên trách, có Văn phòng Đảng uỷ Cơ quan Tổng cục), giáo dục đảng viên làm tốt vai trò nòng cốt trong tham mưu và tổ chức thực hiện công tác quản lý nhà nước về du lịch, chỉ đạo nắm bắt tư tưởng, giải quyết những vấn đề nội bộ phát sinh, giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, đơn vị để tập trung hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) (Khoá VIII), Kết luận của Hội nghị Trung ương 4 (Khoá IX) và các Nghị quyết Trung ương về công tác giáo dục tư tưởng chính trị, công tác lý luận, công tác tổ chức, cán bộ... được triển khai nghiêm túc. Những vụ việc tồn đọng kéo dài nhiều năm trước để lại đã được giải quyết cơ bản. Nhìn chung đội ngũ cán bộ, đảng viên trong ngành kiên định về lập trường, tư tưởng, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, có phẩm chất đạo đức lối sống cách mạng, gắn bó với quần chúng, yêu ngành, yêu nghề, hoàn thành nhiệm vụ. Công tác cán bộ được tiếp tục đổi mới: Quy hoạch cán bộ ngành du lịch đã cơ bản hoàn thành; hàng năm đều thực hiện công tác đánh giá cán bộ làm cơ sở tạo nguồn quy hoạch; việc bổ nhiệm, bổ nhiệm lại, điều động, luân chuyển cán bộ quản lý được tiến hành đúng nguyên tắc, quy trình và thủ tục; việc bồi dưỡng, đào tạo cán bộ được quan tâm.

Hầu hết các đảng bộ, chi bộ trong Ngành đã thực đúng chức năng là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đảng bộ cơ quan Tổng cục Du lịch từ năm 2002 đến nay đã liên tục được công nhận là đảng bộ trong sạch vững mạnh. Một số đảng bộ, chi bộ yếu kém đã được kiện toàn cấp uỷ và tăng cường cán bộ. Công tác Đảng, công đoàn tại các liên doanh với nước ngoài, công ty tư nhân, trách nhiệm hữu hạn trong lĩnh vực du lịch được duy trì và phát huy vai trò của mình trong phát triển kinh tế và phát triển doanh nghiệp.

Ban cán sự Đảng Tổng cục Du lịch và các cấp uỷ Đảng trong ngành đã chú trọng duy trì và cải tiến lề lối làm việc và tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách, đẩy mạnh thực hiện dân chủ cơ sở. Ban Cán sự Đảng kiên trì trong chỉ đạo giải quyết những vướng mắc, tồn đọng và kiên quyết xử lý sai phạm với ý thức xây dựng nội bộ vững mạnh. Sự thống nhất cao từ chủ trương đến hành động đã thể hiện được sức mạnh đoàn kết nội bộ trong hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Đồng thời với việc chỉ đạo quán triệt và triển khai các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên và đảm bảo điều hành trôi chảy nhiệm vụ thường xuyên, sinh hoạt đảng đã được cải tiến, tập trung bàn sâu những chuyên đề trọng tâm, những phát sinh đột xuất, để có kế hoạch và biện pháp triển khai cụ thể, hoàn thành dứt điểm trong từng thời gian, đáp ứng yêu cầu nhanh nhạy trong quản lý điều hành ngành kinh tế du lịch có tính đặc thù và nhạy cảm. Ban Cán sự Đảng và Lãnh đạo Tổng cục Du lịch đã chỉ đạo các cơ quan chức năng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan liên quan đi cơ sở nắm tình hình, chỉ đạo tháo gỡ vướng mắc và tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển du lịch. Đã khảo sát thực tế và làm việc với  Lãnh đạo các tỉnh, thành phố bàn đẩy mạnh phát triển du lịch; kiểm tra công tác đầu tư hạ tầng du lịch và công tác quản lý nhà nước về du lịch. Do đó, đến nay hầu hết các địa phương đều có chỉ thị, nghị quyết của cấp uỷ Đảng và UBND về phát triển du lịch, coi du lịch là ngành “kinh tế mũi nhọn”, “kinh tế quan trọng”, “kinh tế động lực” của địa phương, làm cho nhận thức về du lịch đã được nâng lên và biến thành hành động thúc đẩy hoạt động du lịch sôi động, mở ra trên diện rộng cả nước và hiệu quả cao hơn.

Các đảng viên, cán bộ, công chức thuộc diện Tổng cục Du lịch quản lý khi ra nước ngoài công tác, học tập, đều được lựa chọn đúng đối tượng và tiêu chuẩn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, các cấp có thẩm quyền xét duyệt và được tổ chức chặt chẽ như phân công đoàn trường phụ trách, họp giao nhiệm vụ trước khi đi… Đảng viên ra nước ngoài đã thực hiện tốt 8 nhiệm vụ nêu trong Quy định 17 của Bộ Chính trị, chấp hành tốt Điều lệ Đảng, luật pháp của nước ta và nước sở tại, hoàn thành nhiệm vụ được giao, không có đảng viên nào ở lại hoặc bị mua chuộc, lôi kéo.

Trong quá trình đổi mới phát triển Ngành Du lịch, Ban Cán sự Đảng Tổng cục Du lịch đã phối hợp với các cấp uỷ đảng tập trung chỉ đạo kiện toàn tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch ở Trung ương và địa phương, các đơn vị sự nghiệp phát triển Ngành, chỉ đạo sắp xếp lại và đổi mới hệ thống doanh nghiệp du lịch. Quy chế dân chủ cơ sở ở các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp trong Ngành được thực hiện tốt. Riêng Cơ quan Tổng cục du lịch hàng năm đều tổ chức tốt Hội nghị cán bộ, công chức cơ quan. Do quan tâm chỉ đạo công tác cán bộ, nên đội ngũ cán bộ trong Ngành làm việc tốt hơn, phát huy trách nhiệm và tính sáng tạo, tăng cường phối hợp trong và ngoài cơ quan. Nhờ thế công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã được quan tâm và thực hiện nghiêm túc. Chưa thấy có biểu hiện diễn biến hòa bình trong hoạt động du lịch.

10. Tích cực tham gia các hoạt động xã hội, góp phần phát triển văn hóa-xã hội, giải quyết vấn đề xã hội bức xúc:

Ngành Du lịch đã phối hợp chặt chẽ với ngành Văn hóa-Thông tin và các bộ, ngành, địa phương liên quan gắn kết các hoạt động văn hóa, lễ hội, thể thao với sự kiện du lịch. Hoạt động du lịch đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trung tu các di tích và nâng cao ý thức, trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương và cộng đồng dân cư trong giữ gìn, phát triển di sản văn hóa vật thể và phi vật thể. Kết hợp giữa tuyên truyền, quảng bá du lịch ở nước ngoài với tuyên truyền quảng bá tại chỗ đã truyền tải được giá trị văn hóa dân tộc đến khách du lịch và nhân dân. Sự phối hợp liên ngành, địa phương chặt chẽ trong đầu tư, định hướng và chỉ đạo sát sao việc khôi phục và tổ chức nên các lễ hội dân gian trong các năm qua đã dần đi vào nền nếp và lành mạnh, phát huy được thuần phong mỹ tục. Văn hóa doanh nghiệp trong du lịch được quan tâm hơn, đặc biệt là đấu tranh phòng chống tệ nạn xã hội trong hoạt động du lịch. Do sức hút của hiệu quả kinh tế trong phát triển du lịch và do phối hợp tốt giữa các ngành, địa phương, cộng đồng dân cư và du lịch nên nhiều làng nghề thủ công truyền thống được khôi phục và phát triển đã tạo các điểm du lịch hấp dẫn và sản xuất hàng lưu niệm, thủ công mỹ nghệ phục vụ khách du lịch.

Theo báo cáo chưa đầy đủ của các đơn vị, 10 năm qua toàn Ngành Du lịch đã: Xây dựng được 32 nhà tình nghĩa cho các gia đình chính sách, thương binh, liệt sỹ; nhận phụng dưỡng 643 Bà mẹ Việt Nam Anh hùng; đỡ đầu 2 trại trẻ mồ côi (gần 100 em); đóng góp nhiều đợt ủng hộ đồng bào bị thiên tai (lũ, bão, lụt) gần 1 tỷ đồng và nhiều quần áo, thuốc men; tích cực tham gia xóa đói, giảm nghèo và đấu tranh, ngăn chặn các tệ nạn xã hội xâm nhập vào du lịch.

Phong trào đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ người nghèo (hưởng ứng “Ngày vì người nghèo”), ủng hộ trẻ em bị chất độc màu da cam… do Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát động thu hút sự tham gia nhiệt tình của toàn Ngành.

 

Tóm lại, Trong bối cảnh đất nước ổn định, nước ta có vị thế ngày càng cao trên trường quốc tế, được sự quan tâm lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, sự phối hợp của các cấp, các ngành, đặc biệt là sự chuyển biến nhận thức đã chuyển hoá thành chủ trương và hành động của các cấp lãnh đạo địa phương trong phát triển du lịch, sự hưởng ứng của nhân dân, sự hỗ trợ quốc tế và nỗ lực của toàn ngành, ở tất cả các thời kỳ, du lịch Việt Nam đã hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và Nhà nước giao phó; đã xây dựng ngành trưởng thành và phát triển về mọi mặt, từng bước hội đủ điều kiện của một ngành kinh tế mũi nhọn: (1). Có tốc độ tăng trưởng GDP và tỷ trọng trong GDP tăng nhanh và liên tục; (2). Có thị trường rộng lớn; (3) Sức lan toả mạnh, thúc đẩy nhiều ngành và địa phương phát triển, tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần phát triển văn hoá, xã hội; (4). Thu hút được ngày càng nhiều lao động, góp phần phát triển yếu tố con người; (5). Tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế; và đã tạo được tiền đề vững chắc cho du lịch phát triển ở mức cao hơn trong thiên niên kỷ mới.

Với những thành tích đáng ghi nhận nêu trên của toàn ngành, nhân kỷ niệm 45 năm hình thành và phát triển, Đảng và Nhà nước đã xem xét và quyết định tặng thưởng Huân chương Hồ Chí Minh cho ngành du lịch Việt Nam. Đây là phần thưởng cao quý nhất từ trước đến nay đối với Ngành, đã động viên khích lệ toàn Ngành phát huy truyền thống 45 năm xây dựng và trưởng thành, giai đoạn 2006 -2010, phấn đấu để toàn ngành Du lịch bứt lên phát triển nhanh và bền vững, phát huy đầy đủ vai trò của một ngành kinh tế mũi nhọn trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

(Tài liệu phục vụ Hội nghị Tổng kết và Lễ đón Huân chương Hồ Chí Minh

nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Ngành)


 

1.3      Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội

   Du lịch được mô tả như là một ngành công nghiệp vừa năng động, vừa tinh tế, nó đem lại nguồn doanh thu khổng lồ so với bất cứ ngành dịch vụ nào trên thế giới và trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn, của nhiều nước trên thế giới. Tuỳ theo điều kiện của từng nước mà ngành du lịch có những đóng góp khác nhau đối với nền kinh tế quốc dân bởi vì hoạt đông du lịch đòi hỏi sự phối hợp liên ngành, đa lĩnh vực có tính xã hội hoá cao.

1.3.1    Đối với kinh tế

Các nhà kinh tế đã khẳng định : “Du lịch là ngành xuất khẩu vô hình”. Với tiêm năng đã có sẵn, ngành du lịcg đã tạo cho mình những sản phẩm đặc biệt so với các ngành kinh tế khác để kinh doanh, đem lại nguồn thu cho đất nước. Chúng ta cần nhấn mạnh rằng, việc phát triẻn du lịch quốc tế sẽ làm tăng nhanh nguồn thu nhập ngoại tệ thông qua việc tiêu dùng của khách du lịch. Trong bối cảnh nền kinh tế hiện nay, việc tích luỹ các đồng ngoại tệ mạnh như USD, EURO, YÊN có ý nghĩa rất lớn trong việc tránh lạm phát, bảo vệ nội tệ.v.v...

 “Du lịch là một ngành xuất khẩu tại chỗ có hiểu quả kinh tế cao khi khách du lịch đến tham quan và nghỉ dưỡng họ sẽ tiêu thụ một khối lượng lớn nông sản thực phẩm dưới dạng các món ăn đồ uống và mua hàng hoá như là các đặc sản của vùng, đồ thủ công mỹ nghệ.... Như vậy địa phương sẽ thu ngoại tệ tại chỗ với hiệu quả cao (tiết kiệm được chi phí bảo quản, lưu kho, đóng gói, vẩn chuyển, sự hao hụt khi xuất khẩu ra thị trường thế giới).

Một ngành kinh tế muốn phát triển tất yếu phải có sự tham gia và chịu sự tác động hai chiều với các ngành kinh tế khác. Là một ngành dịch vụ, một ngành kinh tế độc đáo, du lịch phát triển là động lực thúc dẩy quá trình sản xuất, kinh doanh của nhiều ngành khác trong nền kinh tế quốc dân. Thông qua du lịch, cac ngành kinh tế như nông nghiệp, thủ công mỹ nghệ, công nghiệp hàng tiêu dùng bán đươc một số lượng hàng lớn với giá cả cao. Bên cạnh đó, du lịch còn đóng vai trò như một nhà quảng cáo, nhà maketing các sản phẩm của cac ngành kinh tế khác, kích thích và thúc đẩy các ngành thay đổi dây chuyền hiện đại, nghiên cứu mẫu mã để làm hài lòng thị hiếu của khách hàng.

Ngành du lịch phát triển còn kích thích sự phát triển của các ngành xây dựng, giao thông vận tải, ngân hàng... thông qua các cơ sở du lịch và khách du lịch tiêu thụ một khối lượng lớn các sản phẩm của ngành này.

1.3.2    Đối với văn hóa

  Thông qua du lịch, đông đảo quần chúng có điều kiện tiếp xúc với những thành tựu văn hoá phong phú và lâu đời của các dân tộc, đắm mình trong cảnh sắc thiên nhiên giàu đẹp, từ đó giáo dục lòng yêu nước, tự hào dân tộc và có ý thức bảo vệ những tài sản mà thế hệ đi trước để lại. Điều này quyết định sự phát triển cân đối về nhân cách của mỗi cá nhân trong xã hội

1.3.3    Đối với xã hội

   Du lịch với bản chất của nó là nghỉ ngơi và khám phá, tìm hiểu điều này đem lại cho con ngươi nhiều ý nghĩa trong cuộc sống. Về mặt y tế, du lịch giúp con người phục hồi sức khoẻ và tăng cường sức sống. Trong chừng mực nào đó, du lịch có tác dụng hạn chế các bệnh tật, kéo dài tuổi thọ và khả năng lao động của côn người. Các công trình nghiên cứu về sinh học khẳng định rằng nhờ chế độ nghỉ ngơi và du lịch tối ưu, bệnh tật của dân cư trung bình giảm 30%, bệnh đường hô hấp giảm 40%, bệnh thần kinh giảm 30%, bệnh đường tiêu hoá giảm 20%.

1.3.4    Đối với môi trường

      Phát triển du lịch phụ thuộc rất nhiều vào kho tài sản tự nhiên và nhân tạo của từng quốc gia. Môi trường tự nhiên và môi trường xã hội chính là những thông số đầu vào cho phát triể du lịch. Nghỉ ngơi du lịch là nhân tố có tác dụng kích thích việc bảo vệ, khôi phục và tối ưu hoá môi trường thiên nhiên xung quanh, bởi vì môi trường này ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe và các hoạt động khác của con người. Mặt khác, việc đẩy mạnh hoạt động du lịch, tăng mức độ tập trung khách vào những vùng đất nhất định lại đòi hỏi tối ưu hoá quá trình sử dụng tự nhiên với mục đích du lịch. Đến lượt mình, quá trình này kích thích việc tìm kiếm các hình thức bảo vệ tự nhiên, đảm bảo sử dụng nguồn tài nguyên một cách hợp lí. Du lịch – bảo vệ môi trường là những hoạt động gần gũi và liên quan với nhau.

Hoạt động du lịch tác động lên môi trường tự nhiên ở các mặt sau:

          Tác động đến môi trường nước, góp phần đảm bảo chất lượng nước trong và ngoài khu vực, giảm sức ép ô nhiễm nguồn nước. Du lịch phát triển kéo theo các dự án về cấp thoát nước trong từng khu du lịch như xây nhà may nước sạch, đặt hệ thống chảy riêng nước thải rất có ý nghĩa làm sạch môi trường nước giúp dân địa phương có nước sạch để sinh hoạt. Đặc biệt trong mỗi khu du lịch đều tổ chức hệ thống ao hồ có sự liên hệ với nhau nên có tác dụng đến việc khắc phục nạn úng thuỷ trong khu vực. Tuy vậy, trong quá trình phát triển du lịch xấu cúng co một số tác động xấu tới môi trường nước như làm ô nhiễm nước mặt từ quá trình xây dựng các khu du lịch; ảnh hưởng tới diện tích lưu vực của nguồn nước, ô nhiễm từ các chất thải sinh hoạt của nhân viên và khách du lịch; ảnh hưởng tới lượng nước ngầm; ô nhiễm nước biển từ các hoạt động du lịch biển. ...

          Tác động tới môi trường không khí, góp phần ổn định điều kiện vi khí hậu trong vùng, đáp ứng ngày càng nâng cao của du khách nên trong các khuông viên các khu, điểm du lịch đã bố trí các vườn hoa, công viên, rừng cảnh quan, hồ nước ... có tác dụng tích cực vào việc điều hoà không khí, góp phần cải thiện khí hậu, và làm giảm bớt ô nhiễm không khí tại khu vực. Tuy vậy, việc phát triển du lịch cũng gây nên một sô tác động xấu cho môi trường không khí như việc ô nhiễm không khí từ các phương tiện giao thông; gia tăng tiêng ồn, ô nhiễm không khí từ khách du lịch; ô nhiễm không khí từ chất thải sinh hoạt của hoạt động du lịch.

          Tác động tới môi trường đất, góp phần tăng hiệu quả sử dụng đất thông qua việc xây dựng khách sạn, các khu vui choi giải trí .... Như vậy những diện tích đất được bỏ hoang nâng cao giá trị của mình và quan trọng la môi trường đất được cải tạo. Tuy nhiên hoạt động du lịch ảnh hưởng tới môi trường đất thể hiện ở các mặt sau: ảnh hưởng tới cơ cấu sử dụng đất; thay đổi câu trúc địa chất của khu vực; ô nhiễm đất từ các hoạt động du lịch.

Tác động tới môi trường sinh vật, thông qua việc quy hoạch các khu bảo tồn, vườn quốc gia góp phần hạn chế việc khai thác động thực vật qu‎ hiếm bưa bãi. Bên cạnh đó trong khuông viên các khu du lịch có bố trí các vườn cây, khu nuôi chim thú làm tăng tính đa dạng sinh học của vùng. Tuy nhiên, do vấn đề nhu cầu thực phẩm cung cấp cho hoạt động du lịch ngày càng tăng dẫn đến việc khai thác qua mức động vật quí hiếm gây tổ hại đến đa dạng sinh học. Các yếu tố ô nhiễm từ du lịch như rác thải, nước thải, khí gây mùi đều có thể ảnh hưởng tới hệ sinh vật và gây hiện tượng thiếu oxy.

          Phát triển du lịch luôn có mối quan hệ mật thiết với các lĩnh vực xã hội và môi trường, hay nói đúng hơn là giữa chúng luông có mối quan hệ hai chiều. Phát hiện được quy luật về sự tác động giữa chúng là cách giúp chúng ta phát huy tính tích cực và hạn chế tiêu cực gây nên trong quá trình phát triển. Đó cũng chính là cách giúp cho không chỉ du lịch mà kinh tế, xã hội, môi trường luôn có tính bền vững.

1.3.5    Đối với chính trị

Chúng ta cũng có thể nói rằng du lịch mang trong mình chưc năng chính trị. Nó thể hiện ở vai trò to lớn trong việc củng cố hoà bình, đẩy mạnh các mối giao lưu quốc tế, mở rộng sự hiểu biết giữa các dan tộc. Qua  giao lưu và hoà nhập tìm hiểu các nền văn hoá xã hội khác nhau làm cho con người thêm hiểu nhau và biết xích lại gần nhau. Mỗi năm, hoạt động du lịch với các chủ đề khác nhau, như, “Du lịch là giấy thông hành hoà bình” (năm 1967); “Du lịch không chỉ là quyền lợi, mà còn là trách nhiêm của mỗi người” (năm 1983)... kêu gọi hàng triệu người quý trọng lịch sử, văn hoá và truyền thống của các quốc gia,giáo dục lòng mến khách và trách nhiệm của chủ nhà đối với khách du lịch, tạo nên sự hiểu biết và tình hữu nghị giữa các dân tộc.

 Xét dưới góc độ kinh tế, du lịch mở ra hướng đầu tư hợp tác giữa các nước, dần dần thu hẹp khoảng cách giữa các nước giàu và các nước nghèo

 Nếu gọi du lịch là động cơ, là sức đẩy của con tàu kinh tế đất nước, rõ ràng không có gì là quá lời. Ngoài mục đích tự thân của nó, ngành du lịch còn có tác động mạnh mẽ đến sự phát triể của nhiều ngành nghề khác. Để ngày một phát triển, du lịch cùng các ngành kinh tế khác “cùng dắt tay đi lên” một cách hài hoà, đồng bộ, cạnh tranh nhau một cách lành mạnh.


 

Bài 2: Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch

 

Sau khi kết thúc chương này, học sinh có thể:

 

-       Liệt kê được các điều kiện ảnh hưởng tới sự phát triển du lịch.

-       Giải thích được sự tác động của từng điều kiện.

 

Các ngành từ kinh tế đến khoa học, xã hội muốn phát triển đều chịu ảnh hưởng các điều kiện, hoàn cảnh đem lại cho ngành đó, tức là phải có lực đẩy, có tiềm năng. Ngành du lịch cũng không nằm ngoài quy luật đó. Tuy nhiên, là một hoạt động đặc trưng, du lịch chỉ có thể phát triển được trong những điều kiện mà nó cho phép. Trong những điều kiện này có những điều kiện mang đặc tính chung  thuộc về các mặt của đời sống xã hội, bên cạnh đó do đặc điểm vị trí địa lý từng vùng mà nó tạo nên tiềm năng du lịch khác nhau. Đó chính là nét đa dạng  tạo nên những chương trình du lịch độc đáo của từng vùng, miền và cái đích cuối cùng là thu hút khách du lịch, tăng sự hiểu biết, tạo mối giao lưu văn hóa giữa các vùng, miền .

Tuy có sự phân chia thành các nhóm tài nguyên song các điều kiện đều giữ một vai trò, ý nghĩa nhất định và tác động qua lại đến nhau tác động qua lại đến nhau trong sự phát triển du lịch.

2.1      Điều kiện chung

2.1.1    An ninh chính trị, an toàn xã hội

Để du lịch không ngừng phát triển trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, sự phối hợp chặt chẽ giữa quốc phòng và an ninh với các hoạt động du lịch cũng như các ngành kinh tế khác có ý nghĩa cực kì quan trọng. Sự bảo đảm vững chắc về quốc phòng, an ninh tạo môi trường ổn định cho đất nước và khách tới tham quan.

Du lịch, bên cạnh việc nghỉ ngơi là “thẩm nhận những giá trị vật chất, tinh thần độc đáo, khác lạ với quê hương mình” Điều này đòi hỏi sự giao lưu, đi lại của du khách giữa các quốc gia, các vùng với nhau. Bầu chính trị hòa bình, hữu nghị sẽ kích thích sự phát triển của du lịch quốc tế. Một thế giới bất ổn về chính trị, xung đột về sắc tộc, tôn giáo làm ảnh hưởng tới việc phát triển du lịch tức là nó không làm tròn “sứ mệnh” đối với du lịch, gây nên nỗi hoài nghi, tâm lý sợ hãi cho du khách. Bên cạnh đó, những cuộc nội chiến, những cuộc chiến tranh xâm lược với nhiều loại trang thiết bị lợi hại làm hủy hoại tài nguyên du lịch, các công trình nghệ thuật kiến trúc do loài người sáng tạo nên. Ở Việt Nam qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, nhiều công trình phục vụ phát triển du lịch bị phá hoại, nếu tồn tại thì chỉ còn một phần và chúng ta đang ra sức kiến tạo lại tức là chúng ta quá lạm dụng “bê tông hoá”, “nhựa hoá”, dù biết rằng nó đã mất đi phàn nào đó giá trị nguyên bản. Năm 2000, tại hòn đảo Bali (Inđônêxia) - nơi hấp dẫn khách du lịch của nhiều nước trên thế giới bị đánh bom khủng bố để lại nổi kinh hoàng cho khách du lịch. Năm 2003  bệnh SAT ở Trung Quốc, dịch Cúm gà ở Việt Nam gây nên những tổn thất lớn cho du lịch Trung Quốc và Việt Nam và gián tiếp ảnh hưởng đến du lịch thế giới.

Thiên tai cũng có tác động xấu đến sự phát triển du lịch. Nhật Bản là đất nước giàu và đẹp nhưng luôn phải hứng chịu những trận động đất, gây khó khă cho phát triển du lịch, có chăng chỉ phát triển du lich bị động. Vào những ngày cuới năm 2004, một trận sóng thần lớn nhất từ trước tới nay xảy ra ở Đông Nam Á, Nam Á đã gây thiệt hại lớn về người và của, ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển du lịch. Điều đáng nói là sóng thần đã làm cho nhiều du khách bị thiệt mạng, cơ sở vật chất phục vụ phát triển du lịch bi huỷ hoại nặng nề. Bên cạnh đó là sự phát sinh và lây lan các loại dịch bệnh như tả lỵ, dịch hạch sốt rét.

 Từ những ví dụ trên cho chúng ta thấy được tầm quan trọng của an ninh chính trị, an toàn xã hội cho khách du lịch, và là nhân tố quan trọng tạo nên sự thành bại của ngành du lịch .

2.1.2    Kinh tế

 Một trong mhững yếu tố quan trọng có ảnh hưởng đến sự phát sinh và phát triển du lịch là điều kiện kinh tế chung. Nền kinh tế chung phát triển là tiền đê cho sự ra đời và phát triển của ngành kinh tế du lịch. Theo ý kiến của các chuyên gia kinh tế thuộc Hội đồng Kinh tế và Xã hội của Liên Hợp Quốc, một đất nước có thể phát triển du lịch một cách vững chắc nếu nước đó tự sản xuất được phần lớn số của cải vật chất cần thiết cho du lịch.

 Sự phát triển của nông nghiệp và công nghiệp thực phẩm có ý nghĩa quan trọng với phát triển du lịch. Đây là cơ sở cung ứng nhiều hàng hoá nhất cho du lịch. Ngành công nghiệp dệt cung cấp cho các xí nghiệp du lịch các loại vải để trang bị phòng khách, các loại khăn trải bàn, ga giường…. Ngành công nghiệp chế biến gỗ trang bị đồ gỗ cho các văn phòng, cơ sở lưu trú.

 Khi nói đến nền kinh tế của đất nước, không thể không nói đến giao thông vận tải. Từ xa xưa, giao thông vận tải đã trở thành một trong những nhân tố chính cho sự phát triển của du lịch, đặc biệt là du lịch quốc tế. Giao thông vận tải ảnh hưởng đến sự phát triển du lịch trên hai phương diện: Số lượng và chất lượng. Sự phát triển về số lượng làm cho mạng lưới giao thông thông vươn tới mọi miền trái đất. Chất lượng của phương tiện giao thông ảnh hưởng tới  chuyến du lịch ở các mặt sau: tốc độ, an toàn, tiện nghi, giá cả.

Chúng ta có thể khẳng định ngày nay với sự tiến bộ của khoa học - kỹ thuật  nhiều thành tựu được áp dụng vào sản xuất. Điều đó đồng nghĩa vói điều kiện kinh tế của con người được nâng cao rõ rệt và vấn đề ăn, mặc, trở thành thứ yếu. Nhu cầu được nghỉ ngơi, giải trí và giao lưu tình cảm xuất hiện. Hiện nay, trong các nước kinh tế phát triển, du lịch trở thành nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống của họ.Các nhà nghiên cứu kinh tế Du lịch đã đưa ra nhận định là ở các nước kinh tế phát triển nếu nhu cầu quốc dân trên mỗi người tăng lên 1% thì chi phí du lịch tăng lên 1,5%. Xu hướng ngày nay là hầu hết các du khách ở các nước phát triển đều thích tham quan ở các nước đang phát triển .Điều này rất dễ hiểu vì chi phí ở các nước đang phát triển thấp, phù hợp với điều kiện kinh tế của người dân hạng trung lưu và nghèo ở các nước phát triển.

