Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
19/09/2022 23:09 # 1
vovanhoa1411
Cấp độ: 18 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 84/180 (47%)
Kĩ năng: 1/10 (10%)
Ngày gia nhập: 03/03/2021
Bài gởi: 1614
Được cảm ơn: 1
Hướng dẫn trình bày bảng trong nghiên cứu y học


Các bảng phải được thiết kế tránh lặp lại và đơn giản, rõ ràng, không gây nhầm lẫn. Các bảng phải cô đọng, tránh tách rời các dữ liệu tương tự, để tất cả các thông tin liên quan có thể được trình bày cùng nhau.

 

Tác giả: Trần Tiến Phong

Người đánh giá: Trần Trà My, Trần Phương Phương

Mục tiêu

Mục tiêu của bảng là trình bày chi tiết nội dung mà không cần đọc văn bản và cung cấp kết quả dễ hiểu nhanh nhất. Một bảng tốt là một đơn vị giao tiếp duy nhất, tức là, toàn bộ thông tin và hoàn toàn dễ hiểu đối với người khác. Nó phải cung cấp tối đa thông tin với lượng từ tối thiểu. Các bảng nên cung cấp thông tin bổ sung không có trong văn bản, để tránh dư thừa.

Thiết kế bảng

Để thiết kế một bảng rõ ràng, dữ liệu nên được sắp xếp theo đúng thứ tự, bỏ qua các giá trị không quan trọng và loại bỏ các từ không cần thiết. Các bảng phải được thiết kế cẩn thận để tránh lặp lại các tiêu đề và đơn giản, rõ ràng, không gây nhầm lẫn và dễ theo dõi. Các bảng phải được cô đọng, tránh tách rời các dữ liệu tương tự, để tất cả các thông tin liên quan có thể được trình bày cùng nhau trong một bảng.

Bảng so sánh các nhóm nên chứa phân tích thống kê cụ thể của họ. Nếu các chữ viết tắt được sử dụng, chúng phải được giải thích trong phần chú thích, trừ khi chúng đã được xác định trong văn bản và danh sách các chữ viết tắt. Các bảng thường được cung cấp sau các tài liệu tham khảo, mỗi bảng nằm trên một trang riêng biệt, có đánh số và tiêu đề. Đảm bảo rằng số chính xác của bảng xuất hiện ở đúng vị trí trong văn bản. Nếu bạn phải lựa chọn giữa việc trình bày cùng một dữ liệu dưới dạng bảng hoặc biểu đồ, hãy hỏi 'điều gì quan trọng hơn đối với người đọc?' Nếu xu hướng chung quan trọng hơn, hãy trình bày dữ liệu dưới dạng hình, nhưng nếu các giá trị chính xác quan trọng hơn, hãy sử dụng bảng.

Hướng dẫn chi tiết trình bày bảng

1). Tránh lặp lại trong văn bản các kết quả được báo cáo trong các bảng. Tham khảo tất cả các bảng trong văn bản bằng cách cung cấp một bản tóm tắt chung hoặc diễn giải tổng thể. Ví dụ, tránh văn bản như sau: “Các đặc điểm cơ bản được thể hiện trong bảng…. Một giải pháp thay thế tốt hơn sẽ là “Các đặc điểm cơ bản theo nhóm nghiên cứu được trình bày trong bảng…

2). Tránh bao gồm các cột hoặc hàng có thể được dẫn xuất dễ dàng dựa trên dữ liệu đã được cung cấp. Điều này được đưa ra như trong hướng dẫn báo cáo thống kê. Các lỗi phổ biến bao gồm việc trình bày dữ liệu cho các nhóm cả riêng biệt và kết hợp (ví dụ: nếu tuổi trung bình là 64 tuổi trong nhóm 1 và 69 tuổi trong nhóm 2, chúng tôi không cần phải thông báo rằng tuổi trung bình trong tất cả các nhóm nói chung là ~ 67 tuổi), cung cấp hai tỷ lệ cho các biến nhị phân (ví dụ: 53% có tiền sử gia đình và 47% không có tiền sử gia đình) và cung cấp dữ liệu theo hai cách khác nhau.

3). Tránh báo cáo giá trị p trong bảng trừ khi đã xem xét kỹ lưỡng giả thuyết. Trong nhiều trường hợp, người ta biết rằng các nhóm có hoặc không khác nhau, không quan trọng bằng cách biết liệu chúng có khác nhau hay không. Trong một thử nghiệm ngẫu nhiên, giá trị p kiểm tra các đặc điểm cơ bản giữa các nhóm đang kiểm tra một giả thuyết được biết là đúng; tóm lại, bất kỳ sự khác biệt rõ ràng nào là do ngẫu nhiên. Ngược lại, khi so sánh các bệnh nhân nhận các thủ thuật khác nhau, người ta thường biết rằng chúng sẽ khác nhau. Trong trường hợp các tập dữ liệu dựa trên dân số lớn, chẳng hạn như dữ liệu Giám sát, Dịch tễ học và Kết quả cuối cùng, kích thước mẫu thường rất lớn nên hầu hết mọi sự khác biệt đều có ý nghĩa lớn và giá trị p là dư thừa.

