Chatbox

Các bạn vui lòng dùng từ ngữ lịch sự và có văn hóa,sử dụng Tiếng Việt có dấu chuẩn. Chúc các bạn vui vẻ!
15/06/2023 21:06 # 1
vovanhoa1411
Cấp độ: 18 - Kỹ năng: 1

Kinh nghiệm: 84/180 (47%)
Kĩ năng: 1/10 (10%)
Ngày gia nhập: 03/03/2021
Bài gởi: 1614
Được cảm ơn: 1
BƯỚU MÁU: NGUYÊN NHÂN, TRIỆU CHỨNG, BIẾN CHỨNG VÀ CÁCH ĐIỀU TRỊ


Bướu máu là bệnh gì?

Bướu máu (u máu) là một bệnh lý mạch máu thường gặp ở trẻ, 59% xuất hiện khi mới sinh, 40% trong tháng đầu, 30% ở trẻ đẻ non cân nặng dưới 1,8kg. Bệnh được hình thành do các tế bào lót (nội mô) trong các mạch máu sinh sản nhanh chóng một cách bất thường. Bướu máu trông như một vết bớt đỏ, hơn 80% nằm ở vùng đầu, mặt và cổ, phần lớn ở ngoài da hoặc mô mỡ dưới da. Tuy nhiên, cũng có một số ít trường hợp bướu nằm ở nội tạng như: gan, phổi, ruột,… thậm chí cả ở não.

Bướu máu thường lớn rất nhanh vào thời điểm trẻ từ trên 2-9 tháng tuổi, đây là giai đoạn tăng trưởng của bướu. Sau đó, bướu phát triển chậm dần và bắt đầu đi vào thời kỳ thoái hóa và chuyển dần thành bướu sợi, mỡ hoặc hòa lẫn vào mô mỡ bình thường. Sự thoái hóa là 50% khi trẻ khoảng 5 tuổi, 70% khi trẻ 7 tuổi và thoái triển khi trẻ 10-12 tuổi. Đa số bướu máu nhỏ và “lành tính” nhưng một số có diện tích khá lớn. Hiện nay, vẫn chưa có số liệu thống kê chính xác tỷ lệ nguy hại do bướu máu ở trẻ em.

Cho đến nay vẫn chưa xác định được tại sao tỷ lệ bé gái mắc bệnh gấp 3 – 5 lần bé nam. Các yếu tố nguy cơ gồm trẻ thiếu tháng, thiếu cân và sinh đôi.

Nguyên nhân gây bệnh

Bướu máu là khối u lành tính, phát triển do các tế bào lót (nội mô) trong các mạch máu sinh sản nhanh chóng một cách bất thường. Đây không phải là bệnh di truyền, cũng không liên quan gì đến bệnh tật, thuốc men hay thức ăn của mẹ bầu trong lúc mang thai. Đến nay vẫn chưa xác định rõ ràng được nguyên nhân xuất hiện bướu máu. Có nhiều giả thuyết gây nên bệnh như:

  • Từ phôi thai, do di tích của trung bì phôi thai.
  • Nhiễm virus gây u nhú trên người (Human Papillomavirus – HPV) do mẹ nhiễm HPV lúc mang thai và sinh con, gây mất kiểm soát điều hòa tăng sinh tế bào nội mạch của mạch máu.
  • Nội tiết: nghiên cứu cho thấy ở trẻ u máu nồng độ của 17-Beta Estradiol cao.
  • Heparin do các dưỡng bào tiết ra gây kích thích tế bào sợi và tế bào nội mạch tăng ở các trẻ u máu.

Phân loại bệnh bướu máu

Bệnh bướu máu ở trẻ em được phân chia thành 3 dạng lâm sàng như sau:

Bướu máu trong da (nông): Xuất hiện như một vết son hay một mảng màu đỏ tươi nổi hờ trên da bình thường, ấn xuống không mất màu.

Bướu máu dưới da (sâu): Thường là một vùng nổi gờ có màu sắc đỏ nhạt, nằm phía dưới của vùng da bình thường hay da xanh nhợt. Trong đa số trường hợp, u lan rộng và xâm lấn mô dưới da, cơ và có thể làm biến dạng cơ thể. Loại u này có thể xuất hiện cả ở các cơ quan nội tạng, hay trong não.

Bướu máu hỗn hợp: là loại phổ biến nhất (chiếm 75%), mang đặc điểm của 2 loại trên, thương tổn đơn lẻ hoặc nhiều u. Vị trí u máu có thể bất kỳ nhưng thường gặp ở vùng đầu, mặt, cổ (50-75%), kích thước thường dưới 3cm đường kính (60-80%).