Kinh tế và phát triển luôn có mối quan hệ hữu cơ, nghịch thuận lẫn nhau. Trong quá trình phát triển của mình, du lịch luôn xem kinh tế là một trong những nguồn lực quan trọng. Sự tác động của điều kiện kinh tế tới phát triển du lịch thể hiện ở nhiều góc độ khác nhau. Tìm hiểu rõ vấn đề này là cách giúp những nhà quản lí và làm du lịch có những chính sách phát triển của ngành phù hợp.

          Như chúng ta đã biết, du lịch là ngành dịch vụ, nhận nhiệm vụ “chuyển tải” sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của các ngành kinh tế khác để cung cấp cho du khách nhằm tìm kiếm lợi nhuận. Vì vậy điều kiện kiện kinh tế đóng vai trò góp phần cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cho du lịch. Khi khách tới Vũng Tàu không có nghĩa là chỉ tới để nghỉ dưỡng và tắm biển, bên cạnh hoạt động đó du khach còn có cơ hội và mong muốn thưởng thức hải sản. Vậy ngành kinh tế biển (đánh bắt cá) đóng vai trò cung cấp nguồn lợi thủy sản cho các nhà hàng tại Vũng Tàu phuc vụ nhu cầu ăn uống và mua về là quà của du khách. Ngành kinh doanh khách sạn cũng thế, nếu như không có ngành xây dựng, ngành sản xuất đồ thủ công mỹ nghệ, ngành sản xuất đồ dùng thì hoạt động kinh doanh của nó liệu có tồn tại không? Từ những ví dụ trên chúng ta khẳng định điều kiện kinh tế là một trong những nhân tố tiên quyết quyết định sự thành bại tong kinh doanh khách sạn.

          Ngành du lịch chỉ phát triển khi có khách du lịch. Nhân tố hình thành nên khách du lịch bao gồm thời gian rỗi, đông cơ – nhu cầu đi du lich, khả năng tài chính. Chúng ta thấy rằng khả năng tài chính của cá nhân mỗi du khách đóng vai trò rất quan trong trong việc thúc đẩy bước chân của du khach tham gia cuộc hành trình. Nếu như sau thế chiến II, mục tiêu của con người là kiến thiết lại nền kinh tế đã bị kiệt quệ với nhu cầu chính là cơm ăn, áo mặc, nhà ở. Do đời sống còn thiếu thốn nên nhu cầu du lịch xuất hiện. Trong những năm gần đây, có sư bùng nổ về du lịch thế giới, người ta ước tính rằng ó khoảng 3 tỷ lượt du lich nội địa và 750 triêu lượt khách du lịch quốc tề. Điều này co nghĩa là khi nền kinh tế phát triển, đời sống con người được nâng cao, các nhu cầu hàng ngày được đáp ứng thì con người xuất hiện những nhu cầu cao hơn trong đó có nhu cầu du lịch. Như vậu điều kiện kinh tế phát triển là cơ sở để ngành du lịch khai thác kinh doanh các nguồn khách khác nhau.

          Tuy nhiên, như đã nói ở trên, giữa kinh tế và du lịch luôn có mối quan hệ nghịch thuận tức là hoăc là kìm hãm, hoăc là thúc đẩy nhau phát triển. Cuộc khủng hoảng kinh tế xuất phát từ Mỹ lan sang hầu hết các quốc gia trên thế giới đã kiến cho nhiều ngành kinh tế rơi vào hoàn cảnh “đêm tối không có đường ra”, trong đó có ngành du lịch. Cuôc khủng hoảng kinh tê khiến không ít doanh nghiệp du lịch phá sản, nhiều điểm du lịch, khu du lịch, các cơ sở lưu trú vắng khách. Nguồn thu từ du lịch thấp. Hậu quả là lương người lao động thấp, chán nản, bỏ việc, mức sống của con người giảm. Vì thế nhu cầu du lịch của con người chạy về theo hướng số không.

          Ngày nay, xu thế thế giới là toàn cầu hóa. Từng dòng tư bản và trí thức có sự luân chuyển giữa các quốc gia với nhau. Trước xu thế đó, các công ty lớn thường có kế hoạch khai phá thị trường của mình. Hoạt động kinh tế, trao đổi thương mại giữa các quốc gia phát triển mạnh. Qua sư giao lưu, tìm hiểu kinh tế với các đối tác nước ngoài cũng như qua các hôi nghị kinh tế lớn, ngành du lich co cơ hội quảng bá điểm mạnh của mình ra thế giới. Bên cạnh đó, các hoạt động văn hóa thể thao lớn ngày càng có yếu tố “thương mai hóa” và kéo đó là truyền hình vào cuộc. Tất nhiên sự vào cuộc của truyền hình là đòn bẩy kính thích ngành du lịch của nhiều quốc gia hồi sinh. Điều đó để chúng ta tự hỏi tại sao các nước luông muốn tranh chấp để đươc đăng cai các sự kiện lớn như Worldcup, Olimlpic, hoa hậu….

Đất nước Việt Nam ngày càng hội nhập. Bằng chứng là chúng ta được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ) nhiệm kỳ 2008-2009 và chính thức đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên HĐBA LHQ nhiệm kỳ 01/07/2008 đến 31/07/2008, được gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO (11/1/2007) đã tạo chỉ số uy tín rất cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ có chỉ số uy tín cao nên chúng ta rất thuận lợi trong phát triển kinh tế và có khả năng “hút” các sự kiện thể thao lớn trong khu vực, châu lục cũng như trên thế giới. Và nếu như các sự kiện thể thao lớn được tổ chức thì cơ hội phát triển du lịch đạt hiểu quả cao. Thông qua du lịch, chúng ta có cơ hội quảng bá hình ảnh đất nước trên mọi lĩnh vực và lấy đó làm “thế” để thu hút các sự kiện thể thao khác.

Trong nước, đời sống của người dân ngày càng cao, cố lượng khách du lịch nội địa cua Việt Nam gần đạt ngưỡng 20 triệu, ngày lễ, ngày tết nhu cầu đi du lịch rất cao, có lúc quá tải. Điều đó khiến chúng ta có thể khẳng định là do đời sống kinh tế của người dân ngày càng cao, mức lương và thưởng hấp dẫn.

Trên bình diện cả nước, nền kinh tế ngày càng phát triển “thay da đổi thịt”, nhiều công trình cao cấp, nhiều khách sạn, resort liên kết với nước ngoài được đầu tư xây dựng. Đó là cơ sở để chúng ta có cơ sở và đảm bảo khả năng khai thác và đón tiếp nguồn khách quốc tế tới tham quan.

Điều kiện kinh tế có vai trò hết sức quan trọng đối với phát triển du lịch. Điều này cũng đòi hỏi ngành du lịch trong qua trình phát triển của mình phải quảng bá, góp phần xây dựng kinh tế. Có như vậy mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau mới bền vững.

2.1.3    Văn hóa

Trình độ văn hoá cao tạo điều kiên cho việc phát triển du lịch. Phần lớn những người tham gia vào cuộc hành trình du lịch là những người có trình độ văn hoá nhất định, nhất là những người đi du lịch nước ngoài. Bởi vì họ có sở thích(nhu cầu) đối với việc tìm hiểu các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử, bản sắc văn hoá dân tộc hay nói đúng hơn tài nguyên, điểm du lịch tác động đến họ theo một quá trình: Thông tin à Tiếp xúc à Nhận thức à Đánh giá. Phải có trình độ văn hoá thì mới hiểu hết giá trị của chuyến tham quan du lịch .Trong các nước mà nhân dân có trình độ văn hoá cao thì số người  đi du lịch ra ngoài tăng lên không ngừng với cường độ cao. Bên cạnh độ, trình độ của người dân nước sở tại, nơi đón khách cũng phải chú ý. Trình độ văn hóa thấp ảnh hưởng đến phát triển du lịch: Ăn xin, cướp giật, ép khách mua hàng....

Việc phát triển du lịch phải mang dấu ấn của con người, tức là con người thông qua trí tuệ của mình đưa ra những biện pháp, cách thức để phát triển du lich. Một quốc gia giàu có về tài nguyên du lịch nhưng nếu không biết sử dụng trí óc của con người để phát huy hết giá trị của tài nguyên đó thì coi như “muối bỏ bể”. Ngược lai có những quốc gia nghèo về tài nguyên du lịch nhưng biết phát huy hợp lí sẽ thu hút được lượng khách du lịch rất lớn và ngành du lịch sẽ phát triển bền vững.

2.1.4    Đường lối phat triển du lịch

Chính sách phát triển du lịch là chìa khóa dẫn đến thành công trong việc phát triển du lịch .Nó có thể kìm hãm nếu đường lối sai với thực tế. Chính sách phát triển du lịch được ở hai mặt: Thứ nhất là chính sách chung của Tổ chức du lịch thế giới đối với các nước thành viên; thứ hai là chính sách của  cơ quan quyền lực tại địa phương, quốc gia đó. Mặt thứ hai có ý nghĩa quan trọng hơn cả vì nó huy động được sức người, căn cứ vào khả năng thực tế tại mỗi vùng, quốc gia đó để đưa ra chính sách phù hợp.

Những biện pháp để thúc đẩy du lịch Việt Nam được Đảng và Nhà nước đề ra ở Đại Hội VIII:

“Triển khai thực hiện quy hoạch tổng thể du lịch Việt Nam tương xứng với tiềm năng du lịch của đất nước theo hướng du lịch văn hoá, du lịch môi trường sinh thái .Xây dựng các chương trình và điểm hấp dẫn về văn hoá, di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh. Huy động nguồn nhân lực của nhân dân tham gia kinh doanh du lịch, ưu tiên xây dựng cơ sở hạ tầng ở những khu  du lịch, tập trung ở những trung tâm lớn. Nâng cao trình độ văn hoá và chất lượng dịch vụ với các loại khách khác nhau .Đẩy mạnh việc huy động vốn trong nước đầu tư vào khách sạn, chuyển các nhà nghỉ, nhà khách từ cơ chế bao cấp sang kinh doanh khách sạn và du lịch.”

Nhận thức được ảnh hưởng tiêu cực của thủ tục visa trên lượng du khách, chính phủ Việt Nam đã sóm có sáng kiến về visa  như từ tháng 1/2004 bãi bỏ thị nhập cảnh cho du khách Nhật đến Việt Nam từ 15 ngày trở xuống.Tháng 7/2004, sáng kiến này cũng được áp dụng với du khách Hàn Quốc. Các nước Đông Nam Á như Thái Lan, Malaysia, Inđonesa, Philippines, Singapore và Lào  cũng có các thỏa hiệp visa với Viêt Nam.

Đa dạng hoá các sản phẩm du lịch Việt Nam là chính sách dài hạn của Tổng cuc Du lịch Viêt Nam. Từ năm 1995, chính phủ đã chuẩn bị kế hoạch lớn thời kì 1995 – 2010 nhằm phát triển du lịch, biến du lịch thành cánh tay đắc lực  mang lại ngoại tệ và công ăn việc làm cho người dân đồng thời giới thiệu phong cảnh, văn hoá và con người Việt Nam với du khách nước ngoài. Năm 2000 kế hoạch được bổ sung và chỉnh sửa. Theo kế hoạch, kỹ nghệ du lịch Việt Nam sẽ thu hút đầu tư phát triển các cơ sở hạ tầng và phục vụ du khách đi kèm với việc phát triển các sản phẩm du lịch độc đáo mang bản sắc Việt Nam.

Thực hiện đường lối của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đã có những văn bản chỉ đạo hoạt động du lịch khoa học, thực tiễn và có hiệu quả từ Đại hội VIII đến nay. Pháp lệnh du lịch Việt Nam ban hành ngày 20/2/1999 đã đi vào cuộc sống và tạo điều kiện thuận lợi cho du lịch việt Nam ngày một đi lên.

2.2      Điều kiện riêng

2.2.1    Tài nguyên du lịch

Tài nguyên du lịch có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc phát triển du lịch. Tài nguyên nghĩa là tất cả những giá trị vật chất và tinh thần được khai thác và ohục vụ cho mục đích phát triển nào đó của con người. Theo Buchvakop - Nhà địa lý học người Bungari “Tài nguyên du lịch bao gồm các thành phần và những kết hợp khác nhau của cảnh quan thiên nhiên cùng cảnh quan nhân văn có thể được sử dụng cho dịch vụ du lịch và thỏa mãn nhu cầu nghỉ ngơi hay tham quan của khách du lịch”. Xét dưới góc độ cơ cấu tài nguyên du lịch, có thể phân thành hai bộ phận hợp thành: Tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn .

Di sản thế giới:

Đây được coi là tiềm năng lớn nhất và quan trong nhất, để phát triển du lịch. Di sản văn hoá được hiểu là toàn bộ  các tạo phẩm chứa đựng những giá trị tích cục mà loài người đã đạt được trong xã hội thực tiễn do thế hệ trước truyền lại cho thế hệ sau. Di sản văn hoá được chia ra làm hai loại:

Di sản văn hoá vật thể:

-   Là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học.

-  Toàn bộ các sản phẩm vật chất hiện hữu dược hình thành do bàng tay sáng tạo của con người, bao gồm: Hệ thống di tích lịch sử văn hoá, thể thống danh lam thắng cảnh, thể thống di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia.

Di sản văn hoá phi vật thể: là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hoá, khoa học được lưu dữ bằng trí nhớ, chữ viết truyền miệng, truyền nghề, trình diễn, lễ hội truyền thống, ý thức về y dược học, trang phục truyền thống….

Trên thế giới, khá nhiều quốc gia có số di sản tương đối lớn được thế giới công nhận như Pháp (18 di sản), ẤnĐộ (18), Trung Quốc (14), Tây Ban Nha (16), Anh (14), Canada (10), Nhật Bản (5).v.v… Tính đến nay, Việt Nam có 6 di sản thế giới (trong đó di sản văn hoá chiếm 4, đó là: Kinh Thành Huế, Nhã nhạc cung đình Huế, Phố cổ Hội An, Thánh địa Mỹ Sơn). Nếu nhìn từ gốc độ kinh tế (nói chung) và du lịch (nói riêng) thì di sản văn hóa là một tiềm năng mang lại nguồn thu lớn cho đất nước.

       2.1.1.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên

Địa hình: Địa hình hiện tại của bề mặt trái đất là sảnphẩm của các quá trình địa chất lâu dài (nội sinh, ngoại sinh ). Trong chừng mực nhất định, mọi hoạt động sống của con người trên lãnhthổ đều phụ thuộc vào địa hình. Đối với hoạt động du lịch,  địa hình của một vùng đóng một vai trò quan trọng với việc thu hút khách. Địa hình Đồng bằng tương đối đơn điệu về ngoại cảnh nhưng là nơi tập trung tài nguyên du lịch nhân văn, đặc biệt là các di tích lịch sử văn hoá và là nơi hội tụ các nền văn minh của loài người. Địa hình đồi thường tạo ra không gian thoáng đãng, nơi tập trung dân cư tương đối đông đúc, lại là nơi có những di tích khảo cổ và tài nguyên văn hóa, lịch sử độc đáo, tạo khả năng phát triển loại hình du lịch tham quan theo chuyên đề. Địa hình núi có ý nghĩa lớn nhất đối với phát triển du lịch,  đặc biệt là khu vực thuận lợi cho tổ chức du lịch mùa đông, và các loại hình du lịch thể thao như leo núi, du lịch  sinh thái .v.v…. Địa hình Karst được tạo thành do sự lưu thông của nước trong các đá dễ hòa tan. Ở Việt Nam, động Phong Nha (Bố Trạch - Quảng Bình) được coi là hang nước đẹp nhất thế giới. Bên cạnh đó chúng ta còn phải kể tới như động Tiên Cung , Đầu Gỗ (Hạ Long), Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình), Hương Tích (Hà Tây) .v.v… đang rất thu hút khách du lịch. Địa hình bờ bãi biển là nơi tiếp xúc giữa đất liền và biển (kho nước lớn của nhân loại). Do quá trình bồi tụ sông ngòi, các đợt biểu tiến và lùi, thủy triều .v.v… đã tạo ra nhiều bãi tắm đẹp, thích hợp với loại hình du lịch nghỉ dưỡng biển .

Khí hậu: Là một trong những yếu tố quan trọng trong việc phát triển du lịch, nó tác động tới du lịch ở hai phương diện :

 -  Ảnh hưởng đến việc thực hiện các chuyến du lịch hoặc hoạt động dịch vụ về du lịch .

 -  Một trong những nhân tó chính tạo nên tính mùa vụ du lịch .

  + Du lịch cả năm: Du lịch văn hóa, du lịch chữa bệnh .

  + Du lịch mùa đông: Du lịch thể thao .

  + Du lịch mùa hè: Du lịch biển, nói chung là phong phú.

  Khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm, gió mùa . Do nằm hoàn toàn trong vùng nội chí tuyến (2 lần mặt trờiđi qua thiên đỉnh) nên lãnh thổ nhận được một lượng bức xạ mặt trời rất lớn . Nhiệt độ trung bình hàng năm từ 220C - 270C, tổng lượng nhiệt  hoạt động lên tới 8.0000C, tổng số giờ nắng 1.400 giờ. Điều đó cho thấy các bãi biển luôn chan hòa ánh nắng và thu hút một lượng khách trong nước và quốc tế đến đến nghỉ dưỡng, chủ yếu  là vào mùa hè. Tuy nhiên, khí hậu Việt Nam cũng có sự phân hóa phúc tạp về mặt không gian và thời gian tạo nên tính mùa vụ du lịch và tạo nên những loại hình du lịch thích hợp, phụ thuộc vào thời gian.

  Tài nguyên nước: bao gồm nước chảy trên bề mặt và nước ngầm. Đối với du lịch thì nguồn nước mặt có ý nghĩa rất lớn. Nó bao gồm đại dương, biển, hồ, sông, hồ chứa nước nhân tạo, suối, Karst, thác nước, suối phun…. Nhằm mục đích phục vụ du lịch, nước sử dụng tùy theo nhu cầ, sự thích ứng của cá nhân, độ tuổi và quốc gia. Ở Việt Nam hiện có hơn 2.000km đường bờ biển, do quá trình chia cắt kiến tạo, do ảnh hưởng của chế độ thủy triều và sóng mà dọc đất nước đã hình thành nhiều bãi tắm đẹp như Sầm Sơn ( Thanh Hóa) , Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên - Huế), Nha Trang (Khánh Hòa) .v.v. . . thích hợp đối với du lịch nghỉ dưỡng và loại hình du lịch thể thao như lướt sóng, khám phá đại dương ở Nha Trang (Khánh Hòa). Bên cạnh đó, nước ta còn có mạng lưới sông ngòi dày đặc, phân bố đồng đều trên lãnh thổ. Dọc bờ biển khoảng 20km gặp một của sông, có khoảng 2.360 con sông có chiều dài trên 10 km trở lên. Điều này thuận lợi cho việc phát triển du lịch đi thuyền thưởng ngoạn cảnh vật ở hai bên bờ sông kết hợp với thưởng thức ẩm thực và liên hoan văn nghệ. Chúng ta có thể kể tới như đi thuyền trên sông Hồng, sông Hương, sông Cữu Long.v.v... Bờ biển rộng kết hợp với mạng lưới sông ngòi dày đặc là nguồn cung cấp những sinh vật có giá trị phục vụ văn hóa ẩm thực và xuất khẩu du lịch tại chổ .

 Trong tài nguyên nước, cần phải nói đến tài nguyên nước khoáng. Đây là nguồn tài nguyên có giá trị du lịch an dưỡng và chữa bệnh trên thế giới, những nước giàu nguồn nước khoáng nổi tiếng cũng là những nước phát triển du lịch chữa bệnh như Liên Xô ( cũ), Bungary, Ý, CHLB Đức, CH Séc v.v  Ở Việt Nam tiêu biểu có nguồn nước khoáng Kim Bôi (Hoà Bình), Hội Vân (Bình Định), Quang hanh (Quảng Ninh), Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu) v.v…..

  Hệ động thực vật: Đây là một tiềm năng du lịch đã và đang khai thác có sức hấp dẫn lớn khách du lịch. Du khách đến với các vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên để tham quan thế giới động thực vật sống động, hài hòa trong thiên nhiên để con người thêm yêu cuộc sống. Bên cạnh đó là việc phát triển loại hình du lịch nghiên cứu khoa học và du lịch thể thao săn bắn (phụ thuộc vào quy định từng vùng). Nước ta có giới sinh vật phong phú về thành phần loài. Nguyên nhân là do vị trí địa lý, nó như làmột nơi gặp gỡ của các luồng di cư động và thực vật. Hiện nay chúng ta có các vườn quốc gia phục vụ phát triển du lịch như: Cúc Phương (Ninh Bình), Ba Vì (Hà Tây), Cát Bà (Hải Phòng), Ba Bể (Bắc Kạn), Bạch Mã (Huế), Yondon (Đắc Lắc), Nam Cát Tiên (Đồng Nai), Côn Đảo (Bà Rịa- Vũng Tàu), hệ sinh thái Đầm Dơi (Cà Mau ), khu bảo tồn Tràm Chim (Đồng Tháp).

       2..1.1.2 Tài nguyên du lịch nhân văn

Tiềm năng du lịch nhân văn là đối tượng và hiện tượng văn hóa lịch sử do con người sáng tạo ra trong đời sống. So với tiềm năng du lịch tự nhiên, tiềm năng du lịch nhân văn có tác dụng nhận thức nhiều hơn, giá trị giải trí là thứ yếu. Tiềm năng du lịch  nhân văn thường tập trung ở các thành phố lớn, là  đầu mối giao thông và là nơi tập trung cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Đại bộ phận tài nguyên du lịch nhân dân không có tính mùa, không bị phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên nên tần suất hoạt động của nó là rất lớn (lượng khách, số ngày khách đến).

Ngày nay, việc phát huy các thế mạnh về tiền năng du lịch nhân văn để phát triển du lịch được Nhà nước quan tâm, ngay Điều 1 pháp lệnh du lịch Việt Nam chỉ rõ: “Nhà nước Việt Nam xác định du lịch là một ngàng kinh tế tổng hợp, quan trọng, mang nội dung văn hoá sấu sắc…” . Việc phát triển du lịch nhân văn (Du lịch văn hoá) là cách để giáo dục lòng yêu nước, nhận thức trách nhiệm bảo vệ tài sản công của quốc gia, quản bá về hình ảnh của đất nước ra thề giới.

Di tích lịch sử văn hoá: là tài sản văn hoá quý giá của mỗ địa phương, mỗi đất nước và của cả nhân loại. Di tích được hiểu theo nghĩa chung nhất là những tàn tích, dấu vết còn sót lại của  quá khứ, là tài sản của các thế hệ trước  để lại cho các thế hệ kế tiếp. Ở Việt Nam, theo pháp lệnh bảo vệ và sự dụng di tích lịch sử văn háo và danh lam thắng cảnh công bố ngày 04/04/1984 thì di tích lịch sử văn hoá được quy định chư sau:

“Di tích lịch sử văn hoá là những công trình xây dựng, địa điểm, đồ vật, tài liệu và các tác phẫm có giá trị lịch sử, khoa học, nghệ thuật, cũng như có gía trị văn hoá khác, hoặc liên quan đến sự kiện lịch sử, quá trính phát triển văn háo xã hội”

Các bảo tàng: là nơi bảo tồn tài sản văn hoá dân tộc, truyền thụ tri thức, chấn hưng tinh hoa truyền thống. Cùng với việc bảo vệ các di tích lịch sử – Văn hoá, việc xây dựng các bảo tàng luôn đặt trong quốc sách về kinh tế, văn hoá, xã hội mỗi quốc gia. Mục 3, Luật di sản văn hoá : “Bảo tàng là nơi bào quản và trưng bày các sưu tập về lịch sử tự nhiên và xã hội nhằm phục vụ nhu cầu nghiên cứu, giáo dục tham quan quan”. Chính các bảo tàng cũng là nơi thu hút đông đảo khách du lịch trong và ngoài nước.

Tính đến năm 2001, cả nước có ta có 117 bảo tàng và cơ quan làm công tác bảo tàng. Chúng ta có thể kể ra một số bảo tàng tiêu biểu như: Bảo tàng Hồ Chi Minh, Bảo tàng lịch sự Việt Nam, Bảo tàng quân đội, Bảo tàng văn hoá các dân tộc, Bảo tàng Hải dương học.v.v… trên thế giới có các bảo tàng nổi tiếng như bảo tàng Hoàng Gia (Anh), Bảo tàng Luvơrơ (Pháp), Bảo tàng  Ecgionutát (Nga), Bảo tàng Cố cung (Trung Quốc)… với khối lượng khổng lồ hiện vật lịch sự, những tác phẩm nghệ thuật thể hiện sự sáng tạo, tài năng và trí tuệ bất tận của con người lúc nào cũng đón tiếp với số lượng lớn khách du lịch.

  Lễ hội: Bất cứ thời đại nào, bất cứ dân tộc nào, và bất cứ mùa nào cũng có những ngày lễ hội. Lễ hội là hoạt động sinh hoạt văn hoá cộng đồng diễn ra trên địa bàn dân cư trong thời gian và không gian xác định nhằm nhắc lại những sự kiện lịch sử, nhân vật lịch sử hay một huyền thoại, đồng thời là dịp để hiểu biết cách ứng xử văn hoá của con người với thiên nhiên thần thánh và con người với xã hội. Các lễ hội có sứa hấp dẫn du khách không kém gì các di tích lịch sự văn hoá. Lễ hội  có hai phần: phần nghĩ lễ và phần hôị:

-   Lễ là những nghi thức tiến hành theo những quy tắc, luật tục nhất định mang ý nghĩa biểu trưng nhằm đánh dâú hoặc kỷ niệm về một nhân vật hay một sự kiện lịch sử hay một huyền thoại với mục đích tôn vinh và phàn ánh ước nguyện mong muốn nhận được sự giúp đỡ từ đối tượng  thờcúng.

-   Hội là nơi tổ chức các hoạt động vui chơi giãi trí hiện đại mang sắc thái dân gian phản ánh trình độ phát triển xã hội thời thời đó, phản ánh đời sống kinh tế, trình độ dân trí và tâm tư tình cảm của người dân địa phương.

   Nhà nghiên cứu M.Bachie cho rằng: “Thực chất lễ hội là cuộc sống được tái hiện dưới hình thức tế lễ và trò diễn, đó là cuộc sống lao động và chiến đấu của cộng đồng dân cư, tuy nhiên bản thân cuộc sống không thể thành lễ hội nếu như nó không được thăng hoa, liên kết và quy tụ lại thành thế giới tâm linh, tư tưởng của các bieu tưởng, vượt lên trên thế của những phương tiện và điều kiện tất yếu. Đó là thế giới và cuộc sống thứ thoát li tạm thời, thực tại, hữu hiệu, đạt tới hiện thực, lý tưởng mà ở đó mọi thứ phát triển đẹp đẽ, lung linh siêu việt và cao cả   

  GS.Phan Đăng Nhật cho rằng: “Lễ hội là kho tàng lịch sử khổng lồ, ở đó tích tụ vô số những lớp phong tục tín ngưỡng, văn hóa, nghệ thuật và cả các sự kiện lịch sử quan trọng của dân tộc. Lễ hội còn là bảo tàng sống về các mặt sinhhoạt văn hoá tinh thần của người Việt. Chúng đã sống, đang sống và với đặc trưng của mình, chúng tạo nên sức cuốn hút và thuyết phục mạnh mẽ nhất.”

  Các yếu tố của lễ hội ảnh hưởng tới việc thu hút khách du lịch:

-   Yếu tố thời gian: Các lễ hội nhìn chung thường diễn ra vào mùa xuân, thời điểm bắt đầu mỗi năm mới con ngườicó thời gian rảnh rỗi nên họ đi lễ ngaòi cầu lộc, cầu may còn là cách để nạp một nguồn năng lượng mới để “ Chiến đấu với đời”

-   Quy mô lễ hội: Các lễ hội có quy mô lớn, nhỏ khác nhau điều này ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động du lịch và khả năng thu hút khách. Ở Việt Nam, các lễ hội có quy mô lớn như: Giỗ Tổ Hùng Vương, lễ hội yên Tử, lễ hội chùa Hương thu hút một lượng khách rất lớn.

