Biết số điện tích hạt nhận của nguyên tố (Z) ta có thể xác định được nguyên tố đó thuộc chu kỳ nào, nhóm nào và cấu hình electron của nguyên tố đó.
Ví dụ: cho A có Z = 16
Ta có thể viết cấu hình electron của A: 1s2 2s2 2p6 3s2 3p4
Vậy A thuộc chu kỳ 3 vì A có 3 lớp electron.
Nhóm VIA vì có electron cuối cùng điền vào phân lớp p và có 6 e lớp ngoài cùng.
Đó là nguyên tố lưu huỳnh (S).
Biết vị trí của nguyên tố có thể suy ra một số tính chất hóa học cơ bản của một số các hợp chất của nguyên tố đó. Ví dụ: Biết nguyên tố M thuộc chu kỳ 4, nhóm IIA vậy đó là kim loại kiềm thổ, chúng có thể nhường 2 electron để trở thành cation: M → M2+ + 2e tạo được hợp chất có liên kết ion là chính, hợp chất với hiđro có công thức là MH2, hợp chất với oxi là MO và hiđroxit tương ứng là M(OH)2.