Phân biệt bướu máu với dị dạng mạch

Bệnh bướu máu trẻ em cho đến nay vẫn hay bị nhầm lẫn với các dạng bệnh lý mạch máu khác như dị dạng mạch máu. Do đó, cần phân biệt rõ ràng 2 bệnh để có hướng điều trị thích hợp cũng như tiên lượng trước, sau điều trị.
Bướu máu là do tăng sinh tế bào nội mạch tiến triển qua 3 giai đoạn: tăng sinh, ổn định, thoái triển. Thường bệnh sẽ tự khỏi sau khi trẻ lớn.

Dị dạng mạch máu là kích thước thể tích mạch, độ chun giãn không bình thường, không có sự tăng sinh bất thường của tế bào nội mạch, mạch lớn lên tỷ lệ thuận với sự tăng trưởng của trẻ, tiến triển có thể đơn giản, phức tạp hoặc phối hợp. Dị dạng mạch có thể là mao mạch, bạch mạch, tĩnh mạch, động mạch.

Triệu chứng bệnh bướu máu là gì?

Bướu máu là bệnh thường gặp ở da nên có dấu hiệu nhận biết khá rõ ràng và biểu hiện dưới 3 cấp độ:

  • Cấp độ nhẹ: Trên da có những vết thay đổi màu sắc, thường màu đỏ, đỏ tím hoặc phớt xanh. Ở giai đoạn này, chúng ít khi tạo thành khối u mà chỉ bằng phẳng như bớt ở trẻ sơ sinh;
  • Cấp độ trung bình: Bướu máu phát triển thành một khối u thực sự, gồ lên hoặc đội da lên thành một khối có hình dạng, kích thước rõ ràng. Chúng vẫn mang màu sắc như cũ, màu của máu trong khối u;
  • Cấp độ nặng: Giống như dạng trung bình nhưng có biểu hiện kèm theo khi khối u vỡ ra hoặc biến chứng. Nếu khối u trên da thì sẽ chảy máu, khối u ở sâu trong cơ thể thì sẽ vỡ ra, loét. Ngoài ra, bệnh nhi còn có những dấu hiệu đặc thù ở các cơ quan có khối u to lên, chèn ép vào nội tạng.

Các giai đoạn phát triển của bệnh bướu máu

Giai đoạn tăng sinh: Thường diễn ra trong 3 tháng, nhưng có khi diễn ra trong 6 tháng với bướu máu nông, 8-10 tháng với bướu máu sâu. Trong giai đoạn này, 80% bướu máu tăng gấp đôi kích thước; trong đó khoảng 5% phát triển ồ ạt, có thể đe dọa tính mạng, ảnh hưởng chức năng và thẩm mỹ của trẻ.

Giai đoạn ổn định: Sau giai đoạn tăng sinh, bướu máu dần dần ổn định cả kích thước và dấu hiệu lâm sàng, kéo dài đến tháng thứ 18-20.

Giai đoạn thoái triển: Thời gian đầu, màu da nhạt dần sau đó u máu dưới da xẹp dần, nhưng chậm hơn. Sự thoái triển này xảy ra đến 70-80% các trường hợp sau 6 tuổi. Sự thoái triển của u máu dưới da thường chậm hơn u máu da.

Khi trẻ được 12 đến 18 tháng tuổi, bướu có thể bắt đầu chuyển sang màu hồng nhạt. Đây là một dấu hiệu cho thấy chúng đang dần biến mất. Nếu bướu máu bị tổn thương có thể gây chảy máu kéo dài và nhiễm trùng thành vết loét nếu không vệ sinh sạch sẽ.

Bướu máu: Nguyên nhân, triệu chứng, biến chứng và cách điều trị

Bướu máu: vết bớt “lành tính” phổ biến thời thơ ấu, khoảng 90% bướu sẽ thoái triển khi trẻ 10-12 tuổi.

Biến chứng của bệnh bướu máu

Bướu máu phát triển trong những năm đầu đời của trẻ, đa phần tự teo đi khi trẻ lớn lên và tự khỏi, ít trường hợp u tồn tại và phát triển to. Bên cạnh đó, u máu thường nằm ngoài da nên cũng rất dễ phát hiện bệnh, giúp bác sĩ có phương án theo dõi, điều trị kịp thời, hiệu quả người bệnh. Tuy nhiên, cũng có một số trường hợp bướu máu không tự teo mà gây ra biến chứng.