-   Lễ hội thường được tổ chức tại những di tích lịch sử văn hoá. Điều đó cho phép khai thác tốt hơn cả di tích lẫn lễ hội vào mục đích du lịch.

Tiềm năng du lịch gắn với dân tộc học: Mỗi dân tộc có những điều kiện sinh sống, những đặc điểm văn hoá, phong tục tập quán, hoạt động sản xuất mang những sắc thái riêng. Và con người khi đi du lịch chính là đi tìm “những xúc cảm mới lạ” mà quê mình không có. Cảm xúc khác lạ đấy chính là những tập tục là về cư trú, thói quen ăn uống sinh hoạt, kiến trúc cổ, trang phục dân tộc.v.v… Việt Nam với 54 dân tộc anh em vẫn còn giữ riêng bản sắc của mỗi vùng. Chẳng hạn như du khách tới Tây Nguyên, về việc thưởng ngoạn thắng cảnh văn hoá của Người Tây Nguyên còn có thể tham quan, tìm hiểu đời sống cảu các dân tộc như Eđê, Mơnông, tham gia lễ hội Đâm Trâu, tham quan nhà Rông, uống rượu cần, múa Cồng Chiêng cùng bà con các dân tộc. Càng gần gũi với đồng bào miền cao này, người ta càng cảm thấy ngạc nhiên và rạt rào tình cảm quý mến. Đời sống của đồng bào giản đơn nhưng tâm tình khá sâu sắc. Tưởng nghĩ của đồng bào và văn hoá truyền thống phong phú, vừa thực tế, vừa mơ mộng….

Văn hóa ẩm thực: Người ta nói ăn uống là biểu hiện của văn hóa. Mỗi quốc gia có một quan niệm khách nhau và vì vậy hình thành phong cách ẩm thực riêng cho mình. Nguyễn Tuân đã từng nói: “Ẩm thực là một dòng chảy không ngừng, không nghỉ như con sông nó đi qua bao tầng nấp, bờ bãi của kinh nghiệm ăn và sống mới phát triển thành nghệ thuật. Chủ quan, cảm tính là yếu tố không thể không tránh khỏi. Nhưng như mọi hiện diện của đời sống, ẩm thực cũng là một ấn tượng, một thói quen, một ký ức hay một kỷ niệm.”

    Nếu như người nước ta chú trọng đến đồ ăn và cách chế biến thức ăn thì đối với người Pháp, thức ăn chỉ là yếu tố tạo nên chất lượng vật chất, còn chất lượng thực sự của bữa ăn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố. Một cách trang trí bàn ăn độc đáo, một bức tranh trên tường phù hợp, bộ khăn trải bàn mang từ miền đất xa xôi đi cùng với bộ đồ ăn lạ mắt…. Tất cả đều mang theo mình một câu chuyện, ẩn chứa một sự tò mò thú vị cho khách. Với người Pháp, việc mời một người khách tới là “chịu trách nhiệm về hạnh phúc của họ trong một thời gian dưới mái nhà của mình”. Một bữa ăn truyền thống của người Pháp được sắp đặt như một bản giao hưởng hay vở kịch có 5 màn gồm: món nguội nhấm nháp, món nhẹ đầu bữa, món chính thường là thịt và cá, tiếp đến là pho mát và sau cùng là món tráng miệng. Theo triết lý của người Pháp: “bữa ăn là duy nhất mà ta không cảm thấy tẻ nhạt nhạt ngay từ lúc đầu

Ngày nay, việc đưa văn hóa ẩm thực vào các chương trình du lịch đã trở nên phổ biến. Đó là cách để lấy tiền của du khách một cách lịch sử nhất. Việc xây dựng các chương trình du lịch ẩm thực thường được các công ty tổ chức thành 2 lọai: Chương trình du lịch chuyên biệt và chương trình du lịch kết hợp.

Đến Việt Nam, du khách có thể thưởng thức các hương vị ẩm thực khác nhau của mỗi vùng, mỗi miền. Du khách có thể thưởng thức món phở với loại nước dùng bác học, chả cá Lã vọng (Hà Nội); thưởng thức cơm vua ở cố đô Huế; Bò tái cầu mống ở Quảng Nam; Giang nam dã hạc (miền Nam)… Tất cả đều tạo hướng đi mới cho ngành du lịch trong việc tạo ra nhiều sản phẩm du lịch độc đáo phục vụ khách du lịch.

 

n Vai trò của tài nguyên đối với phát triển du lịch:

      1. Quyết định phương hướng phát triển du lịch:

-   Khuyến khích kinh doanh.

-   Thu hút đầu tư kinh doanh.

-   Thu hút du khách đến tham quan.

-   Phối hợp hoạt động giữa các ngành.

-   Đào tạo nguồn nhân lực và tạo việc làm cho ngưòi lao động.

2. Xây dựng sản phẩm du lịch:

-   Các loại hình du lịch.

-   Quy mô  dịch vụ du lịch.

-   Chất lượng dịch vụ du lịch.

-   Đối tượng tiêu dùng sản phẩm.

     3. Quyết định xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật.

-   Xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế.

-   Xây dựng hạ tầng xã hội.

-   Xây dựng cơ sở lưu trú.

-    Xây dựng các loại hình vui chơi giải trí.

2.2.2    Nhân lực du lịch

Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho bản thân con người và cho xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng, hiểu quả cao là điều kiện quyết định cho sự phát triển đất nước.

Nguồn nhân lực được hiểu là toàn bộ trình độ chuyên môn mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập trong tương lai (Beng, Fischer & Dornhusch, 1995). Nguồn nhân lực, theo GS. Phạm Minh Hạc (2001), là tổng thể các tiềm năng lao động của một nước hay một địa phương sẵn sàng tham gia một công việc lao động nào đó. Khi nói đến nguồn nhân lực, người ta bàn đến trình độ, cơ cấu, sự đáp ứng với yêu cầu của thị trường lao động. Chất lượng nguồn nhân lực phản ánh trong trình độ kiến thức, kỹ năng và thái độ của người lao động.

Sự phân loại nguồn nhân lực theo ngành nghề, lĩnh vực hoạt động (công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ) đang rất phổ biến ở nước ta hiện nay, nhưng khi chuyển sang nền kinh tế tri thức phân loại lao động theo tiếp cận công việc nghề nghiệp của người lao động sẽ phù hợp hơn. Lực lượng lao động được chia ra lao động thông tin và lao đọng phi thông tin. Lao động thông tin lại được chia ra 2 loại: lao động tri thức và lao động dữ liệu. Lao động dữ liệu (thư ký, kỹ thuật viên...) làm việc chủ yếu với thông tin đã được mã hoá, trong khi đó lao động tri thức phải đương đầu với việc sản sinh ra ý tưởng hay chuẩn bị cho việc mã hoá thông tin. Lao động quản lý nằm giữa hai loại hình này. Lao động phi thông tin được chia 'ra lao động sản xuất hàng hoá và lao động cung cấp dịch vụ. Lao động phi thông tin dễ dàng được mã hoá và thay thế bằng kỹ thuật, công nghệ. Như vậy, có thể phân loại lực lượng lao động ra 5 loại: lao động tri thức, lao động quản lý, lao động dữ liệu, lao động cung cấp dịch vụ và lao động sản xuất hàng hoá. Mỗi loại lao động này có những đóng góp khác nhau vào việc tạo ra sản phẩm. Nồng độ tri thức, trí tuệ cao hay thấp trong sản phẩm lao động phụ thuộc chủ yếu vào đóng góp của lực lượng lao động trí thức, quản lý và phần nào của lao động dữ liệu ở nước ta, tỷ lệ lao động phi thông tin còn rất cao trong cơ cấu lực lượng lao động, do đó hàng hoá có tỷ lệ trí tuệ thấp. Muốn tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế, cần tăng nhanh tỷ lệ trí tuệ trong hàng hoá trong thời gian tới.

Theo chủ nghĩa Mác - Lênin “nguồn gốc quan trọng nhất” quyết định sự ra đời và phát triển của ý thức là lao động. Theo Các Mác: Lao động là một quá trình diễn biến tự nhiên giữa người và tự nhiên, một quá trình trong đó bản thân con người đóng góp vai trò môi giới, điều tiết và giám sát trong sự trao đổi vật chất giữa con người với tự nhiên. Lao động  là điều kiện đầu tiên và chủ yếu để con người tồn tại. Lao động cung cấp cho con người những phương tiện cần thiết để sống, đồng thời lao động sáng tạo ra cả bản thân con người. Thông qua lao động cải tạo thế giới khách quan, tìm hiểu được quy luật vận động của thế giới khách quan, hình thành dần dần những tri thức về tự nhiên và xã hội. Lao động gồm hai loại: Lao động chân tay và lao động trí óc .

Vậy chúng ta có thể hiểu: Lao động du lịch là bao gồm những người trực tiếp hoặc gián tiếp tạo ra những sản phẩm du lịch phục vụ nhu cầu của con người và nhu cầu phát triển xã hội.

   Tư liệu lao động:

   Trong quá trình sản xuất, sức lao động của con người và tư liệu sản xuất, trước hết là công cụ lao động, kết hợp với nhau thành một lực lượng sản xuất. Trong các yếu tố của lực lượng sản xuất, “lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động”. Chính người lao động là chủ thể của quá trình lao động sản xuất, với sức mạnh và kỹ năng lao động của mình, sử dụng tư liệu lao động, trước hết là công cụ lao động tác động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất. Công cụ lao động do con người sáng tạo ra, “là sức mạnh tri thức của con người đã được vật thể hóa”, nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Chính sự cải tiến và hoàn thiện kgông ngừng công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử .

  Đối tượng lao động: 

  Đối tượng lao động là toàn bộ thế giới khách quan xung quanh mà con người cùng tư liệu sản xuất tác động tạo nên của cải vật chất xã hội. Đối tượng lao động rất đa dạng, là mục tiêu khám phá và cải tạo của con người. Một nhà kinh doanh đã nói:“ Thế giới quanh ta thật là rộng lớn, cần phải nghiên cứu chúng” .

  Trong phạm vi ngành du lịch, ngoài yếu tố con người, chúng ta có thể hiểu đối tượng lao động du lịch là hệ thống tài nguyên (tự nhiên và nhân văn) và cơ sở vật chất kỹ thuật mang ý nghĩa kép, nó vừa là đối tượng lao động du lịch, vừa cùng với hệ thống cơ sở hạ tầng tạo nên tư liệu lao động để khai thác đối tượng lao động du lịch tài nguyên (tự nhiên và nhân văn). 

  Đặc điểm lao động trong ngành du lịch.

v    Lao động trong du lịch bao gồm lao động sản xuất vật chất và lao động sản xuất phi vật chất, trong đó lao động sản xuất phi vật chất chiếm tỷ trọng lớn .

v    Lao động trong du lịch có tính chuyên môn hóa cao .

v    Thời gian lao động không cao nhưng thường chịu áp lực tâm lý lớn.

v    Cường độ lao động không cao nhưng thường chịu áp lực tâm lý lớn. 

    Yêu cầu lao động trong du lịch: 

v    Yêu cầu đạo đức nghề nghiệp: Nghề du lịch là nghề hấp dẫn mọi người, được hưởng thụ những lợi ích kinh tế đăc biệt. Tuy vậy, lao động du lịch là lao động tương đối “nặng”, đặc biệt là nghề HDV. Trên đường hành trình, người HDV phải đối mặt với nhiều căng thẳng, phải có trách nhiệm với cuộc sống nhiều người hay nói một cách hình ảnh là nghề “làm dâu trăm họ”. Do tính chất phức tạp của công việc và sự chịu đựng căng thẳng về tâm lý nên khả năng chán việc rất cao. Điều này đòi hỏi lao động trong ngành du lịch phải có lòng yêu nghề, sự trung thực và tính kiên nhẫn.

v    Trình độ chuyên môn: Có nghiệp vụ, có kiến thức chuyên môn thành thạo và các kiến thức về văn hóa xã hội, kinh tế. Phải có kiến thức về giao tiếp ứng xử quốc tế, nắm vững tâm lí khách du lịch các nước để có cách phục vụ thích hợp. Đối với HDV thì trình độ chuyên môn chính là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công trong công việc. Có như vậy mới tạo được bản lĩnh nghề nghiệp khi đứng trước khách du lịch, sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi của khách đưa ra cung như mọi tình huống có thể xảy ra trong cuộc hành trình.

v    Trình độ ngoại ngữ: Là một trong những kiến thức cơ bản của lao động du lịch. Nếu thiếu ngoại ngữ thì không thể giao tiếp được với khách du lịch ngoài nước và khó lòng mà hiểu biết được nhu cầu, sở thích của họ. Và khách rất vui mừng khi chúng ta nói chuyện, giao tiếp với họ bằng ngôn ngữ của chính nước họ, họ có cảm giác một không khí thân thiện như ở chính ngôi nhà của mình. Nước ta đang trong trong quá trình hội nhập, là một trong những nước có tài nguyên phong phú để phát triển du lịch và là điểm đến an toàn đối với khách du lịch. Viêc đẩy mạnh phát triển du lịch quốc tế vừa quảng bá hình ảnh đất nước, vừa đem lại nhiều lợi ích kinh tế nên yêu cầu đặt ra là phải đào tạo, hoàn thiện chuyên môn của đội ngũ lao động du lịch, trong đó phải kể tới vấn đề ngoại ngữ. Có như vậy chúng ta mới có thể chủ động đón và phục vụ khách.

 

 Tóm lại, lao động du lịch phải có 3 nhiệm vụ cơ bản sau: 

v    Thỏa mãn tối đa nhu cầu chính đáng du khách. 

v    Mang lại hiểu quả kinh tế một cách tối ưu.

v    Góp phần bảo vệ được môi trường tự nhiên cũng như xã hội, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.

LAO ĐỘNG DU LỊCH CẦN TÂM NIỆM 7 ĐIỀU SAU:

1.      Xác định khách hàng là người quan trọng nhất của của bất cứ ngành kinh doanh nào.

2.      Khách không lệ thuộc vào chúng ta mà chúng ta lệ thuộc vào khách.

3.      Khách không phải là ngưòi đến gây phiền hà cho chúng ta mà là đối tượng để ta phục vụ.

4.      Khách là một bộ phận quan trọng của công việc kinh doanh.

5.      Khách là người đến với chúng ta với những ước muốn và nhu cầu, ta phải đáp ứng những ước muốn và nhu cầu đó của khách.

6.      Không nên nghĩ khách là người nhiều tiền mà phải quan niệm khách là người có đức tính và tình cảm như chúng ta.

7.      Khách là người nuôi sống và trả lương cho chung ta.


Phát huy nội lực  của học sinh, sinh viên ngành Du lịch.

 

            Cùng với chính sách mở cửa, luôn đề cao và phát huy vai trò của ngoại lực của Đảng và Nhà nước nên đã và đang có nhiều dự án phát triển trên mọi lĩnh vực từ bên ngoài đầu tư vào, trong đó có du lịch. Điền này khiến cho cơ hội việc làm của lao động Việt Nam nói chung và du lịch nói riêng vốn được đánh giá là trẻ và dồi dào trở nên thuận lợi và có cơ hội hơn bao giờ hết.

 

THẾ VÀ LỰC NGÀNH DU LỊCH

 

Xét về THẾ ngành du lịch đã có sự thuận lợi rất lớn. Như đã nói ở trên, cùng với chính sách mở cửa và phát huy ngoại lực, nhiều dự án đầu tư phát triển du lịch ở trong và ngoài nước đã và đang mở rộng cửa để đón nhận lao động du lịch Việt Nam. Trong nước, các dự án đầu tư “dồn dập” trong lĩnh vực du lịch không chỉ tập trung ở các thành phố mà còn hướng tới các vùng nông thôn, vùng núi, nơi có tài nguyên du lịch còn giữ nét nguyên sơ, hấp dẫn du khách. Các tập đoàn khách sạn lớn tại Macao, Đu Bai thông qua đối tác của mình tại Việt Nam hàng năm tuyển chọn hàng ngàn lao động sang làm việc với mức lương và điều kiện làm việc, ăn ở hấp dẫn. Vấn đề đặt ra hiện nay đối với các cơ quan chức năng của ngành cũng như địa phương là làm sao để phát huy nguồn nhân lực chất lượng hội tụ tiêu chuẩn, kỹ năng nghề, kỹ năng giao tiếp, trình độ ngoại ngữ để đáp ứng yêu cầu đặt ra của các công ty, tập đoàn nước ngoài.

           

THẾ đã có những thuận lợi, vậy tại sao chúng ta không kích thích và phát huy  LỰC. Lực để phát triển du lịch ở đây được hiểu ở đây được hiểu trên nhiều phương diện từ vấn đề tài nguyên, cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật du lịch đến vấn đề nguồn nhân lực. Mặc dù ngành Du lịch đang phát triển theo xu hướng đi lên nhưng vẫn chưa có trường đại học chuyên ngành riêng cho mình mà chủ yếu là “gửi gắm” các khoa của các trường Đại học khác nhau. Mỗi trường đào tạo du lịch theo một lĩnh vực du lịch riêng với bản sắc riêng của mình. Trường ĐH Kinh tế quốc dân Hà Nội và TPHCM đào các cử nhân kinh tế du lịch (quản trị kinh doanh du lịch khách sạn, nhà hàng); Viện Đại học Mở Hà Nội với thế mạnh về đào tạo cử nhân hướng dẫn du lịch; ĐH Văn hoá Hà Nội, ĐH Đà Lạt đào tạo cử nhân văn hóa du lịch .v.v.. Các trường đại học hàng năm cung cấp cho xã hội và ngành hàng ngàn “thầy” lao động. Còn “thợ” lao động thì sao?

Ngành du lịch hiện nay có một hệ thống các trường cao đẳng, cao đẳng nghề, trung cấp nghề chuyên đào tạo và cung cấp lực lượng lớn lao động trực tiếp cho đất nước và ngành trải theo chiều dài đất nước với các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương: Hải Phòng, Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Lâm Đồng, TPHCM, Bà Rịa – Vũng Tàu, Cần Thơ. Bên cạnh đó, ngành du lịch còn tiếp nhận số lượng lớn lao động có xuất phát điểm là các sinh viên ngành ngoại ngữ. Với nỗ lực đào tạo và đóng góp của mình, các trường thuộc các bậc khác nhau nói trên đã giúp cho đất nước, cho ngành  lực lượng lao động đáng kể, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hòa nhập với xu thế phát triển chung của du lịch thế giới.

 

HỌC SINH, SINH VIÊN CẦN PHÁT HUY NỘI LỰC

 

            Học sinh, sinh viên - những người đang ngồi trên ghế nhà trường cần phát huy nội lực của mình để chuẩn bị cho mình một tư thế, tâm thế tự tin, một hành trang tri thức để chiếm lĩnh cơ hội việc làm tốt, thu nhập cao. Vậy nội lực của các bạn là gì? Yếu tố ảnh hưởng và quyết định tới nội lực của các bạn? Nội lực là khả năng, kỹ năng là thế mạnh, là “nguồn tài nguyên tri thức” của bản thân. Mỗi người bằng nhiều cách, hướng đi, phương pháp tạo cho mình một nội lực riêng. Đối với các học sinh, sinh viên ngành du lịch, để phát huy nội lực bản thân cần phải chú ý và trau dồi:

            Thứ nhất: Trau dồi là lòng yêu nghề du lịch của mình. Khi đã yêu thì dĩ nhiên là chúng ta “say” với nó. “Say” nghề ở trên nhiều phương diện: tìm hiểu, học tập, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm với các chuyên gia và người đi trước .v.v. Nếu chúng ta đang học ngành du lịch mà chỉ xem đó như là một cuộc “dạo chơi” và dễ kiếm tiền dễ dàng thì quả là sai lầm vì du lịch là ngành mang kiến thức tổng hợp, sâu rộng, việc học và hiểu không phải là ngày một, ngày hai mà là một quá trình.

Phát triền du lịch mang tính liên vùng với nhiều loại hình khác nhau, trong đó có loại hình du lịch sinh thái, du lịch thể thao mạo hiểm là loại hình thường phát triển tại những vùng sâu, vùng xa mang bản sắc văn hóa cộng đồng địa phương rất cao. Có rất nhiều dự án cần một lực lượng lao động  với mức lương hấp dẫn để phát triển loại hình du lịch này nhưng rất ít học sinh, sinh viên sau khi tốt nghiệp về những vùng đó để làm việc vì tâm lý thích ở thành phố, thích nơi nhộn nhịp, thậm chí chấp nhận tìm những việc làm trái nghề để được ở lại. Như vậy, bản thân những học sinh, sinh viên đó đã yêu nghề hay chưa? Nếu yêu nghề thì nơi làm việc không phải là tất cả, quan trọng là mình có đóng góp được gì cho cơ quan, cho xã hội. Trong một chuyến đi thực tế tại VQG Cúc Phương, tôi thấy có một nhóm các bạn sinh viên nước ngoài ở đó hàng tháng trời với mục đích là tìm hiểu và nghiên cứu hệ sinh thái. Họ chấp nhận mọi hoàn cảnh như trời lạnh, mưa nắng thất thường, vắt cắn .v.v. Tôi hỏi: “Tại sao sao các bạn chấp nhận làm công việc này dù điều kiện rất khó khăn?” Thì nhận ngay được câu trả lời “Chúng tối làm vì chúng tôi yêu công việc của chúng tôi”. Điều đó chứng tỏ rằng lòng yêu nghề khiến các bạn ham học để đi đến chân lý khoa học và giỏi nghiệp vụ của mình.

Thứ hai: Rèn luyện tính chuyên nghiệp, chịu đựng được sức ép, áp lực trong môi trường làm việc. Điều đặc biệt là làm việc trong ngành du lịch mang sức ép tâm lý khá cao nên yêu cầu về tính chuyên nghiệp, tinh thần thái độ phục vụ chu đáo luôn đặt lên hàng đầu. Tại các doanh nghiệp Việt Nam cũng như nước ngoài, tính chuyên nghiệp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau như sự đúng giờ, trang phục, giao tiếp, quy trình làm việc, quy trình quản lý giữ gìn vệ sinh môi trường v.v. Đó cũng là những yếu tố tạo nên bản sắc văn hoá của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường với xu hướng toàn cầu hóa, nhiều công ty, tập đoàn kinh doanh sản phẩm dịch vụ du lịch thường đặt chất lượng và hiệu quả công việc của nhân viên lên hàng đầu. Tất nhiên sức ép công việc luôn gắn liền với quyền lợi, chế lương bổng cao, cơ hội được học tập và thể hiện bản thân, thể hiện cái “tôi tri thức” của mình. Nếu học sinh, sinh viên ra trường mà không “thích ứng” được sức ép, áp lực của công việc sẽ không thoát nổi nguy cơ bị “đào thải” luôn rình rập. Học sinh, sinh viên nên rèn luyện đức tính đó cho mình ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường để khi ra đi làm mình sẽ tự tin hơn và tự đưa mình vào “quy luật và ngưỡng thích ứng” mà doanh nghiệp yêu cầu.

            Thứ ba: Nâng cao khả năng và trình độ ngoại ngữ của mình. Có thể khả năng tay nghề của học sinh, sinh viên chưa đáp ứng được nguyện vọng của các nhà đầu tư (các nhà đầu tư nước ngoài thường cho đào tạo lại, đào tạo nâng cao sau khi được tuyển chọn phù hợp với tiêu chuẩn làm việc của mình) nhưng việc đòi hỏi về  ngoại ngữ và “thêm một ngoại ngữ là một lợi thế khi phỏng vấn, làm việc”  là yêu cầu bắt buộc. Bởi có ngoại ngữ, người lao động mới đón nhận được sự truyền tải cũng như đào tạo của các công ty và sau này là tìm hiểu, phục vụ và đáp ứng nhu cầu của du khách đa dạng đến từ nhiều quốc gia, nền văn hóa khác nhau.

            Liên hệ với cơ sở đào tạo nguồn nhân lực du lịch (Trường Cao đẳng Du lịch quốc tế), trình ngoại ngữ rất được chú trọng (tiếng Anh tối thiểu 550 điểm TOEFL) để đáp ứng ngay cho nhu cầu phát triển nhanh của ngành. Với đội ngũ lao động giỏi ngoại ngữ như vậy nên hàng năm đất nước Thái Lan đó nhận trên 10 triệu lượt du khách đến tham quan, nghỉ dưỡng và giải trí trong khi đó Việt Nam là (khoảng 4,5triệu lượt khách năm 2007). Và hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Thái Lan được quảng bá khắp thế giới. Ở Việt Nam chúng ta thì sao? Cùng với việc hỗ trợ của các dự án nước ngoài trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực, trình độ nghiệp vụ du lịch của học sinh, sinh viên và những người đã đi là không ngừng được hoàn thiện và nâng cao nhưng khả năng ngoại ngữ còn gặp một số trở ngại với nguyên nhân chính là ở bản thân. Một số học sinh, sinh viên sau cầm phiếu báo đậu đại học và nhập trường thường có tư tưởng tự thỏa mãn, không có ý chí cầu tiến trong học tập. Trong 4 năm học đại học, kết quả nhận được chỉ là tấm bằng thật nhưng chất lượng cần phải xem lại. Trong khoảng thời gian quý báu trên giảng đường không biết tận dụng để nâng cao khả năng ngoại ngữ của mình để cuối cùng phải chứng kiến “cơ hội việc làm” trôi qua trong sự tiếc nuối.

            Thiết nghĩ rằng khi những học sinh, sinh viên ngành du lịch có được hướng đi và cách để phát huy thế mạnh nội lực của mình thì cơ hội kiếm được việc làm đúng ngành, đúng nghề với môi trường chuyên nghiệp, thu nhập cao. Trở ngại bao giờ cũng ở trong chính các bạn.

 

                                                                                     Phạm Trọng Lê Nghĩa

                                                                        (Tạp chí Du lịch Việt Nam – Số 11/2008)


ĐI TÌM SỰ “GẶP GỠ” GIỮA CUNG VÀ CẦU LAO ĐỘNG DU LỊCH

 

            Bài toán về việc làm, khai thác và sử dụng nguồn nhân lực là đề tài muôn thủa không chỉ có riêng ngành du lịch mà nó luôn tồn tại đối với bất kỳ ngành nghề khác. Tuy nhiên, do mỗi ngành do tính chất và đặc thù riêng nên “bài toán” này có những phương pháp “giải”, hướng đi khác nhau. Đi tìm sự “gặp gỡ” giữa cung và cầu lao động du lịch giúp ngành du lịch giải “bài toán” đồng thời tìm hướng đi, tìm ra giải pháp trong chính sách đào tạo sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực.

 

THỰC TRẠNG ĐÀO TẠO, KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG NGUỒN NHÂN LỰC DU LỊCH

 

            Hiện nay, trong lĩnh vực du lịch đã có Dự án về đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Du lịch hợp tác với các nước đã và đang thực hiện được sự hưởng ứng nhiệt tình của các giáo viên, giảng viên chuyên ngành và những nhà làm du lịch. Nhiều phương pháp dạy học, làm việc mới, hiệu quả nhanh chóng thích ứng, phổ cập và đáp ứng nhu cầu của các trường, các doanh nghiệp du lịch và ngành nói chung. Tính đến năm 2008, cả nước có trên 01 triệu lao động du lịch (285.000 lao động trực tiếp và trên 750.000 lao động gián tiếp) nhưng so với tốc độ phát triển của nền kinh tế nói chung và của ngành nói riêng thì khả năng đáp ứng nhu cầu của nó còn tồn tại nhiều vấn đề chưa được giải quyết không chỉ về số lượng mà còn phải kể tới chất lượng. Thực tế hiện nay nước ta nhiều dự án phát triển du lịch tại nhiều địa phương khác nhau làm thay đổi và tạo nên vị thế mới cho ngành du lịch. Đi liền với nó là là sự đòi hỏi ngành hàng năm phải “sản xuất” ra một lượng lớn lao động du lịch trực tiếp và đội ngũ quản lý có chất lượng để đáp ứng yêu cầu của thực tế. Nhiều trường, đặc biệt là trung cầp nghề, cao đẳng nghề luôn được sự quan tâm tìm đến và mong muốn hợp tác, thậm chí “đặt hàng” của các đơn vị sử dụng lao động trong và ngoài nước. Đó được xem là  tín hiệu đáng mừng kích thích các trường phát huy thế mạnh, thực hiện chiến lược tạo nên những bứt phá trong tương lai.