4). Hãy rõ ràng về giả thuyết rỗng khi báo cáo giá trị p trong bảng. Một vấn đề phổ biến là khi có ba nhóm trong một bảng và không rõ liệu giá trị p có giải quyết giả thuyết rỗng rằng cả ba nhóm đều giống nhau hay là sự so sánh từng cặp giữa hai nhóm riêng. Tương tự, không báo cáo nhiều hơn một giá trị p trong một cột mà không rõ ràng 100% về giá trị p nào kiểm tra giả thuyết nào.

5). Bảng phải đơn giản. Các bảng có nhiều cột con hoặc nhiều hàng có thể gây khó khăn cho người đọc trong việc tìm kiếm thông tin.

6). Đối với các biến phân loại, một bài kiểm tra giả thuyết đơn lẻ được ưu tiên hơn là nhiều bài kiểm tra ở mỗi cấp độ của danh mục. Ví dụ, một bảng đưa ra các đặc điểm nhân khẩu học của những bệnh nhân được điều trị khác nhau, trong đó trình độ học vấn của bệnh nhân được phân loại thành dưới trung học phổ thông, tốt nghiệp trung học phổ thông, đại học và sau đại học. Sẽ thích hợp hơn nếu giải quyết câu hỏi "có mối liên hệ giữa tình trạng giáo dục và cách đối xử không?" Nhiều câu hỏi như sau: “So với những bệnh nhân không tốt nghiệp cấp 3, những bệnh nhân tốt nghiệp cấp 3 nhưng không vào đại học có được điều trị khác không? Có sự khác biệt nào giữa không học trung học và đại học không? Còn những bệnh nhân đã học sau đại học thì sao?”

7). Tránh lặp lại không cần thiết hoặc bảng có ô trống. Ví dụ điển hình sẽ là một bảng so sánh hai nhóm cho năm biến khác nhau và với toàn bộ cột giá trị p <0,0001. Có một cột có “p <0,0001” được lặp lại năm lần sẽ là thừa. Thay vào đó, một ghi chú có thể được thêm vào chú thích nêu rõ "tất cả các khác biệt có ý nghĩa thống kê ở p <0,0001". Tương tự, tránh lặp lại văn bản chẳng hạn như "độ lệch chuẩn" (SD) hoặc "95% CI". Thay vào đó, hãy sử dụng các tiêu đề cột như “Tỷ lệ (KTC 95%)” hoặc “Trung bình (SD)”. Các ô trống trên các hàng có thể tránh được bằng các kỹ thuật như chỉ định danh mục tham chiếu bằng dấu hoa thị thay vì để một hàng chỉ định nhóm tham chiếu. Cũng cần tránh các hàng hoặc cột trong bảng nếu dữ liệu được báo cáo có thể được suy ra dễ dàng từ các hàng hoặc cột khác. Ví dụ: không cần phải có bất kỳ điều nào sau đây: một cột cung cấp dữ liệu cho nhóm thuần tập đầy đủ nếu đã có các cột cho nhóm điều trị và nhóm kiểm soát, các hàng cho cả hai tùy chọn nhị phân (ví dụ: 60% nhóm thuần tập là nam giới và 40% là phụ nữ), và các hàng sử dụng các phân loại khác nhau của cùng một biến (ví dụ: tần suất và tỷ lệ phần trăm cho cả các giai đoạn và riêng biệt đối với bệnh khu trú và bệnh tiến triển).

8). Lượng bệnh nhân và dữ liệu còn thiếu. Nếu dữ liệu bị thiếu chỉ được tìm thấy trong một tập hợp con của các biến, số lượng bệnh nhân có thể được chỉ định trong tiêu đề cột. Dữ liệu bị thiếu có thể được chỉ ra theo một số cách khác nhau: trong tiêu đề hàng, dưới dạng tiêu đề hàng, dưới dạng một hàng riêng biệt trong giai đoạn lâm sàng) hoặc có chú thích (ví dụ:“ Giai đoạn lâm sàng* . Chú thích cuối trang:* Thiếu dữ liệu giai đoạn lâm sàng trên… bệnh nhân”).

9). Số liệu thống kê được báo cáo phải rõ ràng. Tiêu đề của bảng phải cho biết số liệu thống kê nào được báo cáo, ví dụ: "giá trị trung bình hoặc số (%)". Số liệu thống kê nên được giữ nhất quán trong bảng (ví dụ, tránh chuyển từ Fisher's sang χ 2). Nếu có lý do chính đáng để chuyển đổi giữa các số liệu thống kê khác nhau trong cùng một bảng, hãy bao gồm chú thích cuối trang để chỉ ra các giá trị sai lệch so với tiêu chuẩn và đưa ra cơ sở lý luận.

