CÁC HỆ THỐNG ĐỨT GÃY Ở VIỆT NAM
Cao Đình Triều, Đặng Thanh Hải, Mai Xuân Bách và Ngô Gia Thắng đã sử dụng các tài liệu địa vật lý, chủ yếu là trọng lực và từ, các bản đồ địa chất tỷ lệ khác nhau do Cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam xuất bản và ảnh viễn thám Landsat thời kỳ 1989 – 1993 và tham khảo các kết quả mới nhất trong lĩnh vực nghiên cứu đứt gãy hoạt động đã được công bố trong các tạp chí trong nước và quốc tế cũng như các báo cáo đề tài cấp nhà nước của Tổng cục Địa chất và Trung tâm Khoa học tự nhiên và công nghệ quốc gia đã được tổng kết trước năm 2001 đã nghiên cứu các đặc trưng cấu trúc các đứt gãy phía Bắc Việt Nam và phân chia các đứt gãy ra làm 5 nhóm (biểu hiện theo tuổi) như sau:
1/ Nhóm đứt gãy chắc chắn đang hoạt động, có tuổi hoạt động trong lịch sử, từ lớn hơn 200 đến nhỏ hơn 2000 năm;
2/ Nhóm đứt gãy thể hiện hoạt động rõ nét, có biểu hiện hoạt động trong Holocen (khoảng 10.000 năm).
3/ Nhóm đứt gãy có biểu hiện hoạt động, có tuổi hoạt động mạnh trong cuối Đệ tứ (lớn hơn 100.000 đến 130.000 năm).
4/ Nhóm đứt gãy hoạt động trong cuối hoặc giữa Đệ tứ (nhỏ hơn 700.000 – 730.000 năm).
5/ Nhóm đứt gãy hoạt động trong Đệ tứ, biểu hiện màu đen (tuổi hoạt động là nhỏ hơn 1,6 triệu năm).
Sau đó, các tác giả trên đã tổng kết và xác lập các đứt gãy hoạt động phần phía bắc lãnh thổ Việt Nam trên cơ sở các tiêu chí như đã mô tả ở phần trên.
Tuy nhiên, các tác giả chỉ mô tả đặc trưng biểu hiện hoạt động của các đới đứt gãy trên phạm vi đất liền miền Bắc Việt Nam.
Đặc trưng hoạt động của đứt gãy khu vực nghiên cứu là:
1/ Các đứt gãy là những đứt gãy có biểu hiện hoạt động trong Kainozoi muộn, có thể có những đứt gãy phát sinh và phát triển trong các giai đoạn trước Kainozoi muộn song tái hoạt động trở lại với mức độ khác nhau. Hiện tại có nhiều đứt gãy trong số đứt gãy đó đang có dấu hiệu hoạt động tích cực. Các đứt gãy phương tây bắc - đông nam, đông bắc - tây nam và phương kinh tuyến - á kinh tuyến chủ yếu có tính chất trợt bằng phải. Trong khi đó các đứt gãy phương vĩ tuyến - á vĩ tuyến lại trợt chủ yếu là bằng trái.
2/ Đứt gãy phát sinh động đất chính của khu vực nghiên cứu gồm: Bắc Ninh - Mông Dơng, Vĩnh Ninh, Sông Chảy, Sông Hồng, Mù Căng Chải, Sơn La, Sìn Hồ, Mai Châu - Tam Điệp, Tuần Giáo - Mường ảng, Sông Mã, Điện Biên - Sầm Na, Mường Tè, Sông Cả, Rào Nậy, Lai Châu - Điện Biên, Mai Châu - Mường Lát, Na Mèo - Na Khoang, Thuận Châu - Phù Yên và Dốc Cun - Mỹ Đức; trong số đó các đứt gãy Sơn La và Điện Biên - Sầm Na có biểu hiện hoạt động động đất mạnh (Ms = 6,0 - 6,9). Các đứt gãy còn lại có biểu hiện hoạt động động đất ở mức độ trung bình (Ms = 5,0 - 5,9) và yếu (Ms = 4,0 - 4,9). Hầu hết các đứt gãy phát sinh động đất từ cấp độ mạnh 4,0 độ Richter trở lên đều có biểu hiện rõ nét trên các dấu hiệu địa chất khác như hoạt động nước khoáng nóng tích cực, trượt lở đất và khống chế thung lũng trẻ.