Tuy nhiên, chúng ta phải thừa nhận một thực tế rằng hiện nay cung du lịch chưa phát huy hết vai trò của mình nên “sản phẩm” cung cấp cho doanh nghiệp và cho ngành chưa được chất lượng như mong muốn. Nhiều doanh nghiệp, cơ quan quản lý du lịch sau khi tiếp nhận nguồn nhân lực mới ra trường phải tốn kém chi phí và thời gian để đào tạo lại. Một số khác ra trường không xin được hay không đáp ứng được yêu cầu của nhà tuyển dụng đành phải làm trái nghề hoặc chuyển sang học lại nghề khác. Đó là một sự lãng phí rất lớn không những về chất xám mà còn cả kinh phí nhà nước cấp cho đào tạo. Và cũng cần nói thêm rằng hiện nay phần lớn các khách sạn 5 sao tại Việt Nam do người nước ngoài quản lý đều hành. Phải chăng ngành du lịch chúng ta chưa đủ khả năng đào tạo những cán bộ quản lý xứng tầm với khách sạn 5 sao? Liệu lực lượng loa động du lịch mà các trường đào tạo ra hàng năm đã “sẵn sàng” làm việc được các khách sạn 5 sao chưa? Điều này xuất phát từ nhiều như nguyên nhân song chủ yếu là do phương pháp dạy học, nội dung giáo trình chưa bám sát thực tiễn, giữa doanh nghiệp và trường học chưa có sự quan hệ mật thiết trong phối hợp xây dựng chương trình đào tạo. Và cách giảng dạy thường mang ý kiến chủ quan một chiều do tiếng nói “góp ý” của doanh nghiệp chưa được khai thác và phát huy. Vẫn tồn tại tư tưởng xem giáo trình, sách tham khảo là “gậy chống” chắc chắn, là cái “kho nguyên liệu” được “bao cấp” nên cứ “hồn nhiên” cóp chép nguyên xi, mong áp đặt cho học sinh, sinh viên. Hệ quả của tâm lí đó là cho trò “ăn” nhiều nhưng kì thực là “no giả đói thật”. Còn học sinh, sinh viên ngành du lịch thì sao? Thầy chưa “chuyển” thì trách sao học sinh, sinh viên “vâng chịu”. Biểu hiện là: Ỷ lại thầy, ỷ lại sách; học thiếu chủ động, tích cực; chưa có thói quen tự học; tư duy làm việc độc lập hình thành chậm; chưa biết cách học mới, kỹ năng vận dụng ngôn ngữ, trình bày còn yếu .v.v.. Kết quả của nó là “đường” cung và cầu về lao động chạy “song song” mà không thể có sự “gặp gỡ”. Muốn hai “đường” này cắt nhau và “gặp gỡ” thì việc đầu tiên là phải xác định “nghiệm” chung.

           

“NGHIỆM” CHUNG GIỮA CUNG VÀ CẦU LAO ĐỘNG DU LỊCH

           

            “Nghiệm” chung ở đây chính là tìm sự “gặp gỡ”, “đồng cảm” về số lượng, chất lượng nguồn lao động giữa các trường đào tạo ngành du lịch và các doanh nghiệp, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở các cấp. Nhiệm vụ của các trường là luôn tạo thế trận “sẵn sàng” cung những lao động chất lượng đáp ứng cầu của doanh nghiệp du lịch. Ngược lại, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý du lịch “sẵn sàng” nhận từ nguồn cung những lao động du lịch đáp ứng yêu cầu, tiêu chuẩn, có khả năng “làm được việc”. Điều đó có nghĩa cả hai phía phải tìm ra “nghiệm” để “cân bằng phương trình” lao động du lịch, tránh tình trạng bài toán đó “vô nghiệm”. Nghiệm chung được thể hiện bởi các mặt sau:

            Một là, đó là sự đa dạng trong cơ cấu ngành nghề đào tạo. Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có mối quan hệ mật thiết với nhiều ngành, nghề và lĩnh vực khác nhau. Khi cuộc sống con người được nâng cao, nhu cầu con người trở nên đa dạng. Vì vậy khi đi du lịch, mục đích của con người không đơn thuần là tham quan, giải trí, nghỉ duỡng mà còn xuất hiện nhiều nhu cầu mới đòi hỏi các nhà làm du lịch tạo ra nhiều sản phẩm, dịch vụ và loại hình du lịch mới. Điều đó có nghĩa việc đào tạo và cơ cầu ngành nghề du lịch cũng phải đa dạng. Nói về sự đa dạng thì các trường từ đại học trung học đào tạo chuyên ngành du lịch nước ta gần như đáp ứng điều đó. Nếu như các trường trung học, cao đẳng, nghề chuyên đào tạo cung cấp phần lớn lưc lượng lao động và quản lý trực tiếp như đầu bếp, nhân viên phục vụ bàn, buồng, lễ tân, hướng dẫn viên…thì các trường đại học hàng năm “xuất xưởng” hàng ngàn lao động du lịch làm công tác quản lý và sự nghiệp. Bên cạnh đó chúng ta hàng năn tiếp nhận một lượng lớn lao động du lịch đi học tập (theo diện Dự án hoặc tự túc) từ nước ngoài trở về với những ngành học mới làm cho bức tranh cơ cầu nghề du lịch thêm đa dạng hơn, góp phần vào sự nghiệp phát triển của lịch chung của đất nước.

            Hai là, đó là trình độ, chất lượng nguồn lao động du lịch. Trình độ, chất lượng lao động du lịch luôn là mối quan tâm của các doanh nghiệp, các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch. Điều mà các chủ thể mong muốn là lực lượng lao động đó sau khi ra trường có thể “thích ứng” nhanh với công việc cũng như môi trường làm việc. Để đạt được điều này cần có sự kết hợp chặt chẽ từ hai phía đó là sự đào tạo của trường và nội lực của bản thân. Nếu như đối với trường đó là sự đòi hỏi về phương pháp giảng dạy, nội dung đào tạo gắn liền với thực tế và cập nhật nhanh sự phát triển của ngành thì đối với học sinh, sinh viên là sự trau dồi đạo đức nghề nghiệp, lòng yêu nghề, “bản lĩnh” nghề nghiệp, trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng giao tiếp và phán đoán tâm lý khách, trình độ ngoại ngữ …. Có thể nhận thức rằng việc “định nghĩa” và đưa ra tiêu chuẩn lao động du lịch có chất lượng rất dễ nhưng việc đào tạo để đạt được điều đó không thể ngày một ngày hai và chủ quan duy ý chí. Nếu như học sinh, sinh viên ra trường và làm tốt công việc thì điều đó có nghĩa là giữa doanh nghiệp du lịch và nhà trường có sự gặp gỡ và có tiếng nói chung.

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẦN THIẾT

            Thứ nhất, cần đổi mới nhận thức, tư duy và phương pháp giảng dạy gắn với thực tiễn phát triển cũng như đặc trưng riêng của ngành du lịch. Muốn đổi mới nhận thức, tư duy, phương pháp thì trước tiên phải mạnh dạn giảm tải nội dung kiến thức, mục tiêu bài học phải gọn nhẹ, phù hợp với độ tuổi, thể chất, trì não, từng bậc học của học sinh, sinh viên (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng, đại học) để có giải pháp tương thích phù hợp. Quan trọng là nội dung đúng đúng trọng tâm, đáp ứng với nhu cầu của thực tiễn. Phải trả lời được các câu hỏi: Đối tượng học là ai? Học chuyên ngành du lịch gì? Phương pháp dạy học như thế nao? Mục tiêu đào tạo như thế nào? .v.v.. để có thể “chế biến”, “sản xuất” ra những “sản phẩm bài giảng” độc đáo mang thương hiệu, phong cách riêng, bản sắc riêng của mình nhưng vẫn đáp ứng và đảm bảo yêu cầu về chất lượng của nhà trường và doanh nghiệp du lịch.

            Bên cạnh đó phải tạo ra tính “xung đột” trong quá trình dạy học lý thuyết cũng như thực hành. Tính “xung đột” ở đây được hiểu là sự trao đổi, “chất vấn” giữa thầy và trò trong các vấn đề đặt ra từ môn học, từ thực tế hoạt động kinh doanh du lịch như nhà hàng, khách sạn, lữ hành … để tìm chân lí. Cũng như một vở kịch, một bộ phim hay bao giờ cũng hàm chứa tính “xung đột”. Giờ học có “xung đột” càng cao thì càng hấp  dẫn. Người thầy đóng vai trò là đạo diễn; học sinh, sinh viên trong vai diễn viên và khán giả. Phim hay, kịch hay nếu làm khán giả hài lòng, ấn tượng và có ý nghĩa với cuộc sống. Giờ học được xem là thành công nếu học sinh, sinh viên hiểu bài, có mối liên hệ thực tiễn và có ý thức trau dồi kỹ năng nghề để sau này làm việc đạt hiểu quả cao. Nếu duy trì được tính “xung đột” này người thầy sẽ luôn chủ động trong mọi tình huống đưa ra còn học sinh, sinh viên ham học hơn. Những lần tranh luận trên lớp trò sẽ nhớ rất lâu, có sự tự tin, trong tư duy của mình đã có sự hình thành, sự lựa chọn kiến thức và áp dụng kiến thức với thực tế. Những điều này rất cần thiết cho công việc sau này.

            Thứ hai, thực hiện phương châm “Đồng hành cùng doanh nghiệp” trong quá trình xây dựng chương đào tạo, tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên và giáo viên  thực tập. Đây là một lợi thế không chỉ có lợi cho học sinh, sinh viên mà còn cả giáo viên, giảng viên chuyên ngành du lịch. Khi nhà trường và doanh nghiệp có tiếng nói chung, cùng có sự “đồng hành” thì việc “học đi đôi với hành” mới thể hiện hết giá trị vốn có của nó. Doanh nghiệp du lịch tạo điều kiện cho học sinh, sinh viên vừa học tập, vừa thực tập. Như vậy, sau khi ra trường, số học sinh, sinh viên này có thể “làm được việc” ngay mà không còn bỡ ngỡ với kiến thức đã học ở trường. Điều quan trọng là trong quá trình học sinh, sinh viên học tập, doanh nghiệp có cơ hội tuyển chọn lao động đạt với yêu cầu của mình mà không phải tốn chi phí cũng như thời gian đào tạo lại. Vào dịp hè các trường nên có kế hoạch tạo điều kiện để giáo viên tới các doanh nghiệp như nhà hàng, khách sạn lớn có uy tín trong và ngoài nước để học hỏi, nâng cao tay nghề, kỹ năng nghiệp vụ của mình. Chúng ta có thể thấy rằng chính các doanh nghiệp thường xuyên phải tiếp xúc và phục vụ nhiều đối tượng khách từ các quốc gia, nghề nghiệp với những sở thích, thị hiếu, tính cách, truyền thống văn hóa và gặp nhiều tình huống xử lý khác nhau nên các giáo viên, giảng viên có thể tham khảo lấy kiến thức thực tế để xây dựng giáo trình, bài giảng, xác định mục tiêu giảng dạy cho học sinh, sinh viên.

             Song song với việc phối hợp xây dựng mục tiêu đào tạo và nội dung các môn học, tạo đều kiện cho học sinh có cơ hội thực tập, hàng năm các trường nên phối hợp với các doanh nghiệp tổ chức những buổi hội thảo trao đổi về nghề, về cơ hội việc làm. Tại những cuộc hội thảo này, học sinh, sinh viên có cơ hội được “trò chuyện” và có những định hướng trong học tập. Tuy là cuộc hội thảo nhưng đó cũng là cách học không chỉ cho trò mà còn cho thầy, thậm chí cả doanh gnhiệp du lịch.

            Thứ ba, hàng năm các trường cần phối hợp với các doanh nghiệp du lịch, các nhà quản lý du lịch có những phân tích, đánh giá về chất lượng “sản phẩm” lao động của mình nhằm xác định mặt mạnh, yếu và điều chỉnh chiến lược đào tạo, nội dung giảng dạy phù hợp. Đây là việc làm cần thiết vì nhà trường có đào tạo ra hàng năm nhiều lao động tới đâu mà không nghiên cứu, điều tra tính hiệu quả của chất lượng thì coi như “muối bỏ bể”. Thông qua việc nghiên cứu, tìm hiểu và “lắng nghe” sự phản hồi của các doanh nghiệp và các đơn vị sử dụng nguồn lao động, các trường có cơ hội nhận thức, nhìn nhận lại “mình” trên nhiều phương diện từ nội dung đào tạo, phương pháp giảng dạy, chiến lược phát triển. Việc đánh giá chất lượng nguồn lao động của mình, các trường có thể dựa vào những thông số như tính chuyên nghiệp, kỹ năng nghề, tác phong, kỹ năng giao tiếp, khả năng xử lý tình huống, trình độ ngoại ngữ .v.v. để cho điểm. Tổng điểm của lao động được tổng hợp, đánh giá phản ánh vị trí, mức độ, chất lượng đào tạo hiện tại của trường. Như vậy, các doanh nghiệp thông qua chính kiến của mình và tổng hợp sự phản hồi của khách là một trong những tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng đào tạo, chất lượng nguồn lao động du lịch của các trường.

                        Qua bài viết này, tôi muốn trao đổi một cách hiểu, một hướng đi và trình bày để tham khảo, có thể áp dụng chứ tuyệt nhiên không xem đây là kiểu mẫu để áp đặt. Mong có sự trao đổi thêm của các nhà làm du lịch, các đồng nghiệp để sự nông cạn riêng của cá nhân đóng góp tiếng nói vào sự sâu rộng chung.

                                                                        Phạm Trọng Lê Nghĩa         

    Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3/2009    

2.2.3    Cơ sở hạ tầng – CSVCKTDL

Như ta đã biết mỗi phương thức sản xuất nhất định đều có cơ sở vật chất kỹ thuật tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội nhất định thường được hiểu là toàn bộ vật chất của lực lưoựng sản xuất cùng với kết cấu của xã hội đã đạt được trình độ xã hội tương ứng. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một xã hội tồn tại trong phạm vi các quan hệ sản xuất nhất định nên nó mang dấu ấn và chịu sự tác động của các quan hệ sản xuất trong việc tổ chức quá trình công nghệ. Trong cơ cấu xã hội vì vậy khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật gắn bó chặt chẽ với các hình thức xã hội của nó.

Đặc trưng cơ sở vật chất kỹ thuật của phương thức trước thời công nghiệp tư bản còn thủ công lạc hậu. Còn cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất lớn, hiện đại chỉ có thể là nền công nghiệp hiện đại cân đối phù hợp dự trên trình độ khoa học kỹ thuạat công nghệ ngày càng cao. Để có cơ sở vật chất và kỹ thuật như vậy các nước đang phát triển cần phải tiến hành công nghiệp hoá. Nước ta thuộc vào nhóm đang phát triển, là một trong những nước nghèo nhất thế giới, nông nghiệp lạc hậu còn chưa thoát khỏi xã hội truyền thống để sang "xã hội văn minh công nghiệp". Do đó khách quan phải tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá là nội dung, phương thức là con đường phát triển nhanh có hiệu quả. Đối với nước ta quá trình công nghiệp hoá còn gắn chặt với hiện đại hoá, nó làm cho xã hội chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại làm biến đổi căn bản bộ mặt của xã hội trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị…

Hiện nay đất nước ta còn nghèo (thuộc nhóm thứ 3 thì việc công nghiệp hoá - hiện đại hoá là con đường tất yếu. Từ Đại hội Đảng VI của Đảng xác định đây là thời kỳ phát triển mới - thời kỳ "Đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước" định hướng phát triển nhằm mục tiêu "xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh.

Cùng với tài nguyên du lịch, lao động du lịch, hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là nguồn lực quan trọng để phát triển ngành du lịch, nó tạo nên thế đứng vững chắc, sự sẵn sàng đón khách của nước chủ nhà. Xét theo ngôn ngữ của Triết học, chúng ta có thể hiểu cơ sở vật chất kỹ thuật cùng với con người tạo thành một lực lượng sản xuất quan trọng của ngành du lịch.

  Vậy chúng ta có thể hiểu: Cơ sở hạ tầng, vật chất kỹ thuật du lịch bao gồm: hệ thống giao thông vận tải, thông tin liên lạc, công trình điện nước; hệ thống các cơ sở phục vụ ăn uống, lưu trú; mạng lưới cửa hàng thương nghiệp, các cơ sở thể thao, các cơ sở y tế, các công trình phục vụ hoạt động thông tin văn hóa, các cơ sở phục vụ các dịch vụ bổ sung khác .v.v.. nhằm mục đích phục vụ phát triển ngành du lịch.

Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình tạo ra và thực hiện sản phẩm du lịch cũng như quyết định mức độ khai thác các tiềm năng du lịch nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách du lịch. Chính vì nó có vai trò quan trọng như vậy nên sự phát triển du lịch bao giờ cũng gắn liền với việc xây dựng và hoàn thiện cơ sở vật chất kỹ thuật .

Du lịch là một ngành sản xuất đa mặt hàng, đa sản phẩm, điều đó kéo theo sự đa dạng của hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật . Du khách thật sự ấn tượng, muốn khám phá một điểm du lịch, một vùng du lịch một khi hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật tại nơi đó (Cũng có nghĩa là một sản phẩm du lịch) được hoàn thiện và đáp ứng nhu cầu của họ. Điều này nói lên mối quan hệ khắng khít, chặc chẽ giữa tài nguyên du lịch tạo cho một chương trình du lịch ấn tượng, hoàn hảo.

Cơ sở vật chất có tác động tới mức độ sử dụng tài nguyên du lịch và việc bảo vệ, giữ gìn chúng. Điểm du lịch khu du lịch của một địa phương, một quốc gia chỉ thực sự thu hút khách khi có hệ thống cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật hoàn thiện. Đó là yếu tố quyết định thời gian lưu lại của du khách, và làm tăng thêm doanh thu cho cơ sở kinh doanh du lịch khi khách tiêu thụ các sản phẩ du lịch khác. Sự lưu lại của khách cũng đồng nghĩa với mức độ sử dụng, tác động vào tài nguyên du lịch tăng. Điều này đặt ra vấn đề  bảo vệ tài nguyên du lịch để tạo nen tính liên tục trong quy trình phục vụ khách du lịch.

Cơ sở vật chất kỹ thuật làm tăng lưu lượng khách, và tần suất hoạt động của các điểm du lịch, nghĩa là cơ sở vật chất kỹ thuật đóng vai trò như là động cơ, tạo nên cái “hích” kích thích sự đi du lịch của du khách, cũng như sự tiêu thụ sản phẩm du lịch.

2.2.4    Các sự kiện đặc biệt

Sự kiện đặc biệt của mỗi vùng, mỗi quốc gia là cách quản bá rất hữu hiệu đối với phất triển du lịch. Và chính nhờ những sự kiện đó mà thu hút lượng khách du lịch lớn trong một thời gian ngắn. Không phải ngẩu nhiên mà hiện nay trên thế giới, hàng loại quốc gia đua nhau giành đăng cai tổ chức Thế Vận Hội Thể Thao Mùa Hè, Mùa Đông, World Cup, Euro, Asia.v.v… Bên cạnh được thừa hưởng nguồn cơ sở vật chất để lại là sự việc giới thiệu đất nước của mình với bạn bề thế giới, doanh thu trong các ngành lưu trú, ăn uống tăng mạnh và đem một nguồn lợi nhuận lớn cho quốc gia. Chúng ta làm một phép tính đơn giản như thế này: Một kỳ World có 32 quốc gia tham dự, trung  bình mỗi quốc gia có 10.000 CĐV (Du khách), mỗi du khách trong thơì gian lưu lại sẽ tiêu trung bình 250 USD/ người. Thì doanh thu tổng cộng rất lớn. Đó là chưa kể những kỳ thế vận hội mùa hè có hàng triệu du khách đến tham quan.

Ở Việt Nam, năm 2003 là một năm đáng nhớ với sự kiện Seagame. Du khách đến tham quan không khỏi ngạc nhiêntrước thái độ đón tiếp của nước ta. Bên cạnh việc đạt thành tích cao, Seagame đã gián tiếp quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới. Ngày nay, hàng năm Tổng Cục Du Lịch phối hợp với UBND, Sở Du lịch các tỉnh, thành phố tổ chức chương trình hành động Năm Du Lịch (Năm 2003 là năm du lịch Khánh Hoà, 2004 – Năm du lịch Điện Biên và 2005 là năm du lịch Nghệ An). Những sự kiện về thể thao và việc tở chức năm du lịch đã thu hút một lượng khách rất lớn cho ngành du lịch của địa phương, quốc gia đó thêm phát triển và quan trọng hơn cả là thực hiện chính sách quảng bá cho du lịch vùng, địa phương đó.


NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI THÁC

VÀ SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ TRONG DU LỊCH

 

            Chi phí thấp nhất, doanh thu và lợi nhận cao nhất, luôn chiếm ưu thế về cạnh tranh trên thị trường mà một trong những mục tiêu mà các doanh nghiệp nói chung trong đó có doanh nghiệp du lịch phấn đấu đạt tới. Để đạt được mục tiêu ở trên đề ra, các doanh nghiệp du lịch bên cạnh việc nghiên cứu, áp dụng chiến lược kinh doanh phù hợp; sử dụng các biện pháp như nhân sự, tổ chức quản lý, điều hành... cần đặc biệt chú trọng khai thác và sử dụng hiệu quả công nghệ. Đó được xem là chìa khóa quyết định sự thành công và là một trong những biện pháp hàng đầu đối với kinh doanh sản phẩm dịch vụ du lịch trong xu thế hội nhập và toàn cầu hóa ngày nay.

           

VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ DU LỊCH

 

 Du lịch là một ngành kinh tế dịch vụ nên công nghệ của nó cũng mang tính đặc thù riêng. Việc áp dụng công nghệ trong du lịch thường phải tuân theo một quy trình, vận dụng và lĩnh hội các “kỹ năng, kiến thức, thiết bị và phương pháp” trong quảng bá, “sản xuất”, kinh doanh sản phẩm dịch vụ du lịch (khách sạn, nhà hàng, vận chuyển, vui chơi giải trí ….). Lâu nay, nhiều người còn ngộ nhận về công nghệ du lịch, đôi lúc còn đồng nhất trang thiết bị trong kinh doanh phục vụ khách du lịch với công nghệ. Thậm chí có ý kiến cho rằng, muốn phát triển, thu hút khách và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ du lịch chỉ cần đi mua sắm và đổi mới trang thiết bị. Đây là quan điểm sai lầm vì trang thiết bị (website doanh nghiệp du lịch, trang thiết bị trong khách sạn, nhà hàng … ) chỉ là một bộ phận của công nghệ du lịch bên cạnh các thành phần khác như yếu tố con người làm du lịch (H: human), thông tin trong du lịch và liên quan tới du lịch  (I: imformation), kỹ năng tổ chức quản lý trong du lịch (O: orgnization). Như vậy muốn đổi mới, sử dụng và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ thì những người làm du lịch phải chú trọng và đầu tư vào tất cả các yếu tố nói trên. Ví dụ như việc quảng bá hình ảnh đất nước, con người, văn hóa Việt Nam đến với bè bạn thế giới để lôi cuốn sự chú ý và hành động (tới tham quan) thì phải cần đến phương tiện truyền tải là công nghệ thông tin. Nhưng công nghệ thông du lịch (trang thiết bị) chỉ đóng vai trò là công cụ, còn để các truyền tải đó hiệu quả chúng ta cần phải chú ý tới các yếu tố khác như con người (có kỹ năng, kỹ xảo, tay nghề, học vấn); thông tin (lịch sử, văn hóa, đối tượng được truyền tải); cách tổ chức, quản lý điều hành.

            Phát huy và nâng cao vai trò khai thác và sử dụng công nghệ du lịch không chỉ giúp cho bản thân ngành và nền kinh tế xã hội có những biến chuyển sâu sắc. Sau khi nước ta trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), các doanh nghiệp Du lịch cũng chịu nhiều sức ép về cạnh tranh cũng như tìm “đối tác” xứng tầm với các doanh nghiệp ngoài nước. Để có chỗ đứng, các doanh nghiệp Việt Nam luôn phải phải chú trọng và nâng cao hiệu quả sử dụng công nghệ và đó được xem là một trong những giải pháp tối ưu trong tình hình hiện này. Công nghệ du lịch còn giúp Việt Nam biết về thế giới và ngược lại thế giới biết về Việt Nam; giúp nước ta hòa nhập, đổi mới; chuyển dịch cơ cấu ngành nghề từ nông nghiệp chuyển sang dịch vụ; là công cụ phát triển hài hòa cân đối kinh tế, thu hẹp khoảng các giàu nghèo giữa các vùng, các địa phương trong nước được xem như là một “công cụ xóa đói giảm nghèo” … Nhiều vùng sâu vùng xa với tiềm năng du lịch phong phú, đặc trưng, độc đáo nếu trước đây chưa được mọi người biết và để ý tới nhờ thông qua công nghệ nói chung, công nghệ du lịch nói riêng có thể “đổi đời” một cách nhanh chóng. Và một bộ phận lao động được giải quyết việc làm đồng thời giúp người dân với công việc thuần nông có thêm việc làm thông qua xuất hiện hoạt động tham quan du lịch tại địa phương mình.

            Tìm hiểu được bản chất, vai trò của công nghệ du lịch nhằm tìm giải pháp, thực hiện chiến lược phát triển, khai thác, sử dụng nó phù hợp với tình hình phát triển kinh tế xã hội của nước ta. Có như vậy tiềm năng du lịch của Việt Nam sẽ được khai thác hợp lý, đạt hiệu quả, góp phần thực hiện mục mục tiêu “phát triển du lịch bền vững” mà chúng ta đang thực hiện.  

 

 

MỘT SỐ GIẢI PHÁP CẦN THIẾT NÂNG CAO HIỆU QUẢ

KHAI THÁC VÀ SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ DU LỊCH

 

            Thứ nhất, đối với các nhà làm quản lý trong lĩnh vực du lịch, các doanh nghiệp du lịch xác định đổi mới và nâng cao hiểu quả sử dụng cộng nghệ là mục tiêu chiến lược. Trước tiên cần phải nhận thức rõ vai trò, chức năng cũng như tầm quan trọng của việc đổi mới công nghệ trong doanh nghiệp của mình, cần phải trả lời được các câu hỏi như: Chú trọng mục tiêu nào? Khâu kinh doanh nào cần giải pháp công nghệ? Điểm nào hiện này đang thua các “đối thủ”? Vì sao lại thua? Khi đã xác định được mục tiêu và tầm quan trọng, trả lời được các câu hỏi nêu trên thì doanh nghiệp có lựa chọn và điều chỉnh công nghệ du lịch sao cho phù hợp. Giải pháp chiến lược đầu tư công nghệ du lịch chỉ thật sự hợp lý và hiệu quả khi đầu tư đúng trọng tâm, đúng mục tiêu đề ra và trúng đối tượng.