Về bản chất, bướu máu ở trẻ em ít nguy hiểm vì đa phần là bướu máu da, chỉ một số ít trường hợp biến chứng bệnh bướu máu cơ quan khác có thể gây nguy hiểm, đó là:

  • Bướu nằm ở hầu họng có thể gây khó thở khi bướu phát triển quá lớn. Bệnh nhi cũng bị khàn tiếng kéo dài, ho nhiều;
  • Bướu ở thanh quản có thể khiến bệnh nhi ho ra máu nhiều và khó cầm do vị trí khối u ở sâu;
  • Bướu ở tim có thể làm giảm lưu thông tuần hoàn qua tim do u máu chiếm chỗ, lâu dần có thể dẫn đến suy tim;
  • Bướu ở trong cột sống dễ làm yếu xương;
  • Bướu ở trong mắt có thể gây suy yếu thị lực;
  • Bướu trong tai dễ gây suy giảm thính lực;
  • Bướu có thể gây loét, chảy máu hoặc nhiễm trùng, hoại tử;
  • Bướu mạch máu dẫn tới hội chứng Portwine stains (bớt màu rượu vang). Nếu bớt xuất hiện trên trán, mí mắt hoặc hai bên khuôn mặt dễ dẫn tới bệnh tăng nhãn áp, nếu không được điều trị có thể dẫn đến mù lòa.
  • Bướu máu dẫn tới hội chứng Sturge Weber, đặc trưng bởi tình trạng tổn thương dị dạng mạch máu trên da kết hợp với bất thường mạch máu vùng mắt. Với các triệu chứng như: động kinh, liệt nửa người, cườm mắt và chậm phát triển thần kinh (55-92% trường hợp);

Chính các biểu hiện và biến chứng đó, xử trí bướu máu đòi hỏi sự kết hợp giữa nhiều chuyên khoa như mắt, tai mũi họng, thần kinh, phẫu thuật hàm mặt, nhi, da liễu…

Bướu máu: Nguyên nhân, triệu chứng, biến chứng và cách điều trị
Bướu máu ở trẻ dễ bị nhầm lẫn với bệnh dị dạng mạch máu, vì vậy Bố Mẹ không nên chủ quan với bệnh.

Chẩn đoán bệnh bướu máu ra sao?

Để chẩn đoán chính xác tình trạng bệnh, các bác sĩ chủ yếu dựa vào sự tiến triển của 3 giai đoạn qua theo dõi, thăm khám lâm sàng.

  • Siêu âm có thể giúp chẩn đoán trong giai đoạn tăng sinh và các u máu lớn.
  • Cộng hưởng từ hay chụp cắt lớp có thể giúp ích đối với các trường hợp u máu có biến chứng đe dọa đến tính mạng trẻ.
  • Chụp mạch nên chỉ định khi cần nút mạch.
  • Sinh thiết: Thường không cần thiết vì hỏi tiền sử bệnh nhân và các dấu hiệu có trên lâm sàng sẽ biết u máu hay dị dạng mạch.

Phương pháp điều trị bướu máu ở trẻ

Do tính chất lành tính và biến mất tự nhiên của bướu máu nên 90% trẻ không cần chữa trị gì. Việc điều trị trong giai đoạn sớm chỉ áp dụng cho những bướu nằm ở vị trí đặc biệt ảnh hưởng đến những chức năng bình thường của trẻ như: thở, nhìn, ăn uống, đi vệ sinh. Trong một số trường hợp, bướu máu có biến chứng như chảy máu, loét, nhiễm trùng, hay ảnh hưởng đến thẩm mỹ về sau cũng cần điều trị. Một số phương pháp được sử dụng để điều trị được áp dụng như:

  • Laser (tia xạ, đốt) là biện pháp duy nhất cho các dị dạng mạch máu loại mao mạch (còn gọi là bớt rượu vang), thời điểm tốt nhất là từ 3-6 tháng tuổi bắt đầu điều trị mỗi 2 tháng.
  • Uống thuốc: Hiện tại có 2 loại thuốc trẻ có thể dùng, thứ nhất là Corticoid uống, cần cân nhắc kỹ vì thuốc có nhiều tác dụng phụ, khoảng 1/3 trẻ có đáp ứng. Thuốc thứ 2 là Propranolol dùng với liều rất nhỏ 0.5-1 mg/kg/24h. Vì là thuốc tim mạch sẽ ảnh hưởng đến nhịp tim, phụ huynh tuyệt đối không được tự ý cho trẻ uống thuốc khi chưa có chỉ định của bác sĩ.
  • Phụ huynh không nên ngưng giữa chừng khi đang điều trị vì bướu dễ có hiện tượng dội ngược “rebound”, tức là tăng sinh trở lại nhiều hơn sau ngưng thuốc. Phụ huynh bắt buộc phải hỏi ý kiến bác sĩ thêm nếu muốn ngưng thuốc.
  • Tiêm Corticoid: đạt được hiệu quả đáng kể và ít nguy hiểm hơn nhiều so với uống Corticoid, chích thuốc tại chỗ kèm theo dõi định kỳ là biện pháp hiệu quả cao, đặc biệt với bướu máu của tuyến mang tai.
  • Phẫu thuật: Rất hiếm khi có chỉ định phẫu thuật, trừ khi bướu làm ảnh hưởng tới chức năng hoặc biến dạng nơi mang bướu, nhất là các bướu ở vùng mắt, ống tai, đường thở…



 
Copyright© Đại học Duy Tân 2010 - 2024