3/ Mức độ hoạt động động đất dọc theo các đứt gãy phát sinh cũng có dấu hiệu không đồng nhất. Chẳng hạn đoạn đứt gãy Sơn La từ Tuần Giáo đến Thuận Châu có biểu hiện phát sinh động đất mạnh mà đặc trưng là động đất Tuần Giáo năm 1983 (Ms = 6,7). Đối với đứt gãy Điện Biên - Sầm Na thì đoạn Phi Cao - Nậm Khun lại có biểu hiện hoạt động động đất mạnh mà động đất Điện Biên năm 1935 (Ms = 6,7) là một ví dụ. Trong khi đó trên phạm vi đới Sông Chảy, biểu hiện hoạt động động đất mạnh lại tập trung ở khu vực Lục Yên, Yên Bái. Như vậy, biểu hiện phân chia các đoạn đứt gãy trên cùng một đới với đặc trưng hoạt động khác nhau là khá rõ nét. Điều này cho phép chúng ta định hướng phân vùng tai biến trên cơ sở phân chia đứt đoạn hoạt động đối với từng nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể.
4/ Rất nhiều đứt gãy được xác định là có biểu hiện hoạt động theo các chỉ thị nhận biết khác song trên thực tế không quan sát thấy có biểu hiện xuất hiện động đất trong thời gian qua.
Ở Miền Nam Việt Nam, theo Phạm Huy Long, Nguyễn Xuân Bao, Cao Đình Triều và Đỗ Văn Lĩnh, qua nghiên cứu các hoạt động kiến tạo trong Kainozoi, khu vực Miền Nam chúng ta nói riêng hay vùng Đông Nam Á nói chung bị tác động bởi các trường ứng suất sau:
1 – Ép nén chung từ phía tây nam và nam do mảng Ấn – Úc bị hút chìm dưới lục địa Âu - Á trong suốt Kainozoi.
2 – Hút chìm, đóng kín vỏ đại dương biển đông cổ dưới vỏ lục địa Bocneo kèm theo trượt bằng phải theo đứt gãy kinh tuyến Hải Nam – Natuna vào Kainozoi sớm.
3 – Căng giãn tạo Rift Kainozoi sớm và tạo vỏ đại dương biển đông hiện nay (Oligocen – Miocen sớm).
4 – Sự va mảng Ấn – Úc và Âu - Á tạo nên quá trình trượt bậc các vi mảng Đông Dương, Sunda về phía đông nam theo các đứt gãy tây bắc - đông nam: Sông Hồng, 3 Tháp, Sông Hậu. Dưới tác động trường ứng suất căng, ép, trượt nêu trên, xuất hiện nhiều ứng suất cục bộ cấp 2, 3.
Tất cả các trường ứng suất kiến tạo trên đều có tác động mạnh vào lãnh thổ Nam Việt Nam. Kết quả là hàng loạt các đứt gãy thuận - trượt bằng khu vực và nghịch cục bộ có tuổi Kainozoi xuất hiện, phân cắt lãnh thổ làm nhiều khối địa chất có kích thước khác nhau. Các đứt gãy này dễ dàng phát hiện bằng tài liệu giải đoán ảnh, phân tích trường từ và trọng lực, đặc biệt thể hiện rất rõ trên các mặt cắt địa chấn. Các đứt gãy Kainozoi này thường xuyên qua các đới, phụ đới kiến trúc cổ trước Kainozoi và có thể kế thừa toàn bộ hoặc từng phần của các đứt gãy cổ. Theo Iu. G. Gatinski (1986) vào Kainozoi lãnh thổ Đông Nam Á có 2 loại đứt gãy sâu chính hoạt động mạnh mẽ. Loại 1 phát triển dọc rìa lục địa và ôm lấy lục địa Đông Nam Á. Chúng là các đứt gãy nghịch chờm sâu xuyên thạch quyển. Theo chúng vỏ đại dương của mảng Thái Bình Dương, Ấn – Úc bị hút chìm và tiêu biến dưới mảng thạch quyển lục địa Âu - Á. Thuộc loại này còn có đới khâu Kainozoi sớm Lupar. Loại thứ 2 là các đứt gãy sâu xuyên qua vỏ trượt bằng trái, hoặc phải: Sông Hồng, Sông Hậu, Semico, Sagang, 3 Tháp, Hải Nam – Natuna, Sorông – Su La, trung Philipin. Các đứt gãy này chia vỏ trái đất lãnh thổ Đông Nam Á thành 6 vi mảng. Vùng nghiên cứu vào Kainozoi thuộc 4 vi mảng sau: Đông Nam Trung Quốc, Đông Dương, Sunda và Bocneo. Ranh giới giữa chúng là đứt gãy sâu Sông Hồng, Sông Hậu (có thể là 3 Tháp), Hải Nam – Natuna và đới tách giãn trung tâm Biển Đông. Sự thành tạo bồn trũng (hoặc Rift, hoặc kéo toạc hoặc sụt lún) và khối nâng cũng như hoạt động xâm nhập, biến dạng uốn nếp, đứt gãy cục bộ hoàn toàn phụ thuộc vào sự dịch chuyển của các vi mảng trên dọc theo các đứt gãy trượt bằng phải hoặc trái. Sự hình thành và phát triển các đứt gãy xuyên vỏ (loại 2) này lại phụ thuộc vào quá trình hoạt động của đứt gãy sâu xuyên thạch quyển (loại 1).