 

Kinh doanh khách sạn, nhà hàng hay các điểm du lịch “thuận buồm xuôi gió” không có nghĩa là không cần quan tâm và kiểm tra các yếu tố của công nghệ (trang thiết bị, con người, thông tin, tổ chức quản lí điều hành), ngược lại phải luôn kiểm tra để phát hiện những yếu tố chưa phù hợp nhằm duy trì sự ổn định, “bền vững” và tiếp tục phát triển. Nếu tình hình kinh doanh gặp những trở ngại như nguồn khách thấp, sản phẩm dịch vụ tiêu thụ chậm, doanh thu thấp thì không phải “vơ đũa cả nắm” điều chỉnh tất cả các yếu tố của công nghệ du lịch một lúc mà phải cần xem xét yếu tố nào là nguyên nhân gây trở ngại chính, phụ để khắc phục kịp thời. Có thể do trang thiết bị cũ kỹ không phù hợp, có thể do trình độ, kỹ năng của nhân viên, cũng có thể do cách tổ chức quản lí kém …

 

Thứ hai, tìm hiểu bạn hàng, nơi cung cấp; tránh tình mua bán, trạng chuyển giao công nghệ du lịch theo kiểu “mới mình, rác thải của bạn”. Một trong những đặc điểm cơ bản của sản phẩm dịch vụ du lịch là tính sản xuất gắn liền với lưu thông. Thực tế đã được kiểm nghiệm qua các sản phẩm dịch vụ trong nhà hàng, khách sạn. Khách du lịch, đối tượng tiêu dùng sản phẩm dịch vụ với mọi thành phần, lứa tuổi, nghề nghiệp, quốc tịch nên trong quá trình phục vụ các khách sạn, nhà hàng lớn, nhân viên thường thực hiện với công nghệ chuẩn quốc tế. Chính vì lẽ đó, việc xác định “đối tác” để chuyển giao công nghệ du lịch là việc rất quan trọng. Chúng ta xem xét, tìm hiểu “đối tác” dựa trên nhiều yếu tố từ môi trường công nghệ, năng lực sử dụng công nghệ, khả năng ứng dụng trong trong đơn vị mình, có phù hợp với bản sắc và “tính cách” của nước mình hay không? Một trong những tiêu chí đáng lưu ý là công nghệ du lịch đó có ảnh hưởng xấu tới môi trường hay không? Như vậy, khi xem xét và có quyết định chuyển giao đổi mới công nghệ cần phải huy động tất cả các yếu tố trong thành phần của nó từ hiệu quả, vai trò của trang thiết bị (T); kỹ năng , kỹ xảo, kiến thức vận dụng của con người (H); tư liệu, bảng mô tả kỹ thuật (I) và phương pháp tổ chức quản lý, điều hành (O). Nếu thiếu một trong những yếu tố trên thì việc chọn lựa công nghệ du lịch gặp rất nhiều khó khăn, trở ngại và có khi bị “hớ”.

Lượng khách du lịch quốc tế vào Việt Nam ngày càng nhiều nên việc đổi mới công nghệ trong du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của khách và sự phát của ngành là một đòi hỏi khách quan. Nên chăng chúng ta nên có sự tham khảo, tìm hiểu về công nghệ du lịch tại những nước có nền du lịch phát triển cao, là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của nước đó. Và chúng ta cũng có thể tìm hiểu thêm về kinh nghiệm công nghệ phát triển du lịch tại những quốc gia có lượng khách tới Việt Nam đông trong những năm gần đây như Trung Quốc, Mỹ, Pháp, Tây Ban Nha, Nhật Bản … để học học tập. Thiết nghĩ đó là cách tạo nên môi trường công nghệ du lịch rộng để chúng ta có nhiều sự chọn lựa và đưa ra được những giải pháp công nghệ du lịch tối ưu nhất.

 

Thứ ba, chú trọng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ quản lý, lao động du lịch trong việc” thích ứng” và ứng dụng công nghệ du lịch. Những năm gần đây, ngành du lịch Việt Nam thật sự khởi sắc, thu được nhiều thành tựu đáng tự hào. Để có những thành công đó chúng ta phải kể tới sự đóng góp không nhỏ của hai dự án VIE (chính phủ Lucxembourg), dự án EU (Cộng đồng châu Âu – 2005) về đào tạo nguồn nhân lực du lịch. Những người đã và đang làm du lịch, đội ngũ giáo viên, giáo viên, giảng viên và học sinh, sinh viên các Trường trung học, cao đẳng nghề du lịch có cơ hội được học hỏi và tiếp xúc với nhiều cái mới từ môi trường công nghệ dạy học tới công nghệ phục vụ trong khách sạn và kinh doanh lữ hành. Điều này giúp cho đội ngũ lao động du lịch Việt Nam “thích ứng linh hoạt” với công việc tại các khách sạn lớn, không còn bỡ ngỡ khi phục vụ khách. Tuy nhiên, đại bộ phận sinh viện các trường đại học với chuyên ngành như Quản trị Du lịch, Quản trị khách sạn – nhà hàng, Quản trị lữ hành, những nhà quản lý du lịch tương lai chưa có cơ hội tiếp thu các công nghệ trong du lịch. Có thể những sinh viên này rất giỏi về lí thuyết tổ chức quản lý, điều hành kinh doanh trong du lịch nhưng đề cập tới những vấn đề liên quan tới trang thiết bị của ngành lại bế tắc vì nguyên tắc muốn quản lý tốt trước tiên phải hiều và biết về đối tượng mình quản lí.

 

Xác định rõ nhu cầu, mục tiêu, hiểu rõ bản chất cũng như cách thức vận dụng công nghệ du lịch chính là một trong những chiến lược quan trọng nhằm phát triển ngành du lịch, giúp ngành du lịch Việt Nam hòa nhập nhanh chóng vào xu hướng phát triển nền kinh tế thế giới, nhất là thời điểm hậu gia nhập WTO. Nâng cao hiểu quả khai thác và sử dụng công nghệ trong du lịch, hơn lúc nào hết, là một nhu cầu và đòi hỏi chính đáng và cần thiết.

 

                                                                        Phạm Trọng Lê Nghĩa

                         Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2008
Bài 3: Các loại hình du lịch

 

Sau khi kết thúc chương này, học sinh có thể:

 

-       Liệt kê được các loại hình du lịch

-       Nhận thức được tầm quan trọng của từng loại hình du lịch

 

3.1      Căn cứ theo môi trường tài nguyên

3.1.1    Du lịch văn hóa

Du lịch văn hoá là hình thức du lịch dựa vào bản sắc văn hoá dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống. Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ. Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương - nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước  để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương. Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số  nước thuộc khu vực Nam Mỹ....

"Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam", một quan chức của Vụ Hợp tác quốc tế thuộc Tổng Cục Du lịch phát biểu. Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)... là những hoạt động của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt Nam. Lễ hội được tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp. Festival Huế 2004 là lần thứ ba VN có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của miền Trung, đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế - một di sản phi vật thể vừa được UNESCO cộng nhận; và Lễ tế đàn Nam Giao - một lễ hội vương triều thất truyền từ hàng chục năm nay. Ngoài ra, lễ hội dân gian này còn có sự tham gia của các nước Pháp, Trung Quốc...


 

Du lịch văn hóa: Xu thế mới của Việt Nam?

 

(VietNamNet) - Du lịch văn hóa là xu hướng của các nước đang phát triển vì đem lại giá trị lớn cho cộng đồng xã hội, và vì thế mà loại hình du lịch này trở thành nội dung chính của Hội nghị Bộ trưởng Du lịch Đông Á - Thái Bình Dương.

Trên 150 đại diện của các nước ở khu vực châu Á, bao gồm Bộ trưởng và lãnh đạo các cơ quan du lịch quốc gia, sẽ tham gia Hội nghị Bộ trưởng Du lịch Đông Á - Thái Bình Dương bắt đầu nhóm họp vào ngày 11/6 tại thành phố Huế, dưới sự chủ trì của Tổ chức Du lịch quốc tế và Tổng Cục Du lịch Việt Nam.

Hội nghị được tổ chức hai năm một lần. Với chủ đề "Du lịch văn hóa và giảm đói nghèo", hội nghị năm nay sẽ là cơ hội để các nước chia sẻ kinh nghiệm, thông tin về phát triển du lịch văn hóa và những ích lợi của hoạt động này đối với cộng đồng xã hội cũng như dân cư, nhất là giá trị của nó đối với việc xóa đói giảm nghèo ở những quốc gia đang phát triển.

Du lịch văn hóa: sự lựa chọn của các nước đang phát triển

Bên cạnh những loại hình du lịch như du lịch sinh thái, du lịch khám chữa bệnh, du lịch mạo hiểm, du lịch giáo dục... gần đây du lịch văn hóa được xem là loại sản phẩm đặc thù của các nước đang phát triển, thu hút nhiều khách du lịch quốc tế. Du lịch văn hóa chủ yếu dựa vào những sản phẩm văn hóa, những lễ hội truyền thống dân tộc, kể cả những phong tục tín ngưỡng... để tạo sức hút đối với khách du lịch bản địa và từ khắp nơi trên thế giới. Đối với khách du lịch có sở thích nghiên cứu, khám phá văn hóa và phong tục tập quán bản địa, thì du lịch văn hóa là cơ hội để thỏa mãn nhu cầu của họ.

Phần lớn hoạt động du lịch văn hóa gắn liền với địa phương - nơi lưu giữ nhiều lễ hội văn hóa và cũng là nơi tồn tại đói nghèo. Khách du lịch ở các nước phát triển thường lựa chọn những lễ hội của các nước  để tổ chức những chuyến du lịch nước ngoài. Bởi thế, thu hút khách du lịch tham gia du lịch văn hóa tức là tạo ra dòng chảy mới và cải thiện cuộc sống của người dân địa phương.

Ở những nước kém phát triển hoặc đang phát triển, nền tảng phát triển phần lớn không dựa vào những đầu tư lớn để tạo ra những điểm du lịch đắt tiền, mà thường dựa vào nguồn du lịch tự nhiên và sự đa dạng trong bản sắc dân tộc. Những nguồn lợi này không tạo ra giá trị lớn cho ngành du lịch, nhưng lại đóng góp đáng kể cho sự phát triển của cộng đồng xã hội. Những quốc gia phát triển mạnh du lịch văn hóa là Thái Lan, Indonesia, Malaysia, Trung Quốc, và một số  nước thuộc khu vực Nam Mỹ....

Việt Nam cũng sẽ theo xu hướng này?

"Du lịch văn hóa là xu hướng của nhiều nước. Loại hình du lịch này rất phù hợp với bối cảnh của Việt Nam, rất tốt cho hoạt động xóa đói giảm nghèo quốc gia, vì vậy phải được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt Nam", một quan chức của Vụ Hợp tác quốc tế thuộc Tổng Cục Du lịch phát biểu.

Ở Việt Nam, nhiều hoạt động du lịch văn hóa được tổ chức dựa trên những đặc điểm của vùng miền. Chương trình Lễ hội Đất Phương Nam (Lễ hội văn hóa dân gian vùng Đồng bằng Nam bộ), Du lịch Điện Biên (Lễ hội văn hóa Tây Bắc kết hợp với sự kiện chính trị: 50 năm chiến thắng Điện Biên Phủ), Con đường Di sản miền Trung (Lễ hội dân gian kết hợp tham quan những di sản văn hóa được UNESCO công nhận)... là những hoạt động của du lịch văn hóa, thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước.

Trong số đó, Festival Huế được xem là hoạt động du lịch văn hóa đặc sắc nhất Việt Nam. Lễ hội được tổ chức thường xuyên 2 năm một lần, với sự hỗ trợ của Chính phủ Pháp. Festival Huế 2004 là lần thứ ba VN có dịp giới thiệu với du khách về lễ hội dân gian của miền Trung, đặc biệt là Nhã nhạc cung đình Huế - một di sản phi vật thể vừa được UNESCO cộng nhận; và Lễ tế đàn Nam Giao - một lễ hội vương triều thất truyền từ hàng chục năm nay. Ngoài ra, lễ hội dân gian này còn có sự tham gia của các nước Pháp, Trung Quốc...

                                    Theo:  http://www.vnn.vn/kinhte/2004/06/158934/


 

3.1.2    Du lịch sinh thái

Du lịch sinh thái là hình thức du lịch dựa vào thiên nhiên, gắn với bản sắc văn hoá địa phương với sự tham gia của cộng đồng nhằm phát triển bền vững. Du lịch sinh thái (EcoTourism) Du lịch sinh thái là loại hình du lịch có trách nhiệm tại các điểm đi lại của các khu vực thiên nhiên, bảo tồn được môi trường và cải thiện phúc lợi cho người dân địa phương. Loại h́nh du lịch này tuy ra đời khá muộn nhưng nó đă nhanh chóng trở thành một loại h́nh du lịch có triển vọng và đang phát triển với tốc độ khá nhanh, đặc biệt là trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia. Với ý nghĩa đó, đề tài đă nghiên cứu tiềm năng và giải pháp phát triển du lịch sinh thái trong khu bảo tồn thiên nhiên nhằm gắn kết du lịch với bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng địa phương.

Du lịch sinh thái có nguồn gốc từ du lịch thiên nhiên và du lịch ngoài trời. Thực ra loại h́nh du lịch này đă có từ rất lâu nhưng ít được con người chú ý. Kể từ  khi loại hình du lịch máy bay ra đời, cùng với sự phát triển khá nhanh của ngành du lịch với mối quan tâm về vấn đề bảo vệ tài nguyên môi trường, nhất là sau hội nghị thượng đỉnh về môi trường tổ chức tại Stockholm (Thuỵ Điển) năm 1972 và tại Rio Dejanero (Brazil) năm 1992 th́ du lịch sinh thái mới thực sự phát triển và được xem như là một công cụ hữu hiệu để thoả măn sự khát khao của con người về với thiên nhiên, gắn kết bảo vệ tài nguyên môi trường với phát triển du lịch bền vững.

Du lịch sinh thái có những đóng góp rất lớn về mặt kinh tế - xă hội ở nhiều quốc gia. Chỉ tính riêng Kenya, năm 1994 du lịch sinh thái trở thành một ngành xuất khẩu lớn nhất nước đóng góp 35% thu nhập ngoại tệ và 11% tổng sản phẩm quốc gia. Ở Mỹ, các hệ thống vườn quốc gia, khu bảo tồn mỗi năm đón khoảng 270 triệu lượt khách đem về hàng chục tỷ đô la. Một số nước như Mêxicô, Úc, Malaixia, Eucoado, Kenya, Brazil, Ethiophia... du lịch sinh thái cũng đă đóng vai tṛ quan trọng trong việc thu đổi ngoại tệ.

Mặc dù chưa có con số thống kê cụ thể nhưng theo nghiên cứu sơ bộ của Fillion (1992), du lịch sinh thái đă đóng góp 223 tỷ đô la trong thu nhập của nhiều quốc gia.

Ngoài những lợi ích về mặt kinh tế, du lịch sinh thái đă mang lại nhiều lợi ích trong lĩnh vực bảo tồn và phát triển kinh tế cộng đồng. Ở Coastarica, Vênêxuêla... một số chủ trang trại chăn nuôi đă bảo vệ nhiều diện tích rừng nhiệt đới quan trọng và biến những nơi này thành điểm du lịch sinh thái tự nhiên, tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương. Ecuado sử dụng khoản thu nhập từ du lịch sinh thái tại đảo Galapago để duy tŕ mạng lưới vườn quốc gia.... nhờ du lịch sinh thái mà người dân trong vùng đệm ở các khu bảo tồn, vườn quốc gia phát triển các ngành nghề thủ công, tham gia hoạt động du lịch để đảm bảo thu nhập, hạn chế sự tác động vào rừng.

Ở Việt Nam, ngành du lịch phát triển tương đối muộn. Hoạt động du lịch chỉ thực sự diễn ra sôi nổi từ sau năm 1990 gắn liền với chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu thống kê từ năm 1990 đến 2002 lượng khách quốc tế tăng10,5 lần (từ 250.000 đến 2.620.000) khách nội địa tăng 13 lần (từ 1000.000 tăng lên 13.000.000). Thu nhập xă hội cũng tăng đáng kể, năm 1991 là 2.240 tỷ đồng đến năm 2002 là 23.000 tỷ đồng, trong đó hoạt động du lịch sinh thái trong các khu bảo tồn và vườn quốc gia và du lịch biển đóng góp một tỷ trọng lớn. Các số liệu thống kê ở một số vườn quốc gia như Cúc Phương, Cát Bà, Côn Đảo, Bạch Mă ... các khu bảo tồn thiên nhiên như Phong Nha- Kẻ bàng, Hồ kẻ gỗ... bình quân mỗi năm tăng 50% khách nội địa và 30 % khách quốc tế. Trong giai đoạn từ 1995 – 1998 du lịch sinh thái đạt tăng trưởng 16,5%.

Du lịch sinh thái ở Việt nam cũng đă có những đóng góp lớn cho sự phát triển cộng đồng, bảo vệ tài nguyên môi trường. Nhờ phát triển du lịch sinh thái mà đồng bào một số dân tộc, cư dân sinh sống trong vùng đệm các vườn quốc gia, khu bảo tồn có được việc làm, nâng cao mức sống, các lễ hội, tập tục, ngành nghề thủ công được bảo tồn và phát triển.


 

Việt Nam có hai khu du lịch sinh thái bền vững nhất thế giới


Suối khoáng nước nóng Bình Châu (Bà Rịa-Vũng Tàu) cùng rừng ngập mặn Vàm Sát (Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh) vừa được Tổ chức du lịch thế giới (WTO) công nhận là hai trong số 65 khu du lịch sinh thái bền vững nhất thế giới.


Các khu du lịch này được lựa chọn từ 146 quốc gia. Tại Đông Nam á, ngoài Việt Nam, những quốc gia có khu du lịch sinh thái được chọn là Malaysia, IndonesiaPhilippines. Việt Nam nằm trong danh sách 17 nước có 2 khu du lịch sinh thái được bình chọn.


Khu du lịch suối khoáng nước nóng Bình Châu


Khu du lịch suối khoáng nước nóng Bình Châu thuộc huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, nằm giữa một vùng rừng nguyên sinh rộng hơn 7.000 ha. Năm 1928, Bác sĩ người Pháp tên là Salle trong chuyến khảo sát vùng Đông Nam Bộ đã phát hiện ra khu suối khoáng này với 70 điểm phun nước lộ thiên hình thành hệ thống suối, các hồ lớn nhỏ luôn toả nhiệt độ bốc hơn từ 37 độ đến 82 độ theo từng khu vực. Kết luận của các nhà khoa học sau nhiều lần phân tích mẫu nước ở đây cho thấy, những mạch nước nóng ở Bình Châu có giá trị điều dưỡng, chữa trị một số bệnh về hệ thần kinh, mạch máu, ngoài da, nhiễm độc và một số bệnh khác. Hàng loạt các khu vực dành cho nghỉ dưỡng chữa bệnh bằng suối khoáng nước nóng đã hình thành như khu hồ ngâm suối Mơ, khu tắm bồn khoáng, khu điều dưỡng. Tất cả đều nằm ẩn mình, yên tĩnh trong rừng cây. Ngoài ra còn có những cụm công trình khép kín trong dịch vụ giải trí thể thao cuối tuần như sân tập golf, bóng chuyền, hồ bơi và cả khu vườn Trăng với sân khấu 1.000 chỗ ngồi.

Đến với Bình Châu, du khách có thể thả bộ trên những cây cầu gỗ để thăm khu vực đầu nguồn suối mang tên Giếng trời, vào tắm tại những bồn tắm nước khoáng nóng có dung tích từ 3m3 đến 10m3 hoặc men theo những con đường mòn nhỏ, đi vào khu rừng nguyên sinh với 6 hệ sinh thái thuộc rừng bán nhiệt đới khô; đi thăm sông Hoả, suối Bang, bàu Nhám, hồ Linh; thăm những hệ động thực vật phong phú trong khu bảo tồn thiên nhiên hoang sơ; thăm Biển Hồ Cóc-nơi chúa Cóc mải ngồi nguyện cầu mưa mà hoá đá. Những người lãng mạn có thể ngủ trong những nhà gỗ, tre, nứa và tham gia những chuyến săn đêm trong khu vực thú rừng được thả nuôi.

 

Rừng ngập mặn Vàm Sát thuộc khu sinh thái Cần Giờ

 

Rừng ngập mặn Vàm Sát thuộc khu sinh thái Cần Giờ, Thành phố Hồ Chí Minh với diện tích rộng khoảng 1.800ha. Nơi đây có một hệ thống động thực vật phong phú và đa dạng, gồm các loài cây đặc trưng của vùng nước ngập mặn như đước, dừa nước, tràm, bần, sú, vẹt; 63 loài vi sinh vật, 140 loài động vật đáy như tôm, cua, sò ốc, 45 loài cá, 8 loài bò sát, 37 loài chim và một số loài thú như khỉ, hươu, nai, chồn. Nơi đây còn có một số loài vật quý hiếm được ghi trong Sách đỏ như cá sấu hoa cà, bồ nông chân xám, rái cá lông mượt. Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, rừng ngập mặn Vàm Sát còn là chiến trường trên sông nước nổi tiếng, với những chiến công vang dội của lực lượng đặc công thủy đã gây cho địch nhiều tổn thất nặng nề.


Công ty du lịch sinh thái Cần Giờ đã hình thành một số loại hình dịch vụ để phục vụ khách tham quan như đi thuyền, lướt ván len lỏi giữa các kênh rạch, ngắm nhìn vẻ đẹp đặc trưng của rừng ngập mặn; tham quan các căn cứ rừng Sác; cắm trại và sinh hoạt dã ngoại trong rừng. Đặc biệt, du khách đến đây được thăm Đảo Khỉ, với hàng trăm con sống tự nhiên trong rừng nhưng rất gần gũi với con người. Thả bộ vào rừng trên những con đường đã trải sỏi đỏ, qua những chiếc cầu gỗ bắc dọc ngang qua lạch nước, nghỉ chân ở những căn nhà chòi, du khách sẽ bắt gặp những đàn khỉ đuôi dài hàng chục con leo trèo trên cây. Chúng rất tự nhiên và sẵn sàng giành lấy những trái chuối hay mẩu khoai lang từ tay du khách.


 

3.2      Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ

3.2.1    Du lịch quốc tế

Được hiểu là chuyến đi từ nước này sang nước khác. Ở loại hình du lịch này, khách du lịch phải đi qua biên giới và tiêu ngoại tệ ở nơi đến du lịch. Du lịch quốc tế chia làm hai loại:

Du lịch quốc tế chủ động (Inbound Tourism): Nước chủ nhà chủ động đón khách từ các nước tới tham quan và làm tăng thu nhập ngoại tệ.

Du lịch quốc tế bị động (Outbound Tourism): Là nước này gửi khách đi du lịch sang nước khác và phải mất một khoản ngoại tệ.

Sự phát triển loại hình du lịch này là cơ sở cho các mối quan hệ hợp tác cùng có lợi về các mặt kinh tế, văn hoá xã hội gữa các quốc gia. Tuỳ theo điều kiện củ thể của từng giai đoạn, mỗi nước phải tự xem xét nên phát triển du lịch quốc tế chủ động hay du lịch quốc tế bị động.

3.2.2    Du lịch nội địa

Chuyến đi của người du lịch từ chỗ vùng này sang chỗ khác nhưng trong phạm vi đất nước mình chi phí bằng tiền nước mình. Điểm xuất phát và điểm đến nằm trong lãnh thổ nước mình. Loại hình du lịch này phát triển ở các nước đang phát triển và kém phát triển. Nguyên chủ yếu là do điều kiện kinh tế của người dân.

3.3      Căn cứ theo vị trí địa lí

Một đặc điểm quan trọng của du lịch hiện đai và có ý nghĩa lớn đối với phân bố là tính chất giải trí đối lập nhau tức là người du lịch thường tìm tới môi trường đố lập với nơi họ thường sinh sống. Thí dụ, những người dân sống ở các thành phố thì thích các hình thức nghỉ ngơi, du lịch gắn với thiên nhiên, với vùng quê yên tĩnh; ngược lai, những người sống ở nông thôn thường bị hấp dẫn tại các thành phố lớn... Đặc điểm này là một nhân tố quan trọng quyết định các loại hình xét theo vị trí địa lí sau:

3.3.1    Du lịch nông thôn

Loại hình này mới phát triển trong những năm gần đây.   Khách du lịch chủ yếu là những người sống ở thành phố chủ yếu là tìm tới chốn yên tĩnh để nghỉ ngơi hoặc tìm về kí ức của tuổi thơ, thưởng thức hương vị của đồng quê với những món ẩm thực ngon lạ. Ở Việt Nam, nếu phát triển được loại hình du lịch này có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao mức sống của người dân.

Từ Hội An (Quảng Nam), du khách có thể đến Trà Quế bằng xe đạp, bằng du thuyền… và làng rau Trà Quế với những loại rau thơm độc đáo được canh tác theo cộng nghệ trồng rau sạch đã thật sự cuốn hút du khách. Đến đây, du khách được hướng dẫn cách trồng rau, cách bón phân, cách tưới nước, đến cách chế biến và thưởng thức các món rau và những món ăn thuần tuý của địa phương như mỳ Quảng, cao lầu, cá hấp rau… Đồng thời du khách được sống trong bầu không khí trong lành, thật sự thư giãn khi cảm nhận nét thanh bình của làng quê Việt Nam.

Nông nghiệp cũng tìm được chỗ đứng trong du lịch nông thôn vì nó có nhiều cái có thể đóng góp: tính xác thực, các sản phẩm chất lượng cao, không gian rộng, di sản… Nó tham gia vào việc đa dạng hóa du lịch. Nhưng các hoạt động đón tiếp đòi hỏi một mức chuyên nghiệp cao.

Tính đa chức năng của nông nghiệp ngày nay được công nhận rộng rãi: như vậy, có nghĩa là ngoài việc sản xuất nông nghiệp còn có các nhiệm vụ khác: lãnh thổ, môi trường, xã hội… Và trong trường hợp này việc đón tiếp ở nông trại dưới mọi hình thức, du lịch nông nghiệp minh họa tính đa chức năng ấy: một nền nông nghiệp mở cửa cho các thành phần xã hội khác thường khao khát không gian và phát minh, đồng thời hoạt động bảo tồn di sản và tham gia vào sinh hoạt kinh tế xã hội của nông thôn.

Thông qua hoạt động sản xuất nông dân đóng góp vào tính thu hút của môi trường nông thôn: cảnh quan được gìn giữ. Đối với các người hoạt động đón tiếp ở nông trại, họ đã tham gia vào sự đa dạng hóa cung cấp du lịch. Những địa phương có tham vọng phát triển du lịch phải cung cấp được nhiều kiểu ăn ở và hoạt động đa dạng có thể thu hút các kiểu khách hàng khác nhau: việc “độc canh” du lịch không thể là giải pháp cho các địa phương. Phải có các làng - nghỉ ngơi, các nhà ở nông thôn, các hiệu ăn, các nông trại-quán ăn, các khách sạn, các nơi cắm trại… Các khung cảnh khác nhau của các địa phương tăng thêm tính đa dạng của du lịch nông thôn.

Ở Pháp có nhiều mạng lưới du lịch nông thôn như Mạng lưới “Nhà ở nước Pháp” (Gites de France), Mạng lưới “Đón tiếp nông dân” (Acceuil paysan), “Chào đón ở nông trại” (Bienvenue à la ferme)…

Các mạng lưới du lịch “Nhà ở nước Pháp”, “Đón tiếp nông dân”, “Chào đón ở nông trại”… là mạng lưới khắp nước Pháp của các nhà nông dân được sửa chữa lại để đón khách du lịch. Đây không phải là các nhà mới xây dựng với tiện nghi hiện đại mà là các nhà cổ truyền có ngăn các phòng cho khách ở với các tiện nghi vệ sinh tối thiểu. Các nhà phải giữ được phong cách địa phương.

Nông dân nào muốn tham gia vào mạng lưới du lịch nông thôn phải sửa chữa nhà cửa của mình cho hợp với tiêu chuẩn của hệ thống du lịch. Các mạng lưới này mở lớp huấn luyện về dịch vụ du lịch, kiểm tra và xếp hạng các nhà nông dân theo tiêu chuẩn du lịch từ 1 đến 5 sao và quy định giá thuê. Các mạng lưới này phát hành các sách hướng dẫn du lịch để thông tin cho khách hàng.

Có nhiều loại cơ sở khác nhau. Khách hàng đến ở nhà nông dân, cùng sinh hoạt và làm việc với họ, tham gia các hoạt động văn hóa và đi thăm các thắng cảnh trong vùng. Có các loại hình sau đây:

- Nhà khách: tiếp khách như “bạn” của gia đình, có phòng ngủ, bàn ăn với món ăn cổ truyền.

- Nhà đón tiếp trẻ em: đón từng nhóm khoảng 10 trẻ em thành thị muốn sống ở nông thôn vài ngày để biết thế nào là nông thôn. Trẻ em được vui chơi, ăn ngủ với trẻ em nông thôn và có người phụ trách.

- Trại hè: là một miếng đất gần một di tích văn hóa, lịch sử được tổ chức để có thể căng lều trại, nhà vệ sinh, bếp ăn ngoài trời có thể tiếp các nhóm khoảng 20 thanh thiếu niên về ở và du lịch quanh vùng.