10). Thực hiện theo các hướng dẫn báo cáo thống kê cho các thống kê được trình bày trong bảng. Ví dụ, đối với thống kê mô tả, trung bình và trung vị được ưu tiên hơn, nên tránh phạm vi, phải sử dụng mức độ chính xác thích hợp và các công cụ dự đoán phải được thay đổi tỷ lệ để các thống kê như tỷ lệ chênh có thể diễn giải được (ví dụ: , đưa ra tỷ lệ chênh trên độ tuổi tăng 10 năm để tránh tỷ lệ chênh trên 1 năm, chẳng hạn như 1,01, 95% CI 1,00, 1,01).

11). Tiêu đề rõ ràng, chỉ định đơn vị và làm cho nhóm tham chiếu rõ ràng khi báo cáo tỷ lệ. Nếu không thể tránh khỏi việc sử dụng các từ viết tắt, hãy chú thích các từ viết tắt trong phần chú thích cuối bảng.

12). Tránh chia các biến phân loại thành quá nhiều danh mục riêng biệt. Ví dụ, có chín giai đoạn lâm sàng khác nhau đối với ung thư tuyến tiền liệt, nhưng hiếm khi có chín hàng riêng biệt cho mỗi giai đoạn trong một bảng. Phổ biến hơn nhiều là nhóm các giai đoạn thành năm loại: T1a, b, hoặc c; T2a; T2b; T2c; và T3a, T3b hoặc T4).

13). Sử dụng định dạng giúp người đánh giá dễ đọc các bảng. Cột chỉ định hàng (bên trái) phải được căn đều, trong khi các cột chứa dữ liệu phải được căn giữa. Sử dụng thụt lề cho các danh mục phụ (ví dụ: căn trái sang trái “Nhóm lớp” và sau đó sử dụng thụt lề trên các dòng tiếp theo cho các nhóm 1, 2, 3 và 4–5) . In đậm cho các tiêu đề cột có thể tối ưu.

14). Tránh sử dụng ký hiệu “±”. Chỉ định độ lệch chuẩn hoặc KTC 95%.

15). Tránh đưa quá nhiều dữ liệu vào một bảng. Tách một bảng dài hoặc rộng thành hai bảng. Ví dụ, nếu một tác giả muốn mô tả 25 biến cơ sở khác nhau, tốt hơn là nên có hai bảng riêng biệt cho các biến bệnh tật và nhân khẩu học hơn là một bảng có 25 hàng. Việc xem xét cách một bảng phù hợp với một trang trong chương trình xử lý văn bản thường cung cấp manh mối về cách nó trông như thế nào trên một trang nhật ký.

16). Trình bày thông tin chi tiết trong các bảng khi có khả năng người đọc sẽ cần những thông tin chi tiết đó. Bảng không có nghĩa là để hiển thị nhanh chóng mà để tra cứu thông tin. Rõ ràng là có sự cân bằng giữa một mặt cung cấp nhiều số liệu thống kê có thể được quan tâm, và mặt khác cung cấp nhiều con số đến mức khó tìm được số liệu thống kê chính. Tuy nhiên, không giống như văn bản của một bài báo khoa học, được dùng để tóm tắt những phát hiện chính, các bảng là vị trí chính xác trong một bài báo để bao gồm thông tin chi tiết.

Một số ví dụ về trình bày bảng

Bảng. Đặc điểm chung của các bệnh nhân nghiên cứu

Đặc điểm

Nhóm 1 ( N=501)

Nhóm 2 (N=499)

p

Tuổi

64 (62, 66)

69 (67, 71)

<0,0001

Tiền sử gia đình (n, %)

26 (5,2)

27 (5,4)

0,9

Không tiền sử (n, %)

128 (26)

153 (31)

0,079

(có thể viết có thể 64±2, 69±2 thay cho 64 (62, 66) và 69 (67, 71)…)

Bảng: Phân bố bệnh nhân theo các giai đoạn lâm sàng

Giai đoạn

Nhóm 1 ( N=501)

Nhóm 2 (N=499)

p

1 (n, %)

85 (17)

99 (20)

0,5

2 (n, %)

180 (36)

187 (37)

3 (n, %)

142 (28)

129 (26)

4–5 (n, %)

94 (19)

84 (17)

Bảng. Sự khác biệt giá trị trung bình về điểm số cơn đau tại các thời điểm theo dõi khác nhau

Thời điểm

Nhóm 1 ( N=501)

Nhóm 2 (N=499)

p

Khi nhập viện (điểm)

6,0 (0,47)

5,9 (0,59)

>0,0

1 tháng (điểm)

3,1 (0,44)

2,0 (0,55)

<0,0001

3 tháng (điểm)

4,0 (0,43)

3,9 (0,55)

0,2

(có thể viết có thể 6,0±0,47; 5,9±0,59 thay cho 6,0 (0,47) và 5,9 (0,59)...

 




 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024