Trong bình đồ kiến trúc hiện nay đứt gãy vùng nghiên cứu được chia làm 4 nhóm chính có phương kéo dài khác nhau: tây bắc - đông nam ; đông bắc – tây nam; kinh tuyến - á kinh tuyến; vĩ tuyến - á vĩ tuyến. Trong 4 nhóm trên, nhóm đông bắc – tây nam phát triển mạnh mẽ và thể hiện rõ hơn cả, chúng thường đóng vai trò ranh giới giữa bồn Rift và địa lũy Kainozoi sớm kéo dài theo hướng đông bắc – tây nam.
Các đứt gãy có tuổi cổ hơn Kainozoi thường chỉ được ghi nhận trong nội các vi mảng, đới và khối. Việc ghép nối từng đoạn trong bình đồ cấu trúc hiện nay vào vị trí thành tạo ban đầu của các đứt gãy cổ còn ở mức sơ bộ.
Tại lãnh thổ này, theo các tác giả trên, bao gồm các hệ, đới, nhóm đứt gãy sau:
I – Nhóm đứt gãy phương tây bắc - đông nam .
Thuộc nhóm đứt gãy phương tây bắc - đông nam gồm 9 đứt gãy chính: (từ tây nam đến đông bắc)
1 – Đứt gãy Tây Thổ Chu (3 Tháp) (F1)
2 - Đứt gãy Hà Tiên – Gành Hào (F2)
3 - Đứt gãy Sông Hậu (F3)
4 - Đới đứt gãy Vàm Cỏ Đông – Sông Sài Gòn (F4)
5 - Đới đứt gãy Bình Long – Chứa Chan (F5).
6 – Đới đứt gãy EaSup – Krong Pak (F6).
7 - Đới đứt gãy Sông Ba (F7).
8 - Đới đứt gãy Rào Quán – A Lưới (F8).
9 - Đới đứt gãy Đảo Lý Sơn – Hòn Trâu (F9).
II – Nhóm đứt gãy phương kinh tuyến
Thuộc nhóm đứt gãy phương kinh tuyến gồm 8 đứt gãy sau (từ tây sang đông):
1 - Đứt gãy Tây Nam Du (F10).
2 - Đới đứt gãy Rạch Giá - Năm Căn (F11).
3 – Đới đứt gãy Lộc Ninh – Thủ Dầu Một (F12).
4 - Đứt gãy Đak Mil – Bình Châu (F13).
5 – Đới đứt gãy Sông PoKo (F14).
6 - Đới đứt gãy Đèo Mang Yang – An Trung (F15).
7 – Đới đứt gãy Quảng Ngãi – Củng Sơn (F16).
8 – Đứt gãy Hải Nam – Natuna (F17).
III – Nhóm đứt gãy phương đông bắc – tây nam .
Thuộc nhóm đứt gãy phương tây bắc - đông nam là các đứt gãy và đới đứt gãy :
1 - Đới đứt gãy Hiên – Hòa Vang (F18).
2 – Đới đứt gãy Ba Tơ - Kon Tum (F19).
3 – Đứt gãy Biên Hòa – Tuy Hòa (F20).
4 – Đứt gãy Đa Nhim – Tánh Linh (F21).
5 – Đứt gãy Hòn Khoai – Cà Ná (F22).
6 – Đứt gãy Nam Côn Đảo – Phú Quí (F23).
7 – Đứt gãy Hòn Hải (F24).
8 – Đứt gãy Trung tâm Biển Đông (F25).
IV – Nhóm đứt gãy phương vĩ tuyến.
Thuộc nhóm đứt gãy phương vĩ tuyến là các đứt gãy (từ bắc xuống nam).
1 – Đứt gãy An Điềm – Hội An (F26).
2 - Đứt gãy Tam Kỳ - Hiệp Đức (F27).
3 – Đới đứt gãy Trà Bồng – Trà My (F28).
4 – Đới đứt gãy Đak Mil – Krông Bông (F29).
và một số đứt gãy khác có qui mô bé hơn: đứt gãy Sông Cu Đê, Khánh Vĩnh – Diên Khánh, Mương Mán – Phan Thiết, Sa Đéc – Gò Công, Bạch Hổ.