- Trạm dừng chân: là nhà nghỉ chân trên các lộ trình du lịch đi bộ, xe đạp, xe máy gần các di tích lịch sử để các đoàn du lịch có thể nghỉ chân, ăn uống.

- Nhà nghỉ: có thể đón tiếp các gia đình về nghỉ ở nông thôn trong vài ngày.

- Nhà sàn vui chơi: tổ chức các nhóm 3 đến 25 nhà sàn có thể tiếp 6 người ăn, ngủ. Xung quanh có các nơi vui chơi như đi câu, đi săn, đi xe đạp, dạo chơi... ở các di tích lịch sử, văn hóa hay có phong cảnh đẹp.

Các vùng ở Pháp có các chương trình hỗ trợ phát triển du lịch nông thôn. Các hộ nông dân muốn tổ chức các nhà khách trình các kế hoạch. Nếu kế hoạch được duyệt sẽ được ký hợp đồng và trợ cấp 30-40% chi phí để sửa chữa và trang bị nhà khách.


Du lịch làng nghề ở nông thôn

Hiện nay, nước ta có gần 2.000 làng nghề thủ công thuộc 11 nhóm nghề chính như: sơn mài, gốm sứ, thêu ren, mây tre đan, cói, dệt, giấy, tranh dân gian, gỗ, đá... Đi dọc chiều dài đất nước hình chữ S, du khách có thể thấy nhiều vùng quê mà mật độ làng nghề truyền thống dầy đặc từ Bắc vào Nam. Du khảo hết các làng nghề truyền thống, du khách có thể thấy rõ bản sắc cũng như đặc trưng bộ mặt nông thôn Việt Nam. Những cái nôi của làng nghề là Hà Nội, Hà Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Thái Bình, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai, Bến Tre... Vùng Đồng bằng Bắc Bộ có mật độ làng nghề truyền thống khá cao, chiếm 2/3 tổng số làng nghề cả nước với những mảnh đất nổi danh như: Lụa Vạn Phúc, đồ gỗ Đồng Kỵ, đồ đồng Đại Bái, tranh Đông Hồ, gốm Bát Tràng, cốm Vòng, đặc sản rắn Lệ Mật... Vào miền Trung có điêu khắc Mỹ Xuyên, tranh làng Sình, nón Phú Cam, đá Non Nước, gốm Thanh Hà... ở các tỉnh phía Nam, ven các con sông và ngoại vi thành phố cũng hình thành những làng nghề, khu dân cư với các nghề thủ công lâu đời như đá Bửu Long, gốm Tân Vạn, sơn mài Tương Bình Hiệp. Các tỉnh đồng bằng Nam Bộ có các làng nghề nhân giống, chiết cành, tạo dáng Bonsai nổi tiếng ở Sài Gòn, Bến Tre, An Giang... Điều đó nói nên tiềm năng đa dạng, to lớn để phát triển du lịch làng nghề ở nước ta.

Điểm chung của các làng nghề là thường nằm ở trung tâm hoặc gần các đô thị lớn, các trục giao thông đường bộ, đường sông, do đó rất thuận tiện cho việc xây dựng các tour, tuyến du lịch làng nghề. Hiện nay, các tỉnh thành như Hà Tây, Hòa Bình, Bắc Ninh, Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng... đang triển khai mạnh mẽ loại hình du lịch này. Tuy nhiên, nhìn chung hiệu quả còn chưa cao. Một số làng nghề như gốm Bát Tràng, Lụa Vạn Phúc, mộc Đồng Kỵ, tranh Đông Hồ, đá Non Nước... đã thu hút khá nhiều du khách, nhưng vẫn chỉ ở mức độ tự phát. Nguyên nhân trước hết là thiếu sự phối hợp giữa các ngành liên quan trong xây dựng, quy hoạch du lịch làng nghề. Sự biến động của thị trường, khó khăn trong cạnh tranh, tiêu thụ hàng hóa khiến nhiều làng nghề chỉ còn hoạt động cầm chừng, không tạo được môi trường du lịch có sức hút mạnh. Bên cạnh đó, các yếu tố về cơ sở hạ tầng, vệ sinh môi trường cảnh quan cũng cần được chú trọng. Thực tế hiện nay, du khách muốn đến tận làng nghề để tham quan, tìm hiểu về các vị tổ nghề hoặc danh nhân văn hóa. Và hơn thế, nhiều người muốn tận tay tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm ấy, thậm chí đó là một sản phẩm theo ý tưởng, mẫu thiết kế riêng của du khách. Đáp ứng được những nhu cầu đó, các làng nghề nước ta sẽ là điểm dừng chân thú vị và độc đáo của du khách trong nước lẫn quốc tế, bởi đó là sẽ là kỷ niệm thú vị với họ, tránh sự nhàm chán, đơn điệu cho du khách. Trong khai thác du lịch làng nghề, các đơn vị đưa khách đến cần thực hiện phân chia lợi nhuận thu được qua các hình thức đóng góp xây dựng đối với cộng đồng làng nghề và trả lương cho những nghệ nhân, thợ thủ công ở các cơ sở để họ yên tâm với nghề. Đồng thời, nên bố trí một hệ thống dịch vụ, bán sản phẩm, đồ lưu niệm cho du khách, giúp tăng thu nhập cho nhân dân trong vùng.

Du lịch làng nghề sẽ thực sự hấp dẫn, có hiệu quả khi ngành du lịch các địa phương quan tâm thực hiện những dự án đầu tư đúng mức, thiết thực, mang tính lâu dài. Bên cạnh đó là công tác quảng bá, thu hút khách và giúp các làng nghề tiêu thụ sản phẩm, duy trì sản xuất.


 

3.3.2    Du lịch thành thị

Khách du lịch muốn tham quan những thành quả của sự phát triển kinh tế, xã hội với những toà nhà cao tầng, những nhà máy, công viên, các công trình kiến trúc đồ so và đi mua sắm. Đối tượng khách chủ yếu là những người sống ở nông thôn, những người sống ở thành phố cấp II, III, cá thị xã (đối với du lịch nội địa), khách du lịch ở các nước kém phát triển và đang phát triển (đối với du lịch quốc tế).

3.3.3    Du lịch biển

Một nhà thơ đã nói ví von rằng: “Thế giới ¾ nước mắt” (đại dương). Bên cạnh tạo điều kiện để phát triển thuy hải sản, giao thông đường thủy, biển còn có ý nghĩa rất lớn về du lịch. Hiện nay, du lịch biển đón một lượng khách lớn trên phạm vi thế giới. Du lịch biển với hai chức năng chính là chữa bệnh và thể thao... cho nên chúng ta có thể gọi đây là loai hình này là loại hình du lịch tổng hợp (du lịch nhỉ dưỡng và du lịch thể thao). Người ta cho rằng một bãi biển đep, thu hút khách du lịch phải hội tụ các yếu tố: Sun (ánh nắng) – Sea (biển) – Sand (cát) . Các bờ biển đẹp, nước trong xanh, cát trắng mịn, luôn chan hoà ánh nắng là điều kiện hấp dẫn khách du lịch. Nhìn chung các nước vùng nhiệt đới là các nước phát triển mạnh về du lịch biển.


Lời khuyên khi đi biển

Ngày hè nắng nóng, bạn muốn tận hưởng không gian của biển với những ngày nghỉ thoải mái bên những con sóng xanh bất tận. Trước khi đi, bạn nhớ mang theo những vật dụng cần thiết có ích cho bạn trong những ngày nghỉ ở biển.

Những vật dùng cần thiết

Kem chống nắng: Các bạn gái nên mang theo để bảo vệ làn da. Sản phẩm chống nắng có chỉ số SPF từ 30 trở lên mới bảo vệ được da khi bạn phơi mình trên cát.

Mũ rộng vành, kính mát: Hai thứ không thể thiếu nếu bạn muốn giữ mái tóc đen mượt và bảo vệ đôi mắt khỏi bị chói khi ra biển.

Kính bơi: Nếu bạn cho trẻ nhỏ đi cùng, hãy sắm thêm vật này để trẻ không sợ nước vào mắt. Đôi khi cả bạn cũng cần đến nó.

Thuốc nhỏ mắt, bông ngoáy tai: Cả ngày ngụp lặn ngoài biển, chắc chắn nước sẽ làm bạn bị ngứa và ướt tai. Hãy để chúng giúp bạn làm sạch sẽ như ban đầu.

Xăng đan: Bạn không nên đi giày da, giày thể thao ra biển. Nên sắm xăng đan cho gọn nhẹ và để đôi chân được thoáng mát.

Đồ bơi, khăn tắm, phim ảnh, các loại nước hoa quả đóng hộp: Bạn nên mang theo từ nhà, những thứ này sẽ giúp bạn chủ động có đồ uống hợp khẩu vị và tiết kiệm một khoản tiền không nhỏ.

Những việc cần lưu ý khi tới biển

- Luôn phải đi cùng với 1 – 2 người khác, càng đông càng an toàn và có thể hỗ trợ nhau khi có sự cố; Không xuống tắm nếu nhiệt độ dưới 18oC; Xuống nước từ từ, không nên lao mình xuống ngay để tránh thay đổi nhiệt độ cơ thể đột ngột dẫn đến cảm lạnh.

- Không bơi quá xa bờ 15m hoặc ở khu vực sâu quá 5m. Cách dễ dàng nhất là luôn để ý đến cờ báo giới hạn bơi mà hầu hết các vùng biển đều có.

- Không nên phơi nắng quá lâu trước khi xuống nước. Đừng để bụng quá đói hoặc quá no. Không nín thở quá lâu khi lặn.

- Đừng mang theo đồng hồ, đồ trang sức nhất là dây chuyền, đề phòng sóng làm tuột mất.

Phải lên bờ ngay nếu có các triệu chứng sau

Cơ thể ngứa ngáy, cảm thấy lạnh; Thấy mệt mỏi khác thường, nhức trán hoặc sau gáy; Bị chuột rút, rối loạn thị giác; Có dấu hiệu bị chướng bụng, đau khuỷu tay và đầu gối.

Ngọc Khánh (Theo Vedeptieman) - Nguồn: http://www.samson.vn


 

3.3.4    Du lịch miền núi

Hiện nay du lịch biển đang thu hút lượng khách tham quan nhiều nhất nhưng trong tương lai thì du lịch nghỉ núi sẽ chiếm ưu thế. Du lịch nghỉ núi thường gắn với hoạt động thể thao, chữa bệnh, hoà mình vào thiên nhiên để thư giãn, lấy lại sự thăng bằng về tâm lí.

Các điểm nghỉ mát Tam Đảo, Sa Pa, Đà Lạt, Ba Vì… là những điểm nghỉ dưỡng núi đã xuất hiện khá lâu ở nước ta. Ngoài loại hình này, do tính độc đáo và tương phản cao, miền núi còn rất thích hợp cho việc xây dựng và phát triển các loại hình du lịch tham quan, cắm trại, mạo hiểm…

3.4      Căn cứ theo hình thức tổ chức

3.4.1    Du lịch cá nhân

Khách tự chọn cho mình một chương trình tham quan nghỉ ngơi trong số rất nhiều chương trình du lịch do nhà tổ chức kinh doanh ấn định hoăc tự vạch ra chuyến hành trình, kế hoạch lưu trú, địa điểm ăn uống tuỳ nghi. Loại hình này phát triển nhanh chóng và chiếm ưu thế trong những năm gần đây. Ưu điểm của du lịch đi lẻ là không bị lệ thuộc về thời gian, có thể kết hợp làm các việc khác, nói tóm lại là tự do. Nhươc điểm là khách hầu như là phải tự lo tất cả các việc, vào mùa du lịch cao điểm, thường khó khăn trong việc đặt phòng, thuê xe du lịch.

3.4.2    Du lịch theo đoàn

Loại hình này thường gắn với việc kinh doanh ỏ các công ty lữ hành. Khách được tổ chức đi tập thể theo một chương trình định sẵn, cùng phương tiện vẩn chuyển, cùng một HDV và thường trả theo giá trọn gói. Đối tượng khách chủ yếu là cá các nhân làm việc trong cùng một cơ quan, hoặc có mối quan hệ bạn bè. Du lịch theo đoàn phổ biến ở cá nước xã hội chủ nghĩa. Ưu điểm của du lịch theo đoàn là khách an tâm trong việc tham quan, mọi việc đá có HDV và công ty lữ hành lo. Nhược điểm là bị lệ thuộc vào thời gian chuyến đi, phụ thuộc vào chương trình của đoàn.

3.5      Căn cứ theo phương thức hợp đồng

3.5.1    Du lịch trọn gói

Khách du lịch thường kí hợp đồng trọn gói với các công ty lữ hành khi muốn tham gia vào một tuyết du lịch với một số tiền nhất định. Thường các các dịch vụ trọng gói mà công ty lữ hành liên kết với các đơn vị kinh doanh khác nhau cung cấp cho khách đó là:

-          Dịch vụ lưu trú

-          Dịch vụ vận chuyển

-          Dịch vụ ăn uống

-          Dịch vụ hướng dẫn

-          Dịch vụ bảo hiểm

-          Vé tham quan

Như vậy khách sẽ được công ty lữ hành lo cho hất các quy trình và nhiệm vụ chính là thưởng thức, cảm nhận các dịch vụ.

3.5.2    Du lịch từng phần

Du khách chọn một hay vài dịch vụ của các công ty du lịch, có thể là dịch vụ lưu trú, có thể là dịch vụ ăn uống, có thể là vận chuyển .v.v. Còn lại khách tự tổ chức và liên hệ các dịch vụ khác nhau hay tựi mình có.

3.6      Căn cứ theo phương tiện vận chuyển

3.6.1    Du lịch đường bộ

 Du lịch xe đạp: Vừa kết hợp tham quan và thể thao, và tất nhiên tiết kiệm một số tiền về phương tiện đi lại để phục vụ vào mục đích khác. Bên cạnh đó du khách có thể xâm nhập dể dàng với cuộc sống dân bản xứ và đi tới những nơi đường sá chưa phát triển. Loại hình nay chủ yếu xuất hiện và được ưa chuộng ở châu Âu, đặc biệt ở các nước có địa hình bằng phẳng như Hà Lan, Đan Mạch. Đối với khách nước ngoài tại Việt Nam, còn đối với người Việt Nam thì rất hiếm, chỉ có một số cơ sở làm dịch vụ cho khách là người nước ngoài thuê xe đạp, xe gắn máy đi du lịch (phố Phạm Ngũ Lão – Tp.Hồ Chí Minh).

Du lịch xe ôtô: Loại hình du lịch này gắn liền với kĩ nghệ sản xuất xe hơi. Người ta dự tính rằng trung bình trên thế giới sản xuất 25 triệu xe hơi trong một năm. Ở những nước công nghiệp phát triển hầu như gia đình nào cũng có xe con. Ở Tây Ban Nha, Thuỷ Sĩ, Tây Đức du lịch ôtô chiếm trên 90%. Sử dụng ôtô có thể đi được nhiều nơi, thích hợp với nhiều dạng địa hình. Các gia đình thường dùng ôtô nghỉ ngơi cuối tuần. Đặc biệt sự phát triển du lịch nội địa gắn liền với loại hình du lịch ô tô du lịch ôtô.

Tuy nhiên, một số khách thường bị dị ứng khi đi du lịch bằng ôtô. Điều này thường dẫn tới tâm lý ngần ngại của du khách, ảnh hưởng đến quyết định chọn sản phẩm du lịch của họ.

3.6.2    Du lịch đường không

Là một trong những loại hình tiên tiến nhất, đáp ứng nhu cầu của khách, có thể tới tham quan, nghỉ dưỡng tại những nước, những vùng xa xôi nhất, tranh thủ sử dụng những ngày nghỉ cuối tuần trong thời gian di chuyển ngắn nhất. Trang thiết bị, tiên nghi và phục vụ chu đáo của ngành hàng không ở nhiều nước làm cho khách du lịch rất ưa chuộng. Nhược điểm là giá thành vận chuyển cao, không phù hợp với tầng lớp có nhu cầu thấp.

Các phương tiện chính trong loại hình du lịch bằng đường không mà chúng ta thường gặp là: máy bay dân dụng, máy bay lên thẳng, kinh khí cầu, cáp treo, các tàu vũ trụ.

3.6.3    Du lịch đường thủy

Từ xa xưa vua chúa đã đi du ngoạn bằng thuyền trên sông, ho, biển. Ngày nay, nhiều hãng tàu có các loại tàu với chất lượng tương đương khách sạn 5 sao với nhiều loại dịch vụ phong phú như thể thao, bơi, matxa.v.v… có thể đáp ứng nhu cầu cao của du khách. Đối tượng khách là những người có thu nhập cao. Loại hình du lịch này là trọn gói, đặc biệt thích hợp với những chuyên du lịch dài ngày, ghé thăm nhiều nơi, nhiều quốc gia.

3.7      Căn cứ vào mục đích chuyến đi

3.7.1    Theo mục đích chung

Du lịch tham quan: Tham quan là hành vi quan trọng của con người với mục đích chính là nâng cao hiểu biết cho cá nhân, loại hình du lịch này thoả mãn lòng ham hiểu biết và ham thích nâng cao văn hoá thông qua các chuyến đi du lịch đến những nơi lạ để tìm hiểu các di sản văn hoá, di tích lịch sử, các công trình kiến trúc nghệ thuật, các lễ hội độc đáo, các làng nghề thủ công truyền thống, các bản làng của ngưòi dân tộc thiểu số, phong tục tập quán và tìm hiểu những thành quả kinh tế, chế độ xã hội, chất lượng cuộc sống của mỗi địa phương mỗi quốc gia và có thể là một phong cảnh thiên nhiên kỳ thú…. Loại hình du lịch tham quan có tác dụng nhận thức là rất lớn, tác dụng giải trí không hiện hình hoặc có ý nghĩa thứ yếu. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình này trong thời gian rất ngắn, thường kéo dài một giờ, hoặc một vài phút. Đối tượng của loại hình du lịch này thường là những người có văn hoá cao như nhà giáo, nhà khoa học, nhà sử học, nhà báo…. Ưu thế của loại hình du lịch này là đại bộ phận không chịu ảnh hưởng của tính mùa vụ. Điều này nó giúp cho sự cân bằng trong việc phát triển du lịch.

Du lịch giải trí: Mục đích chuyến đi là thư giãn, xả hơi, bứt ra khỏi công việc thường nhật căng thẳng để phục hồi sức khỏe (vật chất cũng như tinh thần). Trong chuyến đi, nhu cầu giải trí là nhu cầu không thể thiếu được của du khách. Do vậy, ngoài thời gian tham quan, nghỉ ngơi, cần thiết có các chương trình vui chơi, giải trí trong chuyến đi cho du khách trong chuyến đi. Với sự phát triển của xã hội, mức sống gia tăng, số người đi du lịch chỉ nhằm mục đích giải trí, tiêu khiển bằng các trò chơi cũng gia tăng đáng kể. Để đáp ứng xu thế này cần quan tâm mở rộng các loại hình và các cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ vui chơi giải trí như các khu du lịch, làng du lịch, công viên, khu vui chơi giải trí, sòng bạc… Ở Việt Nam, tuy các khu vui chơi giải trí còn chưa hiện đại do hoàn cảnh kinh tế chưa cho phép song cũng đã thu hút được khá đông khách trong và ngoài nước, nhất là trong các dịp lễ tết. Ví dụ rõ về mặt này là khu du lịch Đầm Sen, Suối Tiên ở Thành Phố Hồ Chí Minh. Muốn phát triển loại hình du lịch này cần quan tâm đến các dự án cùng với việc đầu tư, quy hoạch du lịch, đào tạo các bộ nhân viên.

Du lịch nghỉ dưỡng: Du khách tìm đến các bãi biển, vùng suối nước khoáng, nước nóng có giá trị y học cao để chữa bệnh. Bên cạnh đó do đời sống công nghiệp, sự làm việc căng thẳng nên tranh thủ những ngày nghỉ tìm đến với thiên nhiên, hoà mình vào thiên nhiên để thay đổi môi trường sống hàng ngày, tránh tình trạng stress. Vì vậy, không gian du lịch phải thoáng mát, yên tĩnh. Và điều quan trọng là phải có đội ngũ phục vụ chuyên nghiệp. Thời gian lưu lại của khách đối với loại hình du lịch này là rất lớn. Đối tượng khách chủ yếu của loại hình du lịch này công nhân lao động, người già. Ngày nay ở Việt Nam, các bộ ngành đang có xu hướng xây dựng các nhà nghỉ tại các bờ biển đẹp vừa kinh doanh, vừa tạo điều kiện cho cán bộ công nhân đi nghỉ vào dịp hè. Do chịu ảnh hưởng của điều kiên thời tiết, khí hậu nên hiệu suất sử dụng không cao hay nói cách khác loại hình này chịu ảnh hượng của tính mùa vụ.

3.7.2    Theo mục đích riêng

Du lịch thể thao: Nhu cầu, sở thích của khách gắn với các môn thể thao. Loại hình này có hai loại khách chính đó là vận động viên trực tiếp tham gia thi tài ở các kì Thế Vận hội, Worldcup hoặc đến các vùng có tiềm năng thể thao như leo núi, trượt tuyết, săn bắn, bơi lội… (chủ động) và các cổ động viên xem các cuộc thi đấu và cổ vũ (bị động). Loại hình du lịch thể thao là một trong những loại hình đem lại nguôn thu rất lớn cho địa phương vì nó thu hut một lượng lớn khách du lịch. Không phải ngẫu nhiên mà các quốc gia trên thế giới ngày càng ra sức chạy đua để được đăng cai một kì Thế vận hội, Worldcup bên cạnh việc thu lợi nhuận là quảng bá hình hình ảnh đất nước nhằm mục đích phát triển du lịch.

 Chúng ta thấy rằng, đối với các tổ chức kinh doanh lữ hành của quốc gia hay địa phương đăng cai tổ chức thể thao hoàn toàn có thể chủ động đón những đối tượng tham gia vào cuộc thi (khách du lịch thể thao chủ động). Nhưng họ lại hoàn toàn không thể đoán trước mà chỉ dự báo được số du khách tới xem (khách du lịch thể thao bị động). Vì vậy trong phạm vi này có thể cho rằng các công ty lữ hành phải đóng vai trò bị động.

 Trong điều kiện hiện nay, đối tượng du khách có xu hướng phát triển nhanh, vì thế đứng ở góc độ bị động đối với đối tượng du khách này, các nhà kinh doanh du lịch phải xây dựng tính dự báo đảm bảo tính thuyết phục, tránh cung cấp dịch vụ quá dư thừa hoặc quá thiếu theo nhu cầu của du khách tới xem hoạt động thể thao.

Hiệu quả du lịch từ khách du lịch bị động là không thể phủ nhận được, chính vì vậy một trong những mục đích chính của quốc gia dành giật đăng cai tổ chức các kỳ thể thao lớn không nằm ngoài mục đích như được nguồn tài chính lớn từ khách du lịch.


ĐỂ THỂ THAO TRỞ THÀNH

“ĐÒN BẨY” CỦA SỰ PHÁT TRIỂN DU LỊCH

 

 

Thể thao và du lịch là hai lĩnh vực thuộc đời sống văn hóa tinh thần của con người. Hai lĩnh vực này đi lên với sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của đất nước, có sự giao lưu và dần dần hình thành mối liên hệ “biện chứng” tạo động lực ảnh hưởng lẫn nhau. Việc phát hiện ra mối quan hệ trên và tìm, thực hiện giải pháp và phát triển ngành du lịch của đất nước là việc cần làm của những người tâm huyết và có trách nhiệm liên quan.

 

MỐI QUAN HỆ GIỮA DU LỊCH VÀ THỂ THAO

 

Việt Nam, với địa hình ¾ là đồi núi, hệ thống sông ngòi dày đặc, các bãi biển luôn chan hòa ánh nắng là điều kiện để phát triển nhiều hoạt động trong đó có sự kiện, hoạt động thể thao khác nhau như đi bộ (trekking), leo núi (hiking),  đua ô tô , mô tô, xe đạp, lặn biển, bóng chuyền bãi biển, đua thuyền, lướt ván, nhảy dù, dù lượn, khinh khí cầu .v.v.. Những hoạt động thể thao này không những đáp ứng nhu cầu rèn luyện sức khỏe của người dân địa phương mà còn là cơ sở để thu hút khách cũng như phát triển việc  kinh doanh du lịch. Ngược lại, du lịch giúp những nơi có hoạt động thể thao được quy hoạch hợp lý, giúp người dân bản địa có ý thức bảo vệ cảnh quan môi trường.

Sau du lịch biển, du lịch văn hóa thì loại du lịch thể thao đang ngày càng khẳng định chổ đứng của mình thể hiện qua số lượng du khách tham gia vào loại hình này. Loại hình du lịch thể thao không đơn thuần là tổ chức cho khách đi leo núi, vượt thác ghềnh, chèo thuyền trên sông mà còn thể hiện qua việc khách tham gia các sự kiện thể thao như World cup, Thế vận hội, Asiad, Seagame với hàng ngàn vận động viên (khách du lịch chủ động) và hàng triệu cổ động viên (khách du lịch bị động).

Với việc được bầu làm ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc (LHQ) nhiệm kỳ 2008-2009 và chính thức đảm nhiệm chức Chủ tịch luân phiên HĐBA LHQ nhiệm kỳ 01/07/2008 đến 31/07/2008, được gia nhập tổ chức Thương mại thế giới WTO (11/1/2007) đã tạo chỉ số uy tín rất cao của Việt Nam trên trường quốc tế. Nhờ có chỉ số uy tín cao nên chúng ta rất thuận lợi và có khả năng “hút” các sự kiện thể thao lớn trong khu vực, châu lục cũng như trên thế giới. Và nếu như các sự kiện thể thao lớn được tổ chức thì cơ hội phát triển du lịch đạt hiểu quả cao. Thông qua du lịch, chúng ta có cơ hội quảng bá hình ảnh đất nước trên mọi lĩnh vực và lấy đó làm “thế” để thu hút các sự kiện thể thao khác.

Từ việc nhìn nhận mối quan hệ “biện chứng”, thực tiễn và tác động qua lại giữa hai hoạt động thể thao và du lịch, chúng ta cần xác định những giải pháp trọng tâm và cần thiết để thể thao thực sự trở thành “đòn bẩy” của sự phát triển du lịch.

 

NHỮNG GIẢI PHÁP CẦN THIẾT

 

Thứ nhất: Đảng và Nhà nước cùng phối hợp và chỉ đạo các ban ngành liên quan, trong đó có ngành Văn hoá - Thể thao và Du lịch tận dụng thế mạnh là uy tín, thương hiệu “sự an toàn và thân thiện” của đất nước cũng như xây dựng chiến lược hợp lý và hiệu quả nhằm thu hút tổ chức sự kiện thể thao lớn mang tầm khu vực, châu lục và quốc tế.

 

Những sự kiện thể thao lớn luôn thu hút số lượng khách du lịch cũng như khả năng chi tiêu của học vào ăn uống, lưu trú, mua hàng lư niệm .v.v.. Và quan trọng là công cụ để quảng bá hình ảnh đất hiệu quả như dân gian có câu “trăm nghe không bằng một thấy”. SEA Games 22 (năm 2003) tại Việt Nam là một ví dụ là một ví dụ điển hình. Nhờ được tổ sự kiện này mà hàng khách du lịch cũng như người dân các nước trong khu vực, châu lục đã biết đến biết đến “Việt Nam - Vẻ đẹp tiềm ẩn”. Các năm tiếp theo, số lượng khách quốc tế đến Việt Nam không ngừng được tăng. Ở nước láng giềng Trung Quốc, Olympic Bắc Kinh 2008 thật sự đã “đánh dấu sự mở đầu cho chương mới của ngành du lịch Trung Quốc”. Và tất nhiên ngành du lịch Việt Nam cũng gián tiếp hưởng lợi từ sự kiện này do một số khách du lịch đi xem và cổ vũ cho Olympic kết hợp tour du lịch qua Việt Nam. Để “hút” các sự kiện thể thao lớn làm chất xúc tác cho sụ phát triển du lịch Việt Nam cần đề ra những chiến lượng phát triển lĩnh vực thể thao và du lịch có lộ trình cụ thể. Trong qua trình đề ra chiến lược, hai lĩnh cần có sự phối kết hợp nhằm tìm tiếng nói chung nhằm phát hiện những lợi thế cũng như khắc phục những điểm yếu. Hiện nay, hai ngành thể thao và du lịch đã “giang sơn thu về một mối” nên việc phối hợp đề ra và thực hiện chiến là một sự thuận lợi rất lớn. Xây dựng mới, nâng cấp cũng như hoàn thiện cơ sở hạ tầng, cơ sở thi đấu thể thao có thể đáp ứng quy luật “sức chứa”(cổ động viên và vận động viên), yêu cầu và chuẩn mực trong việc giành quyền tổ chức sự kiện mang tầm cỡ châu lục và quốc tế. Khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài cũng như trong nước đầu tư vào các dự án phát triển thể thao – du lịch, tổ hợp thể thao - du lịch, các khách sạn với dịch vụ đạt chuẩn quốc tế nhằm đáp ứng nhu cầu của vận động viên cũng như cổ động viên, khách du lịch. Cần có những chính sách cũng như biện pháp hỗ trợ các doanh nghiệp lữ hành tiến hành xây dựng, phát triển và chào bán các chương trình du lịch thể thao ở Việt Nam cho khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch nước ngoài.

 

Thứ hai: Tận dụng những tài nguyên thiên nhiên với thế mạnh về hoạt động thể thao, các sự kiện thể thao lớn xây dựng những chương trình, tuyến, điểm, du lịch và từng buớc hướng du lịch thể thao trở thành loại hình du lịch thuần tuý (Những nhà làm du lịch và du khách thường xem nó là loại hình kết hợp).

 

Hiện nay có nhiều doanh nghiệp lữ hành đang khai thác và thực hiện các tour du lịch thể thao đáp ứng nhu cầu du khách đỉnh Lang Biang, đỉnh Bạch Mã, đèo Pren; các chương trình lặn biển ở Nha Trang, Phú Quốc, Côn Ðảo; đi xe đạp địa hình, xe mô-tô thể thao ở vùng núi ở Đông Băc, Tây Bắc và Tây Nguyên; chèo thuyền kayak trên Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà... Đấy là tour được khách du lịch, đặc biệt là khách du lịch quốc tế rất quan tâm và muốn được thực hiện. Để thực hiện tốt và thu hút khách tham gia vào loại hình du lịch này, các doanh nghiệp lữ hành cần phối kết hợp khảo sát và xây dựng các chương trình và tuyết du lịch nhằm đạt hiệu quả và chất lượng tối ưu. Đối với các sự kiện thể thao lớn mà đất nước được tổ chức, nên chủ động tìm hiểu, phân tích nguồn khách (quốc gia, nhu cầu, sở thích, văn hóa…) để xây dựng  những chương trình phù hợp. Trong quá trình khảo sát, xây dựng nên chọn một số loại hình độc đáo, xem như là “di sản” của của đất nước giới thiệu, quảng bá tới khách. Như chúng ta đã biết Tanzania - châu Phi  với đỉnh Kilimanjaro (5.895m), Malaysia với đỉnh Kinabaru (4.095m), Nepal với đỉnh Island Peak (6.160 m), Everest (8.848m)  và thì Việt Nam tự hào với đỉnh Phanxipang (cao 3.143 m, ở Sapa). Bên cạnh đó “di sản” Việt Nam có là lặn biển khám phá đại dương ở Nha Trang, Côn Đảo. Khi những “di sản” này được khách biết đến thì nó đễ trở thành một trong những cơ sở để xây dựng tour du lịch thể thao thuần túy. Tổ chức cung cấp các dịch vụ tại các địa điểm tổ chức tour du lịch thể thao: dịch vụ ăn uống, lưu trú, mang vác hành lý, cung cấp trang thiết bị ... phục vụ cho khách một cách chuyên nghiệp và đặc thù của riêng nó.

 

Thứ ba: Đào tạo đội ngũ HDV chuyên nghiệp phục vụ những đối tượng khách tham gia loại hình du lịch thể thao.

 

Hiện nay, ở tất cả các bậc từ trung học tới đại học đều đào tạo hướng dẫn viên du lịch nhưng chủ yếu hướng dẫn viên theo điểm, theo tuyến và đi sâu vào ba chuyên đề chính: văn hóa, sinh thái, tôn giáo còn việc đào tạo hướng dẫn viên du lịch cho loại hình du lịch thể thao vẫn còn bỏ ngỏ, chưa thật sự quan tâm. Một số ít sinh viên ra trường thường tự học hoặc tìm hiểu thêm ở những có kinh nghiệm rồi trở thành hướng dẫn viên cho loại hình du lịch thể thao. Do thiếu đội ngũ hướng dẫn viên chuyên nghiệp trong lĩnh vực này nên sự việc tổ chức chưa có tính chuyên nghiệp. Nếu có sự bùng nổ về lượng khách tham gia loại hình này trong thời gian sắp tới thì công tác hướng dẫn, phục vụ dễ rơi và tình trạng “đêm tối không có đường ra”. Vì vậy, cần phải tổ chức những lớp đào tạo, bồi dưỡng, thậm chí mời các chuyên gia, các hướng dẫn viên du lịch thể thao giỏi của các nước có loại hình này phát triển mạnh huấn luyện đội ngũ hướng dẫn viên của chúng ta nhằm hội tụ và đạt được các yếu tố sức khỏe, kỹ năng nghiệp vụ, trình độ ngoại ngữ và quan trọng là kiến thức hoạt động thể thao (leo núi, lặn biển, tàu lượn…), về y học thể thao, về chế độ dinh dưỡng trong thể thao. Nếu đạt được những khả năng trên thì đội ngũ hướng dẫn viên du lịch của chúng ta mới đủ năng lực hướng dẫn, phục vụ và hạn chế rủi ro có thể xảy ra đối với du khách trong quá trình tham  tour du lịch thể thao, trong đó có thể thao mạo hiểm.

 

Thứ tư: Thực hiện chế độ “bảo hiểm đặc biệt” đối với những khách tham gia vào loại hình du lịch thể thao.

 

 Như chúng ta đã biết, để mời được đội tuyển Olympic Brazin sang thi đấu giao hữu, LĐBĐ Việt Nam ngoài chi phí “ra sân” phải bỏ tiền mua bảo hiểm hàng triệu USD cho những ngôi sao. Thực tế đã chứng minh rằng, điểm du lịch an toàn, thân thiện luôn là tiêu chí lựa chọn hàng đầu của khách du lịch. An toàn ở đây không chỉ là về môi trường an ninh, chính trị mà còn bao hàm cả sự an toàn thân thể cá nhân khách du lịch. Đó chính đó là yếu tố mà các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành cần chú ý để khai thác và thu hút khách, nên phối hợp với công ty bao hiểm uy tín để ký kết hợp đồng về “bảo hiểm đặc biệt” cho loại khách du lịch thể thao. Khi xây dựng và quảng cáo tiếp thị các chương trình du lịch thể thao cần nhấn mạnh chế độ “bảo hiểm đặc biệt” như là một lợi thế và là cách để gây ấn tượng và thu hút khách. Tạo điều kiện thuận lợi khi khách yêu cầu chế độ và giá trị bảo hiểm nếu tham gia vào loại hình du lịch thể thao mạo hiểm. Tất nhiên sự yêu cầu đó phải có sự thỏa thuận với công ty Lữ hành và tương tứng với số tiền khách chấp nhận bỏ ra để mua.

 

Loại hình du lịch thể thao Việt Nam đang dần dần chiếm lĩnh thị hiếu của khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy là hai hoạt động độc lập nhưng kết hợp tốt sẽ là một sản phẩm làm phong phú cuộc sống tinh thần, giúp phục hồi trí lực một cách hiệu quả nhất trong cuộc sống của chúng ta. Đó cũng là cái đích mà nhưng người làm du lịch Việt Nam đang hướng đến.

 

                                                                Phạm Trọng Lê Nghĩa

                                                Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 10/2009


    

Du lịch tôn giáo: Loại hình này thoả mãn nhu cầu tín ngưỡng đặc biệt của những người theo các tôn giáo khác nhau (hiện nay, trên thế giới có các tôn giáo lớn như đạo Hồi, đạo Phật, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, Nho giáo, Do Thái…). Đây là loại hình du lịch lâu đời rất phổ biến ở các nước tư bản. Vì tôn giáo là nhu cầu tinh thần và là tín ngưỡng trong những cá nhân theo tôn giáo của họ, do đó dộng cơ đi và đến những nơi cội nguồn của tôn giáo là mong muốn và là nguyện vọng hàng năm của họ. Ngoài ra còn có những đối tượng không thuộc thành phần tôn giáo, nhưng họ lại có xu hướng hiếu kỳ khi tham gia vào các hoạt động mang tính tôn giáo. Chính điều này mà mỗi năm tất cả các quốc gia trên thế giới hoạt động du lịch tôn giáo là rất lớn và không ngừng tăng trưởng về số lượng du khách trên phạm vi khả năng thanh toán. Các trung tâm nổi tiếng thế giới của loại hình du lịch này là Vaticãng, Gieluxalun. Mec-ca, v.v… Ở Việt Nam, vào mùa xuân, các tín đồ Phật giáo hành hương về Yêu Tử- nơi khởi nguồn của đạo Phật phái Trúc Lâm, Chùa Hương, thăm nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình).v.v…

Hoạt động hướng dẫn tham quan đối với loại hình du lịch này đòi hỏi phải có quá trình khảo sát, chọn lọc và được chuẩn bị theo một chương trình nhất định. Khi giới thiệu cần phải định hướng cho khách về thông tin biểu hiện tính tích cực, tránh thần thánh hoá, tránh đưa con người vào bi quan, bi lụy.

Du lịch thăm hỏi: Nảy sinh do nhu cầu giao tiếp xã hội nhằm gặp mặt, thăm hỏi, trò chuện, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn cùng bà con, họ hàng, bạn bè thân quen… Hình thức du lịch này có ý nghĩa quan trọng đối với những nước có nhiều người sống ở nước ngoài như Việt Nam, Ý, Anh, Tây Ban Nha, Nam Tư. Đối tượng của loại hình du lịch này thường đi trong thời gian dài ngày và thường diễn ra vào thời điểm sự kiện quan trọng như dịp tết, quốc khánh, lễ hội....Khách du lịch gần như chỉ mua những dịch vụ không trọn gói của các công ty lữ hành. Và mỗi lần trở về thăm quê hương, khách du lịch thuộc loai hình này mang về một lượng ngoại tệ lớn, tạo điều kiện tích lũy ngoại tệ cho quốc gia.

Việt Nam cũng là một trong những quốc gia có đối tượng Việt kiều rất đông và hàng năm có tới vài trăm ngàn người về thăm quê hương, là một thị trường khách mà các nhà kinh doanh lữ hành quốc tế tại Việt Nam đang hướng tới. Ngoài ra, trong phạm vi du lịch thăm thân nội địa cũng rất phổ biến, âu cũng chính là do đặc điểm lịch sử để lại.

3.7.3    Theo trách nhiệm

Du lịch MICE: MICE là loại hình du lịch kết hợp hội nghị, hội thảo, triển lãm, tổ chức sự kiện, du lịch khen thưởng của các công ty cho nhân viên, đối tác. MICE - viết tắt của Meeting (hội họp), Incentive (khen thưởng), Convention (hội nghị, hội thảo) và Exhibition (triển lãm). Tên đầy đủ tiếng Anh là Meeting Incentive Conference Event. Bởi vậy các đoàn khách MICE thường rất đông (vài trăm khách) và đặc biệt mức chi tiêu cao hơn khách đi tour bình thường (do Ban tổ chức các hội nghị quốc tế bao giờ cũng đặt phòng cho khách ở khách sạn 4 - 5 sao, dịch vụ cao, tour sau hội nghị phải thiết kế chuyên biệt theo yêu cầu…). MICE hiện là loại hình du lịch mang lại nguồn thu rất lớn cho ngành du lịch ở các nước.

Đối với Việt Nam loại hình du lịch này đã được các công ty trong ngành du lịch khai thác từ nhiều năm nay, bước đầu đã có kết quả khả quan. Khai thác thị trường MICE là một trong những mục tiêu của chiến lược phát triển ngành du lịch Việt Nam.

Đánh giá về tiềm năng phát triển MICE, đoàn chuyên gia WTO cho rằng: VN có tiềm năng rất lớn và nếu phát triển MICE sẽ là đối thủ đáng ngại của Singapore (trung tâm thu hút MICE lớn nhất Đông Nam Á hiện nay). Cảnh quan thiên nhiên ưu đãi, nhiều di sản văn hóa, thiên nhiên thuộc hàng kỳ quan thế giới, bãi biển đẹp, hệ thống khách sạn, resort phát triển… Tuy nhiên theo WTO để MICE phát triển Việt Nam nên thành lập MICE Bureau (tổ chức xúc tiến phát triển MICE), xây dựng chiến lược marketing, cải thiện ngay hạ tầng phục vụ khách MICE: visa, sân bay, hệ thống khách sạn, trong đó, việc xác định vị trí xây dựng trung tâm hội chợ triển lãm quốc tế rất quan trọng: nó phải gần sân bay, khách sạn, thuận tiện đi lại, giao dịch. Các giải pháp khác phải hướng vào việc phân tích số liệu thông tin thị trường, thiết lập chiến lược thông tin quảng bá MICE và xây dựng website, phát triển thương mại điện tử, mở các lớp đào tạo nguồn nhân lực trong và ngoài nước.

 


Bài 4: Các lĩnh vực kinh doanh & sản phẩm dịch vụ

của ngành du lịch

 

Sau khi kết thúc chương này, học sinh có thể:

 

-       Mô tả được các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch

-       Giải thích được nội dung chính của các lĩnh vực kinh doanh

-       Định nghĩa được sản phẩm du lịch

-       Phân loại được sản phẩm dịch vụ du lịch

-       Nhận biết được đặc điểm của sản phẩm du lịch.

4.1      Các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch

Du lịch cũng được hiểu là tập hợp các hoạt động kinh doanh nhằm giúp đỡ việc thực hiện các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của con người ví dụ như phục vụ vận chuyển, phục vụ ăn uống, lưu trú, phục vụ hướng dẫn tham quan…

- Ngành kinh tế tổng hợp

- Có tính xã hội hoá cao

- Có sự phối hợp liên ngành, liên vùng

- Thực hiện chức năng tưong mại

- Thực hiện chức năng đối ngoại

- Phát hiện bền vững, bảo vệ môi trường.

Kinh doanh du lịch là việc thực hiện một, một số hoặc toàn bộ các công đoạn đầu tư tạo sản phẩm du lịch, đến tổ chức tiêu thụ, thực hiện được các sản phẩm du lịch (hàng hoá và dịch vụ du lịch) trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi.

4.1.1    Kinh doanh du lịch lữ hành

            Kinh doanh lữ hành: Điểm và khu du lịch thường kết hợp với các công ty lữ hành xây dựng các chương trình bao gồm các dịch vụ (vé, bảo hiểm, ăn uống, lưu trú, HDV …) để cung cấp cho khách. Như vậy việc kinh doanh lữ hành của điểm và khu du lịch chỉ thực hiện khi và chỉ khi có sự kết hợp cới các công ty lữ hành. Có như vậy nguồn khách của điểm du lịch và khu du lịch mới ổn định và số lượng sản phẩm, dịch vụ được tiêu thụ với số lượng nhiều hơn.

Kinh doanh du lịch lữ hành là nghề kinh doanh đặc trưng của kinh tế du lịch. Nó có chức năng sản xuất, lưu thông (mua – bán) và tổ chức thực hiện các chương trình du lịch trên thị trường để thu lợi ích kinh tế. Đồng thời bảo đảm giữ gìn phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, an toàn xã hội, an ninh quốc gia và giao lưu quốc tế.

Kinh doanh du kịch lữ hành diễn ra theo một số chu trình gồm 4 bước:

B1: Sản xuất hàng hoá ( Xây dựng chương trình cơ bản)

B2: Tiếp thị và ký kết hợp đồng du lịch.

B3: Tổ chức thực hiệp hợp đồng du lịch.

B4: Thanh quyết toán hợp đồng du lịch.

4.1.2    Kinh doanh lưu trú

  Kinh doanh lưu trú du lịch: Kinh doanh lưu trú là hoạt động kinh doanh nhằm cung cấp các dịch vụ cho thuê buồng ngủ và các dịch vụ bổ sung khách trong thời gian lưu lại tạm thời tại các điểm và khu du lịch nhằm mục đích lợi nhuận. Thông thường, đây là hoạt động kinh doanh chính, chủ yếu của đa số khách sạn và cũng là hoạt động thu hút vốn đầu tư lớn nhất trong khách sạn. Tuy nhiên hiện nay các loại hình cơ sở lưu trú trong các khu du lịch ngày càng đa dạng phù hợp với các loại địa hình khác nhau. Chúng ta có thể bắt gặp như: Camping, Bungalow, Motel …

Kinh doanh cơ sở lưu trú là một trong những hoạt đông cơ bản của hoạt động du lịch, nó đóng vai trò vừa là một sản phẩm du lịch, vừa là điều kiện cơ sở vật chất để phát triển du lịch tại địa phương.

4.1.3    Kinh doanh ăn uống

          Kinh doanh ăn uống: Bên cạnh hoạt động kinh doanh lưu trú, kinh doanh dịch vụ ăn uống cũng là một hoạt động quan trọng của điểm và khu du lịch. Đối tượng phục vụ của dịch vụ này không chỉ dành cho khách du lịch thuần túy mà còn đáp ứng nhu cầu của đối tượng khách vãng lai hoặc khách khác. Doanh thu từ ăn uống chỉ đứng sau doanh thu từ kinh doanh lưu trú.

4.1.4    Kinhdoanh vận chuyển

 Hoạt động du lịch gắn liền với phương tiện vận chuyển khách du lich. Đó là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời hoặc phá bỏ được. Phương tiện vận chuyển cũng là một nhân tố quan trọng tạo nên loại hình du lịch dựa trên tiêu chí của chính nó. Đối với khách du lịch quốc tế thường di chuyển trên các máy bay, tàu biển liên quốc gia. Các phương tiện này do ngành khác quản lí. Ở các nước phat triển, các hãng du lịch lớn thường có các hãng vẩn chuyển riêng. Đối với khách du lịch nội địa, phương tiện đi lại phổ biến là ôtô chất lượng cao để phù hợp với điều kiện địa hình và thời gian lưu trú. Kinh doanh vận chuyển ít nhiều  chịu ảnh của hoạt động du lịch. Vào mùa vụ du lịch, phương tiện vận chuyển hoạt động với tần suất cao và ngược lai, lúc trái vụ hoạt động với tần suất thấp.

4.1.5    Kinh doanh dịch vụ bổ sung

Cung cấp các dịch vụ bổ sung là một phần quan trọng trong hoạt động du lịch. Sở thích và nhu cầu của khách du lịch tăng nhanh hơn so với sự cung cấp các dịch vụ ở những cơ sở đón tiếp khách. Điều đó thúc đẩy các cơ sở đón tiếp hàng năm phải mở rộng các thể loại dịch vụ mà trước hết là các loại dịch vụ bổ sung. Dịch vụ bổ sung bao gồm:

Dịch vụ làm giàu thêm sự hiểu biết: triển lãm, quảng cáo, thông tin...

Dịch vụ làm sống động hơn cho kỳ nghỉ và thời gian nghỉ (như vui chai, giải trí): Tổ chức tham gia cầm lễ hội, trò chơi dân gian, vũ hội...; học những điệu múa và bài hát dân tộc; học cách nấu món ăn đặc sản; karaoke, internet, bida, bowling ….

Dịch vụ làm dễ dàng việc nghỉ lại của khác: Hoàn thành những thủ tục đăng ký hộ chiếu, giấy quá cảnh, mua vé máy bay, làm thủ tục hải quan; các dịch vụ thông tin như cung cấp tin tức, tuyến điểm du lịch, sửa chữa đồng hồ, giày dép, tráng phim ảnh; các dịch vụ trung gian như mua hoa cho khách, đăng ký vé giao thông, mua vé xem ca nhạc; đánh thức khách dậy, tổ chức trông trẻ, mang vác đóng gói hành lý...

Dịch vụ tạo điều kiện thuận tiện trong thời gian khách nghỉ lại: Phục vụ ăn uống tại phòng ngủ; phục vụ trang điểm tại phòng, săn sóc sức khỏe tại phòng; đặt một số trang bị cho phòng như vô tuyến, tủ lạnh, radio, dụng cụ tự nấu ăn (phòng có bếp nấu).

Các dịch vụ thỏa  mãn những nhu cầu đặc biệt của con người: Cho thuê xưởng nghệ thuật (họa, điêu khắc); cho thuê hướng dẫn viên; cho thuê phiên dịch, thư ký; cho thuê hội trường để thảo luận, hòa nhạc; cung cấp điện tín, các dịch vụ in ấn, chụp lại; cho sử dụng những gian nhà thể thao, dụng cụ thể thao.

Dịch vụ thương mại: Mua sắm vật dụng sinh hoạt; mua sắm vật lưu niệm; mua hàng hóa quý hiếm có tính chất thương mại.

Như vậy, kinh doanh dịch vụ bổ sung ra đời muộn hơn so với các hoạt động kinh doanh khác, nhưng nó ngày càng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh chung du lịch nói chung. Việc tổ chức cung cấp các dịch vụ bổ sung sẽ đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của khách du lịch, kéo dài hơn mùa du lịch, tăng doanh thu cho ngành, tận dụng triệt để hơn cơ sở vật chất sẵn có, còn chi phí tổ chức cung cấp dịch vụ bổ sung không đáng kể so với lợi nhuận thu được.

Đồi với các nhà kinh doanh lữ hành, dịch vụ bổ sung được ví như chất xúc tác kích thích sự hành động của du khách chọn tour du lịch của công ty mình. Nếu doanh nghiệp lữ hành nào khai thác tối các thế mạnh về sự phong phú, độc đáo, khac lạ của dịch vụ bổ sung khi tiếp thị nguồn khách sẽ có hiệu quả kinh doanh cao hơn

Tăng dịch vụ cũng có nghĩa la tăng thêm việc làm cho người lao động. Xu hướng hiện nay là chuyển dịch cơ cấu lao động từ khu vực nông nghiệp sang khu vực dịch vụ. Điều này cũng có nghĩa là các dịch vụ bổ sung tạo ra thêm việc làm, đồng thời gián tiếp tạo nên sự chuyển dịch đó.

Bên cạnh đó, sự đa dạng trong kinh doanh các dịch vụ bổ sung là cơ sở cũng như tiêu chuẩn quan trọng để xếp hạng các cơ sở lưu trú. Hiện nay rất nhiều cơ sở kinh doanh du lịch cạnh tranh và thu hút khách chủ yếu dựa vào thế mạnh của các dịch vụ bổ sung này nhằm thu hút khách công vụ, thương gia,...

-   Kinh doanh hàng lưu niệm: Bán các đồ lưu niệm, các đặc sản của địa phương

-   Kinh doanh dịch vụ vui chơi giải trí: Những trò chơi dành cho trẻ em, cho người lớn, đặc biện các khu du lịch ngày nay có đưa vào những trò chơi mang cảm giác mạnh.

-   Dịch vụ chăm sóc sắc đẹp: Chủ yếu tại các khu du lịch như cắt tóc, trang điểm,…

4.2       Sản phẩm, dịch vụ du lịch

4.2.1    Khái niệm

          Sản phẩm du lịch là các dịch vụ, hàng hóa cung cấp cho khách du lịch đượctạo nên bởi sự kết hợp của việc khai thác các yếu tố tự nhiên, xã hội với việc sử dụng các nguồn lực : cơ sở vật chất kỹ thuật và lao động tại một cơ sở, một vùng hay một quốc gia nào đó.

          Như vậy có thể hiểu sản phẩm du lịch được hợp thành bởi những bộ phận sau (xét theo quá trình tiêu dùng của khách du lịch trên chuyến đi du lịch) :

- Dịch vụ vận chuyển;

- Dịch vụ lưu trú, ăn uống;

- Dịch vụ tham quan, giải trí;

- Hàng hoá tiêu dùng và đồ lưu niệm

- Các dịch vụ khác phục vụ khách du lịch

Theo luật Du lịch Việt Nam: Sản phẩm du lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết để thoả mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến đi du lịch

 

          Theo Luật Du lịch Việt Nam: Dịch vụ du lịch là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi giải trí, thông tin, hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch

4.2.2    Phân loại

Có hai loại sản phẩm du lịch cơ bản:

          - Sản phẩm du lịch hữu hình, tồn tại ở dạng vật thể : Ví dụ : Đồ lưu niệm, các món ăn, đồ uống khách du lịch sử dụng trong nhà hàng,.... Sản phẩm dạng này chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong sản phẩm du lịch nói chung.

- Sản phẩm du lịch vô hình, tồn tại ở dạng phi vật thể và chỉ có thể biết  được thông qua cảm nhận của khách du lịch. Dạng sản phẩm này mang tính dịch vụ bao gồm: .

§        Dịch vụ lưu trú và các dịch vụ bổ sung ở các cơ sở lưu trú;

§        Các dịch vụ của các tổ chức du lịch;

§        Dịch vụ giải trí công cộng ở các cơ sở du lịch;

§        Dịch vụ lưu trú chữa bệnh và các dịch vụ tắm nghỉ gắn liền với nó;

§        Các dịch vụ của các cơ sở thể thao;

§        Các dịch vụ vận tải du lịch;

§        Các dịch vụ và hàng hoá được bán ở cơ sở Du lịch ngoài dịch vụ cơ bản: làm đẹp, cắt tóc...

4.2.3    Đặc điểm

A/Đối với sản phẩm du lịch:

Sản phẩm du lịch tồn tại ở dạng vô hình (phi vật thể) là chủ yếu. Thành phần dịch vụ trong sản phẩm du lịch thường chiếm tới 80% - 90% về giá trị, còn sản phẩm là hàng hoá chiếm tỷ trọng khá nhỏ.

Sản phẩm du lịch được tạo ra căn bản nhờ yếu tố tài nguyên du lịch, vì vậy sản phẩm du lịch không thể dịch chuyển được. Khác với sản phầm của các hàng hoá tiêu dùng thông thường, sản phẩm du lịch chỉ có thể ở tại chỗ, khách du lịch bắt buộc phải tìm đến nơi có sản phẩm du lịch. Đặc điểm này cho thấy sản phẩm du lịch là rất đặc biệt nhưng cũng là một trong những nguyên nhân gây khó khăn cho các nhà kinh doanh du lịch trong việc tiêu thụ sản phẩm.

Phần lớn quá trình tạo ra sản phẩm và tiêu dùng sản phẩm trong hoạt động

du lịch là trùng nhau về cả không gian cũng như thời gian. Sản phẩm du lịch không thể lưu kho, cất trữ như sản phẩm của các hàng hoá thông thường.

Việc tiêu dùng sản phẩm du lịch thường không diễn ra đều đặn, mà có thể chỉ tập trung vào một thời điểm nhất định như cuối tuần (với hoạt động du lịch cuối tuần), trong ngày (với hoạt động phục vụ ăn uống trong nhà hàng), trong mùa (với các sản phẩm du lịch ở các địa phương có mùa du lịch),... Do đó, họat động du lịch thường mang tính mùa vụ khá rõ rệt và đây cũng là một trong những khó khăn lớn cho việc tổ chức hoạt động kinh doanh.

          B/Đối với dịch vụ du lịch:

Dịch vụ du lịch có những đặc điểm như tính phi vật chất, tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch, tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ, đặc tính của khách hàng khi tham gia tiêu dùng sản phẩm du lịch, tính tổng hợp cao... Dưới đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết từng đặc tính của dịch vụ du lịch:

v    Tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch.

           Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) thông thường thì quá trình sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không cùng trong một thời điểm. Người ta có thể sản uất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác với nơi bán và tiêu dùng.

Còn đối với dịch vụ du lịch thì gần như thời gian sản xuất ra sản phẩm du lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm. Bản thân sản phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên không thể đem sản phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hoá vật chất thông thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hàng ngày. Do tính đồng thời, trùng khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ như một chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm được chào bán cho khách du lịch thì thời gian ấy chính là lúc sản phẩm du lịch vừa được hình thành đồng thời với hành trình của khách và cảm nhận của khách về chất lượng sản phẩm.

Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung - cầu cũng không thể tác rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự săn khớp giữa cung và cầu trong du lịch là hết sức quan trọng.

v    Tính phi vật chất

Đây là tính chất quan trọng nhất của sản xuất dịch vụ du lịch. Tính phi vật chất đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước. Khách du lịch chỉ có thể được sử dụng sản phẩm dịch vụ du lịch khi họ chính thức bắt đầu mua sản phẩm và thông qua cảm nhận của họ, sản phẩm du lịch phi vật chất đó là hoàn hảo, tốt hay không tết. Đánh giá qua cảm nhận của khách hoàn toàn do cảm nhận chủ quan hay khách quan của khách du lịch. Đó là

đặc tính rất đặc biệt. Cho nên đối với du khách thì dịch vụ du lịch là trừu tượng khi mà họ chưa một lần tiêu dùng nó.

Dịch vụ du lịch luôn được sử dụng song hành, đồng thời với những sản phẩm vật chất, có thể nhìn thấy được nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình. Du khách thực sự rất khó đánh giá dịch vụ.

v    Khách du lịch đồng hành cùng quá trình tạo ra dịch vụ.

Mối quan hệ mật thiết giữa khách hàng và nhà sản xuất trong sự tác động qua lại này trong dịch vụ được khẳng định sự phụ thuộc vào mức độ làm nghề, khả năng cũng như ý nguyện của người tiêu dùng và người cung cấp dịch vụ. Ngoài những đặc tính kinh tế, vai trò phục vụ của con người (những người phục vụ trực tiếp cũng như gián tiếp trong du lịch) đóng một vai trò rất quan trọng cho việc tạo nên ấn tượng tốt, xấu trong cảm giác, sự tin tưởng, tình thân thiện về cá nhân, mối liên kết và những mối quan hệ trong dịch vụ được coi trọng hơn như khi mua những hàng hoá tiêu dùng khác.

Một khách du lịch có được một ấn tượng rất tốt đẹp về chuyến đi của họ không có nghĩa là thứ tạo nên ấn tượng đó là vẻ đẹp thiên nhiên, sự sang trọng của khách sạn, những món ăn ngon và những trò tiêu khiển, giải trí hấp dẫn, mà còn là sự hài lòng, sự thoả mãn sau một chuyến đi với những điều kiện dịch vụ tuyệt hảo, sự tận tình, chu đáo và thân thiện của những người phục vụ trong suốt cuộc hành trình,...

Mức độ hài lòng của khách hàng phụ thuộc rất nhiều vào sự sẵn sàng cũng như khả năng của nhân viên làm dịch vụ, khả năng thực hiện được ý nguyện của khách hàng. Trong những trường hợp này thái độ và sự giao tiếp với khách hàng còn quan trọng hơn cả các tiêu chí kỹ thuật, sản xuất và tiêu dùng những loại dịch vụ này đòi hỏi phải tăng cường sự liên hệ của người sản xuất với khách hàng. Trong thời gian cung cấp dịch vụ những chức năng truyền thống đã gắn liền hai người bạn hàng (đối tác) với nhau trên thị trường. Người tiêu dùng đồng thời trở thành người đồng sáng tạo trong quá trình sản xuất dịch vụ. Người tiêu dùng tham gia hoặc là về mặt thể chất, trí tuệ hay là về mức độ tình cảm trong quá trình tạo ra dịch vụ, xác định thời gian cũng như các khả năng sản xuất. Các vấn đề có tính chất biểu trưng dó có thể thấy được tại các quán ăn nhanh Mcdonald, khách sạn, cửa hàng, ngân hàng, bảo hiểm và dịch vụ giao thông vận tải. Ở đây, sự tham gia về trí tuệ của khách hàng trong quá trình tạo ra dịch vụ này được xác định như sự phối hợp cùng sản xuất.

v    Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ

Đólà sự khác biệt rõ nét nhất với các hàng hoá vật chất thông thường mà con người hàng ngày vẫn tiêu dùng, sử dụng. Với các mặt hàng được sản xuất ra tại một thời điểm và sau đó được đem bán tới người tiêu dùng Ở một thời điểm khác thông qua các kênh phân phối sản phẩm, thì người tiêu dùng chỉ cần bỏ tiền ra mua hàng hoá đó là được quyền sở hữu sản phẩm.

Nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu nào được chuyển từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang mua quyền đối với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du lịch được Ở trong những khách sạn sang trọng, được sử dụng phương tiện vẫn chuyển để đi lại, được chơi các trò chơi giải trí hấp dẫn, được thoải mái tắm và nghỉ ngơi trên bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với chúng.

v    Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch

Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ nên dịch vụ du lịch thuộc loại không di chuyển được, khách muốn tiêu dùng dịch vụ thì phải đến các cơ sở du lịch.

Chẳng hạn, dịch vụ du lịch là một cơ sở lưu trú hay dịch vụ tài nguyên du lịch .

Do đó để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh khi xây dựng các điểm du lịch cần lựa chọn địa điểm thoả mãn các điều kiện tự nhiên: địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi trường sinh thái và

điều kiện xã hội: dân số, dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở hạ tầng.

Đặc điểm này của dịch vụ du lịch đòi hỏi các cơ sở (doanh nghiệp) du lịch

tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du khách đến

với điểm du lịch.

v    Tính thời vụ của dịch vụ

Dịch vụ có đặc trưng rất rõ nét ở tính thời vụ, ví dụ các khách sạn ở các khu nghỉ mát thường vắng khách vào mùa đông nhưng lại rất đông khách vào mùa hè, các nhà hàng trong khách sạn thường đông khách ăn vào trưa hoặc chiều tối, hoặc các khách sạn gần trung tâm thành phố thường đông khách vào ngày nghỉ cuối tuần. Chính đặc tính cầu cao điểm của dịch vụ dẫn đến tình trạng cung cầu dịch vụ dễ mất cân đối vừa gây lãng phí cơ sở vật chất lúc trái vụ và chất lượng dịch vụ có nguy cơ giảm sút khi gặp cầu cao điểm. Vì vậy, các đơn vị thường đưa ra các chương trình khuyến mại khách đi nghỉ trái vụ khi cầu giảm hoặc tổ chức quản lý tốt hàng chờ khi cầu cao điểm.

v    Tính trọn gói của dịch vụ du lịch

Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ trọn gói bao gồm các dịch vụ cơ bản,

dịch vụ bổ sung, dịch vụ đặc trưng.

Dịch vụ cơ bản là những dịch vụ chính mà nhà cung ứng du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản, không thể thiếu được với khách hàng như dịch vụ vận chuyển, dịch vụ phòng, dịch vụ nhà hàng, bar v v ...

Dịch vụ bổ sung là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn các nhu cầu không bắt buộc như dịch vụ cơ bản nhưng phải có trong chuyến hành trình của du khách. Nhiều khi dịch vụ bổ sung lại có tính chất quyết định cho sự lựa chọn của khách và có ảnh hưởng quan trọng đến sự thoả mãn toàn bộ của khách hàng đối với dịch vụ trọn gói của doanh nghiệp. Chẳng hạn, nếu khách sạn có số lượng dịch vụ bổ sung càng phong phú, chất lượng của dịch vụ cao thì ngay cả khi giá cả không rẻ khách vẫn đến đông và khi đó khách sạn kinh doanh sẽ rất có hiệu quả vì hệ số sử dụng phòng cao, khách lưu trú dài ngày và tỷ lệ khách quay lại thường cao hơn so với loại khách sạn có ít dịch vụ.

Dịch vụ đặc trưng là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu đặc trưng của du khách như tham quan, tìm hiểu, vui chơi giải trí .v.v... Việc thoả mãn các nhu cầu này cũngchính là nguyên nhân và là mục đích của chuyến du lịch. Tính chất trọng gói của dịch vụ du lịch xuất phát từ nhu cầu đa dạng và tổng hợp của du khách. Mặt khác nó cũng đòi hỏi tính chất đồng bộ của chất lượng dịch vụ.

Dịch vụ du lịch có những đặc điểm như tính phi vật chất, tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch, tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ, đặc tính của khách hàng khi tham gia tiêu dùng sản phẩm du lịch, tính tổng hợp cao... Dưới đây, chúng ta sẽ nghiên cứu chi tiết từng đặc tính của dịch vụ du lịch:

v    Tính trùng khớp thời gian giữa sản xuất và tiêu dùng dịch vụ du lịch

Đây là một đặc điểm hết sức quan trọng thể hiện sự khác biệt giữa dịch vụ và hàng hóa. Đối với hàng hóa (vật chất) thông thường thì quá trình sản xuất và tiêu dùng là tách rời nhau, không cùng trong một thời điểm. Người ta có thể sản uất hàng hóa ở một nơi khác và ở một thời gian khác với nơi bán và tiêu dùng.

Còn đối với dịch vụ du lịch thì gần như thời gian sản xuất ra sản phẩm du lịch trùng khớp với thời gian tiêu dùng sản phẩm. Bản thân sản phẩm du lịch cũng mang tính vô hình, phi vật chất nên không thể đem sản phẩm du lịch bán từ nơi này sang nơi khác như các hàng hoá vật chất thông thường mà chúng ta vẫn luôn tiêu dùng hàng ngày. Do tính đồng thời, trùng khớp như trên nên sản phẩm dịch vụ du lịch không thể lưu kho được. Ví dụ như một chương trình du lịch 3 ngày 2 đêm được chào bán cho khách du lịch thì thời gian ấy chính là lúc sản phẩm du lịch vừa được hình thành đồng thời với hành trình của khách và cảm nhận của khách về chất lượng sản phẩm.

Dịch vụ được sản xuất và tiêu dùng đồng thời nên cung - cầu cũng không thể tác rời nhau. Cho nên việc tạo ra sự săn khớp giữa cung và cầu trong du lịch là hết sức quan trọng.


NÂNG CAO HIỂU QUẢ KHAI THÁC TÍNH PHI VẬT CHẤT

TRONG SẢN PHẨM DU LỊCH

                    

Việt Nam, một quốc gia với bề dày truyền thống văn hóa với nhiều công trình kiến trúc, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh đẹp nhưng lượng khách quốc tế tới tham quan so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Sinhgapo, Malaixia là rất thấp. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng trên? Do chính sách phát triển du lịch? Do năng lực quả l‎ý chưa hiểu quả? Do cách quảng bá tiếp thị chưa tốt? .v.v.v… Theo quan niệm của tôi các nguyên nhân trên chưa phải là câu trả lời xác đáng. Đảng và Nhà nước ta luôn xác định "Du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn" và đưa ra những chính sách phát triển du lịch hợp lí thể hiện qua Luật Du lịch và các văn kiện khác. Bên cạnh đó, chúng ta nhận được sự giúp đỡ trong lĩnh vực đào tạo, phát triển nguồn nguồn nhân lực du lịch Việt Nam từ các đối các nước ngoài như dự án như VIE (chính phủ Lucxembourg), dự án EU (Cộng đồng châu Âu – 2005). Lịch sử dân tộc cùng với việc toàn cầu hóa về công nghệ thông tin ngày càng làm cho thương hiệu Việt Nam với "vẻ đẹp tiềm ẩn" gây ấn tượng mạnh cho con tim và khối óc của rất nhiều người dân ở khắp mọi miền trên thế giới với một sự thừa nhận hoàn hảo "Việt Nam – Điểm đền an toàn, thân thiện". Một trong những nguyên nhân chính khiến ngành du lịch Việt Nam chưa lay chuyển được bước chân của khách du lịch các nước tới tham quan chính là những người làm du lịch chưa phát huy hết tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch. Vậy tính phi vật chất của sản phẩm du lịch do những yếu tố nào tạo nên?

 

Sản phẩm du lịch là loại sản phẩm đặc biệt. Trong mỗi một sản phẩm du lịch luôn tồn tại hai yếu tố vật chất và phi vật chất. Nó phong phú và đa dạng, đa chủng loại, đa lọai hình với mục đích đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của khách du lịch.

 

Yếu tố tạo nên tính phi vật chất sản phẩm du lịch:

 

             Thứ nhất: Trình độ, thái độ, phong cách phục vụ của nhân viên đối với khách du lịch. Nhân viên vụ phải có kiến thức sâu về chuyên môn, có kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phán đoán tâm từng đối tượng khách (giới tính, độ tuổi, nghề nghiệp, tôn giáo, quốc gia .v.v.v..), nền văn hóa từng vùng, miền, lãnh thổ .v.v.v... để đưa ra cách phục vụ tối ưu nhất. Nếu các nhân viên phục vụ có các kỹ năng trên khi phục vụ sẽ đem lại nhiều lợi ích cho chính doanh nghiệp mình và cho du khách. Tránh cho khách có sự hiểu lầm và xung đột về sắc tộc tôn giáo. Bên cạnh đó là nét ứng xử văn hóa "thân thiện, cở mở, hiếu khách" của người dân nơi có điểm du lịch.

 

Thứ hai: Không gian, vị trí thưởng thức sản phẩm du lịch. Mỗi sản phẩm du lịch muốn hấp dẫn khách phải có một không gian, vị trí phù hợp tức là chúng ta phải biết cách tạo hiệu ứng, cách trang trí ấn tượng, bắt mắt, tuân thủ các giá trị văn hóa thẩm mỹ. Không gian, vị trí càng hợp lí, hiểu quả thì chất lượng sản phẩm càng đẹp, thậm chí nó truyền thụ được các giá trị mà sản phẩm du lịch muốn hướng tới khách.

 

Thứ ba: Sự kết hợp của các hợp phần văn hóa du lịch: Văn hóa của khách du lịch trong mối quan hệ với sản phẩm du lịch, văn hóa cộng đồng dân cư nơi có điển du lịch; văn hóa của người làm du lịch thể hiện qua cách "sản xuất" các sản phẩm, dịch vụ du lịch; văn hóa của bản thân người làm văn hóa thể hiện qua trình độ thẩm mỹ, kiến thức lịch sử văn hóa trong du lịch.

 

Đối với sản phẩm du lịch văn hóa, yếu tố phi vật chất chính là những cộng hưởng của nhiều giá trị văn hóa cộng hưởng lại. Theo TS. Trần Nhoãn, để trở thành sản phẩm du lịch văn hóa đúng nghĩa thì bản thân sản phẩm đó phải tồn tại các giá trị " độc đáo, đơn nhất, nguyên bản, huyền thọai, tâm linh" (Giáo trình Nghệp vụ Kinh doanh Du lịch Lữ hành – Nxb Chính trị Quốc gia, 2002). Hòn Vọng Phu (Lạng Sơn) trở thành một sản phẩm du lịch văn hóa khi nó mang trong mình giá trị lịch sử, huyền thoại, độc đáo (Nàng Tô Thị đứng bồng con chờ chồng). Nếu chúng không "khoác" lên nó những giá trị đó thì Hòn Vọng Phu chẳng qua chỉ là những tảng đá vô tri vô giác, một cái "xác vô hồn, vô cảm". Một ngôi chùa, một ngôi đình muốn trở thành một điểm thu hút khách du lịch một khi bản thân nó phải chứa đựng giá trị tâm linh của tôn giáo; độc đáo, đơn nhất của kiến trúc.

Như vậy, trong một sản phẩm du lịch, yếu tố phi vật chất luôn chiếm tỷ trong cao hơn yếu tố vật chất. Và chính yếu tố tố phi vật chất quyết định tới lượng khách tới tham quan, giá trị của sản phẩm du lịch. Và là nhân tố quan trọng hàng đầu để các doanh nghiệp du lịch khai thác, tạo thương hiệu và cạnh tranh nguồn khách.

Từ những phân tích trên, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm năng cao hiểu quả khai thác tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch.

 

Thứ nhất:  Nâng cao hơn nữa trình độ nhân lực du lịch, trình độ nhận thức của người dân tham gia họat động du lịch trong bối cảnh hội nhập. Ngoài kiến thức chuyên môn, những người làm du lịch phải có kỹ năng giao tiếp đạt chuẩn quốc tế, đi sâu tìm hiểu về kiến thức văn hóa lịch sử của từng dân tộc. Đối với những người quản l‎ý, điều này giúp cho họ có kiến thức cơ bản để tìm hiểu thị trường khách và đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp. Người phục vụ du lịch sẽ có cách "đối nhân xử thế", cách ứng xử linh họat hơn với từng đối tượng khách vì khi đi đi du lịch, mục đích chính của khách là thưởng thức cái "hồn" của sản phẩm. Cái "hồn" ấy cáng ấn tượng thì "sự quay lại" của khách là một tất yếu.

Thực tế cho thấy Việt Nam, một quốc gia có bề dày truyền thống lịch sử văn hóa, tài nguyên du lịch phong phú không kém gì các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan, Sinhgapo, Malaixia, thậm chí còn vượt trội hơn hẳn về "sự an toàn" song sự tham quan và quay lại của khách quốc tế là rất thấp. Cái mà ta thua họ chính là cách làm du lịch, cách nâng cao tính phi vật chất của sản phẩm du lịch. Vấn đề đặt ra là trong vấn đề đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nhìn chung chúng ta vẫn còn nặng về l‎y thuyết, đặc biệt là môn Kỹ năng giao tiếp trong Du lịch học sinh, sinh viên chưa có những buổi thảo luận chuyên đề, các tình huống với những người có thâm niên trong ngành cũng như các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch nên khi đi làm, đặc biệt là phục vụ khách nước ngòai còn rụt rè, chưa có sự tin và bản lĩnh. Các môn bổ trợ như kiến thức về văn hóa, lịch sử, nhiều học sinh, sinh viên chỉ học đối phó mà chưa thấy được vai trò mà nó đem lại. Thậm chí một nhân viên lễ tân khi được khách du lịch hỏi về điểm du lịch, kiến thức văn hóa lịch sử của địa phương mình để đi tham quan cũng không biết trả lời làm cho khách bị thất vọng ngay từ lần đầu gặp. Sự yếu của nhân viên lễ tân đó kéo theo những thất bại về quảng cáo, tiếp thị "dây chuyền" trong thu hút khách. Muốn "phát triển du lịch bền vững", duy trì được "nguồn khách bền vững" thì khâu đầu tiên là phải tạo ra những "nhân lực du lịch bền vững".

 

Thứ hai: Tạo không gian, quy họach du lịch phù hợp với từng lọai hình, sản phẩm du lịch. Không gian du lịch chung nhất chính là không gian "văn hóa trong du lịch". Những nhà làm du lịch cần phối kết hợp với chính quyền địa phương nơi có điểm du lịch giáo giục ‎ý thức cho người dân thấy được vai trò mà khách du lịch quốc tế đem lại cho địa phương và bản thân mình đó là nguồn thu, việc làm, là cơ hội được mở rộng "cánh cửa nhận thức" để giao lưu, được học hỏi những hiện thực mới mẻ, những phong tục tập quán của các nền văn hóa khác nhau trên thế giới. Vì lợi ích trước mắt, tình trạng chèo kéo khách, chạy theo và ép khách mua hàng, tình trạng ăn xin làm đánh mất lòng tin ở khách du lịch về một quốc gia giàu truyền thống văn hóa. Và hiện nay chúng ta còn tồn tại tình trạng những người kinh doanh sản phẩm du lịch tại các điểm du lịch, khu du lịch cứ thấy khách du lịch mang nhãn hiệu "quốc tế" là ra sức "chặt, chém" khiến cho họ "một đi không trở lại". Điều này xuất phát từ ‎nhận thức, từ sự kém hiểu biết và cho rằng khách du lịch quốc tế không hiểu gì về giá cả sản phẩm, dịch vụ du lịch tại nơi họ tham quan. Đó là quan điểm sai lầm ví hầu hết khách du lịch  trước chuyến đi họ đều tìm hiểu trước hệ thống giá cả, dịch vụ tại nơi mình muốn đến.

Lọai hình du lịch văn hóa dần đang chiếm chĩnh vị trí và cảm tình đối du khách nước ngoài. Tham gia lọai hình du lịch này, khách có cơ hội được tìm hiểu về lịch sử, phong tục tập quán của đất nước và con người Việt Nam "bốn ngàn năm lịch sử". Ấy vậy mà bản thân các sản phẩm du lịch văn hóa lại còn tồn đọng một số vấn đề đi ngược lại trình độ thẩm mỹ, kiến thức lịch sử văn hóa.

 Phục vụ khách du lịch cũng chính là mang cái Đẹp đến cho họ và cho bản thân mình. Vậy tại sao chúng ta, những người làm du lịch không nâng cao hiểu quả khai thác tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch để mang cái Đẹp cho khách du lịch. Có được cái Đẹp ắt sẽ thành công trong việc thu hút khách và tìm kiếm lợi nhuận.

                                                                   Phạm Trọng Lê Nghĩa

                                                      (Tạp chí Du lịch Việt Nam - Số 11/207)

 


 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

(Dùng để soạn bài giảng môn học)

 

1.       Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2000) – Kinh tế Du lịch & Du lịch học – NXB Trẻ - TP. Hồ Chí Minh

2.       GS.TS Nguyễn Văn Đính (2004) – GT. Kinh tế Du lịch – NXB Lao động – Hà Nội

3.       Luật Du lịch Việt Nam (1/2006)

4.       Nguyễn Văn Lưu (1998) - Thị trường Du lịch – NXB Đại học Quốc gia – Hà Nội

5.       Nguyễn Minh Tuệ (1999) - Địa lý du lịch – NXB TP. Hồ Chí Minh

6.       PGS.TS Phạm Trung Lương (2000) - Tài nguyên và môi trường du lịch – NXB Giáo dục – Hà Nội

7.       PGS.TS Phạm Trung Lương (2002) – Du lịch Sinh thái, Những vấn vấn đề về ý luận và thực tiễn phát triển ở Việt Nam – NXB Giáo dục – Hà Nội

8.        Phạm Trọng Lê Nghĩa (2007) – ”Nâng cao hiểu quả khai thác tính phi vật chất trong sản phẩm du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2007, trang 53-54

9.       Phạm Trọng Lê Nghĩa (2008) – ”Để thể thao trở thành ”đòn bẩy” phát triển du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 10/2009, trang 28-29

10.    Phạm Trọng Lê Nghĩa (2008) – ”Phát huy nội lực học sinh, sinh viên ngành du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2008, trang 28-29

11.   Phạm Trọng Lê Nghĩa (BD: Trọng Thanh) (2008) – ”Nâng cao hiệu quả khai thác và sử dụng công nghệ trong du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 11/2008, trang 54-55

12.   Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009) – ”Du lịch ảo – Món khai vị kích cầu” - Tạp chí Du lịch TPHCM, số 1/2009, trang 44-45

13.   Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009) – ”Đi tìm sự gặp gỡ giữa cung và cầu trong lao động du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 3/2009, trang 58-59

14.   Phạm Trọng Lê Nghĩa (2009) – ”Đi tìm sự gặp gỡ giữa cung và cầu trong lao động du lịch” - Tạp chí Du lịch Việt Nam, số 4/2009, trang 58-59

15.   Trần Nhạn (1995) – Du lịch và kinh doanh du lịch – NXB Văn hóa thông tin – Hà Nội

16.   Trần Nhạn (2002) - Nghiệp vụ Kinh doanh Lữ hành – NXB Chính trị quốc gia – Hà Nội

17.   Tổng cục Du lịch (2002) - Non nước Việt Nam – NXB Văn hóa thông tin – Hà Nội

18.     Trường THNV Du lịch Vũng Tàu (1998) - Công nghiệp Du lịch

19.   Trang web: www.vtr.org.vn

20.   Trang web: www.vietnamtourism.com.vn

21.   Vũ Đức Minh (1999) - Tổng quan Du lịch – NXB Giáo dục – Hà Nội

 


22.  MỤC LỤC

 

NỘI DUNG

Trang

Bài 1: Khái quát về hoạt động du lịch

6

   1.1 Các khái niệm cơ bản về Du lịch

6

   1.2 Lịch sử hình thành phát triển du lịch thế giới và Việt Nam

12

   1.3 Vai trò của du lịch đối với nền kinh tế xã hội

26

Bài 2: Điều kiện ảnh hưởng đến sự phát triển Du lịch

30

   2.1 Điều kiện chung

 

     2.1.1 An ninh chính trị - an toàn xã hội

30

     2.1.2 Kinh tế

31

     2.1.3 Văn hóa

34

     2.1.2 Đường lối, chính sách phát triển du lịch

35

   2.2 Điều kiện riêng

 

     2.2.1 Tài nguyên du lịch

37

     2.2.2 Nhân lực du lịch

43

     2.3.3 Cơ sở hạ tầng – CSVCKT Du lịch

45

     2.5.2 Các sự kiện đặc biệt

46

Bài 3: Các loại hình Du lịch

 

   3.1 Căn cứ theo môi trường tài nguyên

 

     3.1.1 Du lịch văn hóa

48

     3.1.2 Du lịch sinh thái

49

  3.2 Căn cứ theo phạm vi lãnh thổ

 

     3.2.1 Du lịch nội địa

51

     3.2.2 Du lịch quốc tế

51

  3.3 Căn cứ theo vị trí địa l‎ý‎

 

     3.3.1 Du lịch nông thôn

51

     3.3.2 Du lịch thành thị

52

     3.3.3 Du lịch biển

52

     3.3.4 Du lịch miền núi

52

   3.4 Căn cứ theo hình thức tổ chức

 

     3.4.1 Du lịch cá nhân

53

     3.4.2 Du lịch theo đoàn

53

  3.5 Căn cứ theo phương thức hợp đồng

 

     3.5.1 Du lịch trọn gói

53

     3.5.2 Du lịch từng phần

53

  3.6 Căn cứ theo phương tiện vận chuyển

 

     3.6.1 Du lịch đường bộ

54

     3.3.2 Du lịch đường thủy

54

     3.3.3 Du lịch đường không

54

  3.7 Căn cứ theo mục đích chuyến đi

 

     3.7.1 Theo mục đích chung

55

     3.7.2 Theo mục đích riêng

56

     3.7.2 Theo trách nhiệm

58

Bài 4: Các lĩnh vực kinh doanh & sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch

59

  4.1 Các lĩnh vực kinh doanh của ngành du lịch

 

     4.1.1 Kinh doanh lữ hành

59

     4.1.2 Kinh doanh lưu trú

60

     4.1.3 Kinh doanh ăn uống

60

     4.1.4 Kinh doanh vận chuyển

60

     4.1.5 Kinh doanh dịch vụ bổ sung

6

  4.2 Sản phẩm dịch vụ của ngành du lịch

 

     4.2.1 Khái niệm

62

     4.2.2 Phân loại

63

     4.2.3 Đặc điểm

63

TÀI LIỆU THAM KHẢO

69

 



 

 

Vì sao máu tôi màu đỏ! Bởi vì tôi yêu MU!


 
Các thành viên đã Thank HuongQTri vì Bài viết có ích:
29/10/2010 14:10 # 2
doanut
Cấp độ: 1 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 4/10 (40%)
Kĩ năng: 4/10 (40%)
Ngày gia nhập: 11/10/2010
Bài gởi: 4
Được cảm ơn: 4
Phản hồi: [Bài Giảng]Môn Tổng Quan Du Lịch-Phạm Trọng Lê Nghĩa


Hic, làm sao download tài liệu này nhỉ?

Có bạn nào có tài liệu ngành quản trị du lịch khách sạn nhà hàng không?
Nếu có thì có thể cho mình tham khảo không nhỉ?

Nếu có thể thì các bạn send qua mail hộ mình với nhé :)

Mail: bestfriend22285@yahoo.com
Name: Út



 
03/01/2012 19:01 # 3
aihoang_1996
Cấp độ: 1 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 1/10 (10%)
Kĩ năng: 0/10 (0%)
Ngày gia nhập: 03/01/2012
Bài gởi: 1
Được cảm ơn: 0
Phản hồi: [Bài Giảng]Môn Tổng Quan Du Lịch-Phạm Trọng Lê Nghĩa


 kam on ngen



 
27/06/2013 20:06 # 4
thanhdhtm89
Cấp độ: 1 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 1/10 (10%)
Kĩ năng: 0/10 (0%)
Ngày gia nhập: 15/11/2012
Bài gởi: 1
Được cảm ơn: 0
Phản hồi: [Bài Giảng]Môn Tổng Quan Du Lịch-Phạm Trọng Lê Nghĩa


làm sao để dow đựoc tài liệu này nhỉ

 




 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024